Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit.Morbi adipiscing gravdio, sit amet suscipit risus ultrices eu.Fusce viverra neque at purus laoreet consequa.Vivamus vulputate posuere nisl quis consequat.
Câu 3: Trang 105 – sgk lịch sử 10 Hãy nhận xét về đời sống văn hóa của nhân dân thời Lý, Trần, Lê.
Đời sống văn hóa của nhân dân Đại Việt dưới thời Lý, Trần, Lê phát triển phong phú và đa dạng. Ngoài những nét vă hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc và dân gian thì đất nước chúng ta còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố từ bên ngoài vào. Trắc nghiệm lịch sử 10 bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X - XV (P2) Từ khóa tìm kiếm Google: đời sống văn hóa của nhân dân thời Lý, Trần, Lê, đời sống văn hóa nhân dân thời lý, đời sống văn hóa của nhân dân thời trần lê, xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc.
Hay nhất
- Quan tâm giáo dục, hạn chế con vua, quan mới thi cử chưa qui củ.
Văn học đời Lý đã đặt cơ sở cho lịch sử phát triển của văn học thời đại sau. Văn học thời kì này đã gắn với những truyền thống tốt đẹp, vốn có từ lâu của dân tộc. Giới thiệu về văn học đời LýVài nét về hoàn cảnh lịch sử– Chính trị – xã hội:+ Ở thời đại nhà Lý, ý thức tự tôn dân tộc được để cao, quốc gia phong kiến được củng cố vững chắc. Nhân dân ta đã chiến thắng quân xâm lược nhà Tống. + Sự kiện Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long đã thể hiện được tầm nhìn và hoài bão vươn lên của giai cấp phong kiến. + Để đời sống nhân dân bớt khổ, các vua Lý còn ra nhiều chiếu xá thuế, giảm thuế cho nhân dân. – Tôn giáo:Phật giáo được để cao. Vai trò của tăng lữ được thể hiện rất rõ trong xã hội cũng như trong văn học. Phái Thiền tông chiếm vị trí quan trọng trong tôn giáo của Nhà nước. . – Văn hóa:nhiều công trình nghệ thuật được xây dựng. —> Nhìn chung ở thời Lý, chính trị, xã hội và văn hóa có nhiều điểm tốt đẹp, tạo đà cho văn học phát triển. Văn học đời Lý– Văn học viết chính thức ra đời, chủ yếu được sáng tác bằng chữ Hán. – Lực lượng sáng tác: vua quan tướng lĩnh (Lý Thái Tông, Lý Nhân Tông Lý Thường Kiệt..) và các nhà tu hành (Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Chiếu Không Lộ, Quảng Nghiêm, Viên Thông, Diệu Nhân..). – Tác phẩm:+ Những tác phẩm chính luận có giá trị văn học: Chiếu đời đô (Lý Thị Tổ), Chiếu miễn thuế (Lý Thái Tông), Chiếu để lại lúc lâm chung (Lá Nhã Tông), Chiếu nhường ngôi (Lý Chiêu Hoàng), Văn lộ bố (Lý Thường Kiệt).. + Phần chủ yếu trong văn học thời Lýlà thơ, tuy không nhiều: Thơ Thiên, bài thơ Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt ?) tiêu biểu cho tinh thần của thời đại và nêu cao truyền thống tốt đẹp nhất mà văn học đời Lý có thể để lại cho đời sau. – Nội dung:+ Văn thơ thể hiện tinh thần yêu nước: Quốc tộ (Pháp Thuận); Thiên đô chiếu (Lý Công Uẩn);, Chiếu miễn thuế (Lý Thái Tông); Phạt Tống lộ bố văn và Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt). + Văn thơ thuyết minh cho giáo lí nhà Phật: ,
-> Thơ của các Thiền sư “đạo” mà hết sức “đời”, ảnh hưởng không nhỏ đến tỉnh thần tự lập tự cường của con người Việt Nam trong thời kì nhà Lý thời kì mà con người cần tư tưởng ấy, phẩm chất ấy hơn bao giờ hết để xây dựng bảo vệ đất nước. – Với hai nội dung lớn, văn học đời Lý đã đặt cơ sở cho lịch sử phát triển của văn học thời đại sau. Văn học thời kì này đã gắn với những truyền thống tốt đẹp, vốn có từ lâu của dân tộc. – Các tác giả đời Lý đã tạo nên những thành tựu cho chặng đường đầu tiên của văn học viết. Những thành tích khởi đầu, những bông hoa đầu mùa ấy sẽ được các tác giả đời Trần sau này phát huy rực rỡ với hào khí Đông A nổi tiếng. Bài làm Có thể nói những trang đầu tiên của nền văn học viết Việt Nam chính là những trang văn học đời Lý và người chính thức mở ra trang đầu của lịch sử văn học viết là Lý Thái Tổ với bài Chiếu dời đô nổi tiếng (năm 1010). Từ đây, một nền tảng văn học (viết) được hình thành, khá bề thế và vững chãi. Trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, nhà Lý nổi bật với ý .thức tự tôn dân tộc. Bằng tinh thần yêu nước, ý chí quật cường, các vị vua triều Lý đã lãnh đạo nhân dân ta chiến đấu và chiến thắng quân xâm lược nhà Tống, củng cố vững chắc quốc gia phong kiến. Sự kiện Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long (năm 1010) đã thể hiện được tầm nhìn và hoài bão vươn lên của giai cấp phong kiến thời đại này. Không chỉ dốc lòng, gắng sức cho sự vững bền của dòng tộc, triều đại, các vị vua đời Lý còn tết quan tâm đến đời sống nhân dân. Để dân bớt đói khổ, nhiều vị vua còn ra chiếu xá thuế, giảm thuế cho dân… Ở thời đại nhà Lá, Phật giáo rất được để cao. Trong đó phái Thiền tông chiếm vị trí quan trọng trong tôn giáo của Nhà nước. Vai trò của tăng lữ được thể hiện rất rõ trong xã hội cũng như trong văn học. Thời Lý cũng có nhiều công trình nghệ thuật được xây dựng như tháp Báo Thiên, chùa Quỳnh Lâm, đỉnh Phổ Vinh, chuông Quy Điền, chùa Một Cột.. Năm 1070, nhà Lý cho dựng Văn Miếu thờ Khổng Tử. Năm 1075, nhà Lý mở khoa thi Tam trường để kén chọn nhân tài. Năm 1076, xây dựng Quốc Tử Giám để dạy con em quý tộc.. Nhìn chung ở thời Lý, chính trị – xã hội, văn hóa – giáo dục đều đạt được những thành tựu lớn và đó cũng chính là nền tảng vững chắc tạo đà cho văn học phát triển. Đến thời Lý, văn học viết chính thức ra đời và chủ yếu được sáng tác bằng chữ Hán. Tham gia sáng tác chủ yếu là vua quan tướng lĩnh và các nhà tu hành (Lí Thái Tông, Lí Nhân Tông, Lí Thường Kiệt. Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Chiếu, Không Lộ, Quảng Nghiêm, Viên Thông, Diệu Nhân..). Nổi bật trong văn học đời Lý là những sáng tác chính luận và thơ. Tiêu biểu cho các tác phẩm chính luận phải kể đến Chiếu dời đô (Lý Thái Tổ), Chiếu miễn thuế (Lý Thái Tông), Chiếu để lại lúc lâm chung (Lý Nhân Tông), Chiếu nhường ngôi (Lý Chiêu Hoàng), Văn lộ bố (Lý Thường Kiệt).. Phần chủ yếu trong văn học thời Lý là thơ, tuy số lượng các sáng tác không nhiều. Đó là những bài thơ Thiền của các vị Thiên sư và những bài thơ của vua quan triều Lý. Thơ văn đời Lý trước hết thể hiện một tỉnh thần yêu nước với những cảm xúc phong phú. Đó là Quốc tộ (Pháp Thuận) với niềm tự hào và tin tưởng ở vận mệnh của Tổ quốc:
Đó là Thiên đô chiếu (Lý Công Uần) với ý chí muốn đóng nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con cháu muôn đời và tin tưởng nếu (rên theo mệnh trời, dưới chiêu lòng dân, thấy thuận lợi mới thay đổi, thì vận nước vững bền, phong tục giàu thịnh. Chí lớn của Lý Thái Tổ cũng chính là khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh. Đó là Chiếu miễn thuế (Lý Thái Tông) với nỗi niềm trăn trở ăm ắp lòng thương xót nhân dân và nhận thức về mối quan hệ giữa vận mệnh của nhân dân với vận mệnh của mình: Nếu thiên hạ no đủ thời trẫm đây há chẳng no đủ hay sao?. Đó là Phạt Tống lộ bố văn (Lý Thường Kiệt) nêu cao tinh thần yêu thương nhân dân, yêu chuộng hòa bình, căm ghét kẻ cẩm quyên thường xuyên gây chiến tranh và chỉ rõ mục đích của đội quân điếu dân phạt tội: đẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có phân biệt quốc thể, không phân biệt chúng dân. Đó là Nam quốc sơn hè chứa đựng tư tưởng lớn và tình cảm lớn của thời đại, phản ánh ý chí tự cường và khí phách của con người Đại Việt:
Bên cạnh nội dung yêu nước, thơ văn đời Lý còn thể hiện tư tưởng giáo lý nhà Phật. Ở thời kì nhà Lý, Phật giáo được đề cao. Đối với tầng lớp cao tăng, những cư sĩ có học vấn thì Phật giáo được coi là một thứ vũ trụ quan, nhân sinh quan, một thứ triết lý. Các nhà tu hành đời Lý đồng thời cũng là thi sĩ. Những bài kệ để răn dạy đệ tử đồng thời cũng là những áng thơ có giá trị tư tưởng cao. Những sáng tác của các nhà thơ đời Lý được tập hợp trong cuốn Thiền uyển tập anh. Những sáng tác này mang màu sắc triết lí và thể hiện tư tưởng nhân sinh khi Phật giáo trở thành quốc giáo. Đọc thơ Thiền đời Lý, trước hết chúng ta bắt gặp thái độ bình thản trước quy luật của tạo hóa. Thiền tông có chủ trương “vạn vật nhất thể”, Vạn là sự tản ra của một, một là nguồn gốc của luận (Bài mình ở chùa Linh Xứng – Pháp Bảo), các nhà tu hành phải lấy tâm định tư duy làm phép tu luyện, lấy chân lý ngay ở lòng mình để phân định sự tổn tại của ngoại giới.Bởi vậy họ không hốt hoảng, lo sợ trước cái ngắn ngủi của kiếp người. Thiền sư Vạn Hạnh trong một bài thơ dạy đệ tử của mình trước khi chết đã viết:
Bài thơ nhắn nhủ chúng sinh không nên sợ hãi trước sự tiêu diệt, không nên lo ngại trước sự đổi thay, biến động. Cũng tỉnh thần như nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác Thiền sư trước khi đi vào cõi vĩnh hằng đã để lại cho chúng sinh bài Cáo tật thị chúng với thông điệp: Tất cả đi vào cõi vĩnh hằng, chỉ có bản thể được bảo tồn..Bởi vậy con người ta phải bình thản trước lẽ hóa sinh, phải có niềm tin vào cuộc sống:
Thơ Thiền đời Lý không chỉ thuyết minh cho tư tưởng, giáo lý nhà Phật mà còn thể hiện một thái độ tích cực nhập thế, gắn bó sâu sắc với con người và tạo vật. Tuy rằng đạo Thiển đề cao chủ quan, phủ nhận khách quan nhưng trong cuộc sống, các Thiền sư nước ta không hề quay lưng lại với thực tế mà họ sắn săng lo đời giúp nước. Có nhà sư đã từng giúp triều đình làm công việc ngoại giao và tổ rõ vai trò của họ trong việc xây dựng nên độc lập của đất nước. Sư Thiện Quang ở chùa Từ Sơn từng nói với sứ giả của Lý Nhân Tông: “Bản đạo sinh ra ở đất vua, ăn cơm gạo của vua, ở núi thờ Phật, đã trải qua nhiều năm mà công đức chưa thành rất là hổ thẹn”. Tư tưởng đó chúng ta còn bắt gặp trong nhiều sáng tác của các vị Thiền sư – nghệ sĩ, những con người tuy sống cuộc sống của tu hành khổ hạnh nhưng luôn biết rung động mãnh liệt trước cảnh vật thiên nhiên. Nhà sư Viên Chiếu tuy giải thích sự kì diệu của đạo Thiền nhưng thực ra ông đã tả cảnh thiên nhiên khá đẹp:
Hay trong Ngư nhàn, Không Lộ Thiền sư cũng tả một cảnh trời mây non nước đẹp như cõi mộng với muôn dặm sông xanh: .
Cũng chính Không Lộ, trong một bài thơ khác đã thể hiện một các phóng khoáng sự hòa cảm với thiên nhiên của mình:
Thiền sư Viên Chiếu cũng có những lời thơ rất đẹp về thiên nhiên:
Những lời thơ trên đây thực chất là những lời kệ của các Thiền sư dùng để đáp giải bằng hình tượng những câu hỏi của đệ tử về lẽ đạo. Nhưng độc lập với những thuyết giáo về Thiền học, mỗi lời thơ này đã miêu tả thiên nhiên với cảm tình thắm thiết, với niềm lạc quan yêu đời. Nhìn chung bộ phận văn học được sáng tác bởi các nhà sư vừa là lời giáo huấn các vị đệ tử, nhưng nhiều khi nội dung của nó lại vượt ra khỏi phạm vi của giáo lí, biểu lộ tình yêu cuộc sống, tình yêu thiên nhiên và tư tưởng nhập thế tích cực. Vì vậy thơ của các Thiền sư “đạo” mà hết sức “đời”, ảnh hưởng không nhỏ đến tinh thần tự lập tự cường của con người. Việt Nam trong thời kì nhà Lý – thời kì mà con người cần tư tưởng ấy, phẩm chất ấy hơn bao giờ hết để xây dựng bảo vệ đất nước. Với hai nội dung lớn trên đây, văn học đời Lý đã đặt cơ sở cho lịch sử phát triển của văn học thời đại sau. Văn học thời kì này đã gắn với những truyền thống tốt đẹp, vốn có từ lâu của dân tộc. Cũng trên cơ sở ấy, các tác giả đã tạo nên những thành tựu cho chặng đường đầu tiên của văn học viết. Những thành tích khởi đầu, những bông hoa đầu mùa ấy sẽ được các tác giả đời Trần sau này phát huy rực rỡ với hào khí Đông A nổi tiếng. Văn học đời Lý đã hoàn thành sứ mệnh mở đường của mình trong lịch sử văn học dân tộc và đó cũng chính là lí do để chúng ta vẫn đọc và yêu mến các sáng tác này dẫu tròn một ngàn năm trôi qua. |