6
Trên cơ sở các định nghĩa nêu trên, khái niệm nguyên liệu có thể được
định nghĩa như sau: "nguyên liệu là yêu tố vật chất và được sử dụng như là
đấu vào của một quá trình biến đôi vật chất nào đó nhu sắn xuất hay chê
tạo để tạo ra vật thể mà con người có thể sử dụng vào mục đích nhất định."
Nội hàm của khái niệm này cho thấy nguyên liệu phải gắn liền với một
hoạt động sản xuất hoặc chế tạo. Với mỗi một ngành công nghiệp sẽ có các
loại nguyên liệu khác nhau và ngay trong một ngành công nghiệp, các hoạt
động sản xuất và chế tạo khác nhau cũng sẽ có các yếu tố nguyên liệu khác
nhau. Một sản phẩm cuối cùng được chế tạo tỉ nguyên liệu A của quá trình
sản xuất B lại cũng có thế là yếu tố nguyên liệu đầu vào của quá trinh sản xuất
c nào đó để tạo ra sản phẩm D. Ví dụ quặng sắt là nguyên liệu cho ngành sản
xuất phôi thép, phôi thép là nguyên liệu của quá trình sán xuất thép tấm, và
thép tấm lại là nguyên liệu đê sản xuất ra ó tô, tủ lạnh, máy giặt v.v
"Dệt may", ngược lại, là một tỉ ghép thuần Việt của hai tỉ đơn "dệt" và
"may". Nó có ý nghĩa chỉ hoạt động dệt vải tỉ sợi và may quần áo tù vải. Dệt
may, theo đó, là khái niệm chỉ mọi hoạt động liên quan đến dệt vải và may đồ
đế mặc.
Kết hợp lại, ta có thể có một định nghĩa hoàn chỉnh về nguyên liệu dệt
may như sau: "Nguyên liệu dệt may là các yếu tố vật chất đẩu vào của hoạt
động dệt và may nhằm tạo ra các sừn phẩm có cóng dụng cho con người là
các loại vừi vóc và quần áo, đồ dùng từ vừi."
Trong thực tế đời sống và thương mại quốc tế, các sản phẩm của ngành
dệt may được phán biệt thành hai nhóm cơ bản là nguyên phụ liệu dệt may
(textiles và accessories) và sản phẩm may mặc cuối cùng (clothing/garment
hoặc apparel), trong đó nhóm nguyên phụ liệu dệt may gồm tất cả các yếu tố
đầu vào của ngành may, cụ thể như nguyên liệu thô bao gồm bông, xơ, tơ tằm
để kéo sợi, các sản phẩm của ngành dệt như sợi các loại đế dệt vải, vải và tất
7
cả các phụ kiện khác như chỉ, khuy, cúc, khóa kéo v.v dùng cho ngành may.
Tuy nhiên, trong số các yếu tố đầu vào kể trên, người ta thường phân biệt rõ
ràng hai nhóm "nguyên liệu" và "phụ liệu, phụ kiện" dệt may.
Nguyên liệu dệt may được dùng để chỉ các yếu tố đầu vào có tính chất
cấu tạo và là vật chất căn bản đế tạo ra sản phẩm dệt may gồm bông, xơ, sợi
và vải dệt các loại. Các loại vật liệu đó chính là các yếu tô tạo nên các đặc
điểm cơ, lý, hóa của sản phẩm dệt may. Nếu đối chiếu về ý nghĩa ngôn ngừ thì
rõ ràng chúng rất phù hợp và sát với khái niệm đã nêu phía trên.
Phụ liệu và phụ kiện dệt may được dùng đế chỉ các loại yếu tố đầu vào
phụ trợ, mang tính chất trang trí, tiện ích và không cấu thành nên tính chất,
đặc điểm cơ bản của sản phẩm dệt may, gồm có như chỉ may, khuy, cúc, khóa
v.v
Trong phạm vi của luận văn này, khái niệm nguyên liệu dệt may sẽ
được sử dụng đúng theo ý nghĩa ngôn ngừ của từ "nguyên liệu", tức là chỉ các
yếu tỏ vật chất cơ bản tạo nên tính chất, đặc điếm của các sán phẩm dệt may
cuối cùng. Cụ thế, nguyên liệu dệt may sẽ bao gồm các loại nguyên liệu thô
như bông tự nhiên, các loại xơ tổng hợp để kéo sợi dùng cho dệt vái, cũng như
các loại vải phục vụ ngành may mặc, và không bao gồm các loại phụ liệu và
phụ kiện dệt may.
1.1.2 Phân loại các nguyên liệu dệt may chủ yêu
Như đã nêu, các loại nguyên liệu dệt may chủ yếu bao gồm: các loại
nguyên liệu thô dùng cho kéo sợi bao gồm bông, tơ tằm, đay hay các loại xơ
tổng hợp, sợi các loại dùng cho dệt vải và vải các loại dùng cho may mặc.
Trong các loại nguyên liệu nêu trên, sợi có thể được coi là loại nguyên liệu thô
đã qua chế biến căn bản nhất của ngành dệt may bởi sợi chính là yếu tố vật
chất quyết định nên tính chất và đặc tính của các sản phẩm dệt may cuối cùng.
8
Đ ể phân loại các loại nguyên liệu dệt may, ta có thể dựa vào một số tiêu
chí, trong đó có hai tiêu chí phổ biến: theo nguồn gốc vật chất và theo hoạt
động sử dụng nguyên liệu.
Căn cứ theo nguồn gốc vật chất, nguyên liệu dệt may có thể chia làm
hai nhóm chính: loại có nguồn gốc tự nhiên và loại có nguồn gốc hóa học.
Nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên gồm có như bỏng, đay (nguồn gốc thực
vật), tơ tằm, lông cảu (nguồn gốc động vật). Nguyên liệu có nguồn gốc hóa
học là các loại sợi tổng hợp hóa học được chế tạo tả ngành công nghiệp hóa
dầu như xơ polyester, nylon dùng để kéo ra các loại sợi hóa học và các loại vải
dệt tả các loại sợi đó, hoặc loại sợi nhân tạo xen-Iu-lô có cấu tạo vật chất tự
nhiên nhưng được sản xuất nhân tạo thông qua việc xử lý hóa họe bột gỗ như
sợi rayon, acetate, modal, visco
Trong lịch sử và theo xu hướng phát triển
của ngành dệt may, tỷ lệ nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên ngày càng giảm
so với nguyên liệu có nguồn gốc hóa học. Nguyên nhân chính của xu thế này
l bởi tính chất khan hiếm và hữu hạn của tài nguyên tự nhiên không cho phép
à
đáp ứng và theo kịp được sự phát triển liên tục và mạnh mẽ của nhu cầu con
người, điều này đòi hỏi phải tìm ra và phát triển các loại nguyên liệu m à con
người có thể sản xuất hàng loạt với khôi lượng lớn để bổ sung và thay thế cho
nguyên liệu tự nhiên. Ngoài ra, các loại nguyên liệu hóa học ngày càng có khá
năng đáp ứng được nhiều hơn các yêu cầu khắt khe, phức tạp của con người về
tính chất và đặc điểm sản phẩm nhằm thỏa mãn những công dụng đặc biệt do
vậy sự phát triển và chiếm ưu thế của nguyên liệu hóa học so với nguyên liệu
tả nhiên là xu thế tất nhiên.
Căn cứ theo hoạt động cụ thể m à nguyên liệu được sử dụng, nguyên liệu
dệt may cũng có thế phân nhỏ thành hai nhóm gồm: nguyên liệu trong ngành
sợi (textile) và nguyên liệu trong ngành may mặc (garment). Nguyên liệu
trong ngành sợi bao gồm tất cả các loại nguyên liệu dùng đế kéo sợi, cho dù
có nguồn gốc tự nhiên hay nhân tạo, như bông, tơ tằm, lông cảu, đay, lanh, xơ
9
tổng hợp v.v
và các sản phẩm sợi cuối cùng. Nguyên liệu trong ngành may
là vải các loại dùng để may. Sản lượng, chất lượng sợi và vải có m ố i quan hệ
tương quan bởi trong thực tế, sợi chính là yếu tố đẩu vào để tạo ra vải. Việc
phân loại theo tiêu chí này chủ yếu có ý nghĩa đê có thể tách bạch xem xét và
phân tích hai ngành hoạt động căn bán là công nghiệp kéo sợi và công nghiệp
dệt vải và hoàn tất vải. M ộ t điều cần lưu ý là ngành sợi (textile) trong thực tế
được phân làm 2 chuyên ngành nhỏ là ngành sợi phục vụ may mỉc và ngành
sợi phục vụ cồng nghiệp. Trong luận văn này, khái niệm ngành sợi hay sản
xuất sợi sẽ chỉ được giới hạn trong phạm vi phục vụ ngành may mạc.
1.2 Khái niệm về sản xuất nguyên liệu dệt may
1.2.1 Khái niệm sản xuất và sản xuất nguyên liệu dệt may
Sán xuất được hiểu là các hoạt động có chủ đích của con người nhằm
tạo ra một sản phẩm có giá trị sử dụng nhất định. Theo Giáo trình K i n h tế
Chính trị Mác - Lê N i n của Nhà Xuất Bản Chính trị Quốc gia, tái bản năm
2003, "sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác
động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra
của cái vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người" [ 1 ] .
Hoạt động sản xuất, như vậy, là một phạm trù gắn liền với con người và là đỉc
trưng đế phân biệt giữa xã hội loài người và xã hội loài vật. Các hành động của
loài vật chủ yếu mang tính chất bản nâng hoỉc nếu cao hơn là những hành
động phản xạ tự nhiên và bắt chước, trong k h i hoạt dộng sản xuất của con
người là hành động có chủ đích, có đối tượng tác động và có khả năng cải biến
tự nhiên.
Sản xuất nguyên liệu dệt may, theo đó, có thể được hiểu là các hoạt
động có chủ đích của con người nhằm tạo ra các nguyên liệu dệt may. Cụ thể.
con người thông qua các công cụ lao động của mình để biến đổi các yêu tô
trong vật chất tự nhiên thành các loại nguyên liệu dùng cho ngành dệt may.
10
Sản xuất nguyên liệu dệt may như vậy là một nội dung và bộ phận của
khái niệm sản xuất dệt may nói chung, trong đó sản xuất dệt may gồm hai
mảng hoạt động chính là sản xuất nguyên liệu và hoạt động may mặc tạo ra
các sản phẩm thời trang cuối cùng cho người tiêu dùng.
1.2.2 Phân loại hoạt động sản xuất nguyên liệu dệt may
Căn cứ theo khái niệm nêu trên của sản xuất nguyên liệu dệt may, hoạt
động sản xuất nguyên liệu dệt may rất đa dạng và bao gồm nhiều loại hoạt
động sản xuất cụ thể khác nhau như trồng bông, kéo sợi, dệt vải, nhuộm vải
hay các hoạt động chế tạo và sản xuất các loại phụ liệu, phụ kiện của ngành
dệt may. Tuy nhiên, trong phạm v i của luận văn này, khái niệm sản xuất
nguyên liệu dệt may sẽ tương ứng vằi khái niệm nguyên liệu dệt may đã được
nêu phía trên, nghĩa là nó được hiểu và giằi hạn bao gồm các hoạt động cụ thể
sau: sản xuất các nguyên liệu thô để kéo sợi (trồng bông, trồng đay, lanh,
chăn cừu, chế xơ sợi nhân tạo...), hoạt động kéo sợi, hoạt động dệt vải, nhuộm
và hoàn tất vải.
- Sản xuất nguyên liêu thô
Hoạt động sản xuất nguyên liệu thô trong ngành dệt may là các hoạt
động sản xuất và phát triển các loại nguyên liệu được sử dụng để kéo sợi, bao
gồm như trồng bông, trồng đay, nuôi tằm lấy tơ, chăn nuôi cừu, dê lấy lông đế
sản xuất sợi len, chế biến các loại xơ sợi tổng hợp từ sản phẩm của công
nghiệp hóa dầu. V ằ i đặc thù của nguyên liệu đầu vào, việc sản xuất các loại
nguyên liệu thô thường đòi hỏi phải có sự quy hoạch và tập trung thành các
vùng sản xuất chuyên và riêng biệt. Bông, đay, tơ tằm hay các loại cây nguyên
liệu khác thường được canh tác trong các đồn điền; cừu, dê và các loài vật lấy
lông khác cũng thường được chăn nuôi trong các trang trại gia súc tập trung.
Việc canh tác và chăn nuôi tập trung cho phép con người có khả năng tăng
|