Nhà đầu tư bao gồm ba nhóm: nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Từ Luật Đầu tư năm 2005 đến Luật Đầu tư hiện hành (2014) quy chế pháp lý về nhà đầu tư được quy định thống nhất trong một văn bản pháp luật và cả hai đạo luật này đều chung một quan điểm về nhà đầu tư. Theo Luật Đầu tư năm 2014, nhà đầu tư là cá nhân, tổ chức thực hiện hoạt động đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, thay vì liệt kê các chủ thể được coi là nhà đầu tư như Luật Đầu tư năm 2005, Luật Đầu tư năm 2014 đã khái quát hóa nhà đầu tư thành các nhóm cụ thể. Theo đó, nhà đầu tư bao gồm ba nhóm: (i) nhà đầu tư trong nước, (ii) nhà đầu tư nước ngoài, (iii) tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Bài tư vấn pháp luật được thực hiện bởi: Luật gia Nguyễn Văn Hoàng – Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198 (i) Nhà đầu tư trong nước Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tố chức kinh tế không có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông. Tổ chức kinh tế bao gồm các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo Luật hợp tác xã, hộ kinh doanh. (ii) Nhà đầu tư nước ngoài Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. (iii) Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông. Theo đó, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có thể được thành lập ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài nhưng phải có ít nhất một thành viên (cổ đông) là nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Luật Đầu tư hiện hành còn phân loại tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài theo tiêu chí tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài bao gồm tổ chức kinh tế có vốn đầu tư ước ngoài được hưởng quy chế pháp lý như nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được hưởng quy chế pháp lý như nhà đầu tư trong nước. Tổ chức kinh tế phải đáp ứng điều kiện và thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vổn góp của tổ chức kinh tế - đầu tư theo hợp đồng BCC thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Trường hợp 1: Có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên hoặc có đa số thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài đối với tổ chức kinh tế là công ty hợp danh; - Trường hợp 2: Có tổ chức kinh tế ở trường hợp trên nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên - Trường hợp 3: Có nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế quy định tại trường hợp (i) nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên. Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài không thuộc các trường hợp trên thực hiện điều kiện và thủ tục đầu tư theo quy định đối với nhà đầu tư trong nước khi đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC. Khi xem xét tư cách chủ thể của Luật Đầu tư, cần phân biệt khái tiệm “nhà đầu tư” và khái niệm “thương nhân”. Trong pháp Luật Thương mại, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại thường xuyên, độc lập và có đăng ký kinh doanh. Như vậy, một số chủ thể (chẳng hạn như cá nhân, tổ chức kinh tế không có đăng ký kinh doanh nhưng thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh) được coi là nhà đầu tư nhưng không là thương nhân. Với quy định trên, khái niệm “nhà đầu tư” có nội hàm hẹp hơn khái niệm “thương nhân”. Qua đó, Luật Đầu tư năm 2014 đã cố gắng đảm bảo tối đa quyền tự do kinh doanh của cá nhân, tổ chức đồng thời thể hiện quan điểm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, tôn trọng các cam kết tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong lĩnh vực đầu tư. Ngoài ra, việc phân loại nhà đầu tư thành ba nhóm rõ ràng còn nhằm mục đích phục vụ cho việc áp dụng thủ tục đầu tư. Nhóm nhà đầu tư trong nước khi tiến hành hoạt động đầu tư không phải làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Nhóm nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư trong mọi trường hợp. Đối với nhà đầu tư là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ căn cứ vào tỷ lệ sở hữu vổn của nhà đầu tư nước ngoài trong đó để xem xét có cần thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hay không. Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
Ngày hỏi:07/06/2016
Đầu tư có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong đó nhà đầu tư chính là chủ thể thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh. Vậy nhà đầu tư là gì theo quy định của pháp luật hiện hành? Nội dung này được Công ty Luật Vinabiz tư vấn như sau:
Theo quy định của pháp luật đầu tư nhà đầu tư được hiểu là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó: - Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh tế không có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông. - Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. - Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông. Nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư có thể thực hiện dưới 3 hình thức là đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế và đầu tư theo hình thức hợp đồng. Căn cứ pháp lý: Khoản 13, 14, 15, 17 Điều 3 Luật đầu tư 2014. Nguồn:Theo TinMớiNội dung tư vấn trên đây chỉ mang tính tham khảo, Quý độc giả cần xem Căn cứ pháp lý của tình huống này để có thông tin chính xác hơn.
Nhà đầu tư là những tổ chức, cá nhân tiến hành việc mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán nhằm mục đích sinh lời. Nhà đầu tư là những người cung cấp vốn cho thị trường chứng khoán để tạo ra tính thanh khoản cho các chứng khoán, chứng chỉ đầu tư của các công ty đại chúng, các quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán tham gia thị trường. Do vậy, nhà đầu tư giữ vai trò quyết định đối với sự sôi động và phát triển của thị trường chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán có sự tham gia của nhiều nhà đầu tư với hình thức, năng lực tài chính, mục tiêu và quy mô đầu tư khác nhau. Dựa vào những tiêu chí đó, có thể chia nhà đầu tư thành các loại sau. – Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, hoạt động mua bán chứng khoán riêng lẻ thường chứa đựng rất nhiều rủi ro, nhất là những người có ít kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Cho nên các nhà đầu tư thường lựa chọn những hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình; – Nhà đầu tư có tổ chức là những định chế đầu tư do các nhà đầu tư riêng lẻ hợp lại với nhau tạo thành (thường là các quỹ đầu tư chứng khoán). Đầu tư thông qua tổ chức có ưu điểm nổi bật là cho phép đa dạng hóa danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được đưa ra bởi các chuyên gia có kinh nghiệm, do vậy có thể giảm thiểu được rủi ro và tăng tính hiệu quả của hoạt động đầu tư. Hình minh họa. Nhà đầu tư là gì? Phân loại nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán– Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là những tổ chức coi việc đầu tư chứng khoán là hoạt động kinh doanh thường xuyên của mình. Theo quy định của Luật Chứng khoán 2019, nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, Công ty cho thuê tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh chứng khoán… Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư; Xem thêm: Cách xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp – Nhà đầu tư chứng khoán nghiệp dư là những nhà đầu tư thực hiện việc mua và bán chứng khoán một cách không chuyên nghiệp. Phần lớn nhà đầu tư không chuyên thường là các cá nhân, họ tự phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư của mình. – Nhà đầu tư chứng khoán trong nước là các tổ chức, cá nhân trong nước có hoạt động đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam; – Nhà đầu tư chứng khoán nước ngoài là những tổ chức, cá nhân nước ngoài được phép mua, bán, nắm giữ chứng khoán tại Việt Nam theo Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán. Nhà đầu tư chứng khoán khi sở hữu cổ phần của công ty đại chúng, chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán hoặc chứng chỉ của công ty đầu tư chứng khoán thì có các quyền của một cổ đông của công ty hay tổ chức đó, trong đó có quyền được tham gia quản lý các công ty đại chúng hoặc các quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán. Nhà đầu tư thực hiện các quyền này thông qua Đại hội đồng cổ đông (đối với công ty đại chúng) hoặc Đại hội nhà đầu tư (đối với các quỹ đầu tư hay công ty đầu tư chứng khoán). Nếu công ty đại chúng hoặc các quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán mà nhà đầu tư sở hữu cổ phiếu làm ăn có lãi thì nhà đầu tư được trả cổ tức cho số cổ phần mà họ sở hữu. Cổ tức có thể được trả bằng tiền mặt, bằng cổ phiếu hoặc quyền mua chứng chỉ của công ty, quỹ đầu tư chứng khoán hoặc công ty đầu tư chứng khoán mà nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu. Trong hoạt động đầu tư chứng khoán, các nhà đầu tư có quyền quyết định loại chứng khoán hoặc chứng chỉ quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán cần mua, có quyền xác lập và quản lý danh mục đầu tư của mình (trừ trường hợp đầu tư có tổ chức thì quyền của các nhà đầu tư là thành viên của những tổ chức đầu tư chứng khoán sẽ bị hạn chế). Nhà đầu tư có quyền bán chứng khoán đã mua và mua vào những loại chứng khoán mới nhằm cơ cấu lại danh mục đầu tư nhưng phải tuân theo các quy định của pháp luật về chứng khoán. Khi thực hiện các giao dịch chứng khoán làm phát sinh lợi nhuận thì nhà đầu tư được hưởng những khoản lợi nhuận đó sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính với nhà nước. Do đặc thù của hoạt động kinh doanh chứng khoán nên nhà đầu tư chứng khoán phải đáp ứng những điều kiện và tuân thủ những ràng buộc của pháp luật về chứng khoán. Nhà đầu tư phải đăng ký làm thành viên và mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại một công ty chứng khoán là thành viên của sở giao dịch chứng khoán. Việc mua, bán chứng khoán phải tiến hành thông qua công ty chứng khoán đó. Nhà đầu tư phải lưu ký chứng khoán thuộc quyền sở hữu của mình tại trung tâm lưu ký chứng khoán. Mọi giao dịch chuyển quyền sở hữu chứng khoán từ người bán sang người mua và ngược lại, kể cả việc thanh toán bù trừ hoặc thanh toán tiền mua, bán chứng khoán, đều được thực hiện thông qua trung tâm lưu ký chứng khoán. Nhà đầu tư phải tuân thủ các quy định về giao dịch của các công ty chứng khoán, các quy định của pháp luật về giao dịch chứng khoán và phải trả phí giao dịch cho các công ty chứng khoán trong trường hợp có giao dịch được thực hiện. Trong trường hợp việc chuyển nhượng chứng khoán làm phát sinh lợi nhuận cho nhà đầu tư thì nhà đầu tư phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước (nếu pháp luật có quy định). |