Nguồn gốc của lợi the so sánh năm 2024

HAY HẠN CHẾ CỦA CÁC LÝ THUYẾT NÀY GVHD: Th Nguyễn Phi Hoàng THÀNH VIÊN NHÓM: Lê Thị Ngọc Qúy – 1921003685 Ma Thùy Trang – 1921003793 Phạm Thị Lan Hương – 1921003511 Nguyễn Hà Hoàng Long – 1921003568 Phạm Mỹ Huyền – 1921000456 Nguyễn Như Quỳnh – 1921003695 Nguyễn Ngọc Thảo – 192100373 TP. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 02 năm 2022

MỤC LỤC

  • I. LÝ THUYẾT LỢI THẾ TUYỆT ĐỐI CỦA ADAM SMITH..........................
    • 1. Hoàn cảnh ra đời.........................................................................................
    • 1. Nội dung quy luật.......................................................................................
    • 1. Mô hình thương mại dựa trên lợi thế tuyệt đối............................................
    • 1. Những điểm tích cực và hạn chế cơ bản của lý thuyết lợi thế tuyệt đối......
  • II. LÝ THUYẾT LỢI THẾ SO SÁNH CỦA DAVID RICARDO.......................
    • 1. Hoàn cảnh ra đời.........................................................................................
    • 1. Nội dung của quy luật.................................................................................
    • 1. Mô hình thương mại dựa trên lợi thế so sánh..............................................
    • 1. Những điểm tích cực và hạn chế trong lý thuyết lợi thế so sánh...............
      • KẾT LUẬN................................................................................................
      • TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................

Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối được giới thiệu lần đầu tiên trong tác phẩm “An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations” năm 1776 bởi nhà kinh tế học người Scotland, Adam Smith. Ông cho rằng, tất cả các quốc gia không thể đồng thời trở nên giàu có theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương - tối đa hóa xuất khẩu và giảm thiểu nhập khẩu bởi vì xuất khẩu của một quốc gia này là nhập khẩu của quốc gia khác. Và để thay thế quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, Adam Smith đưa ra tuyên bố rằng tất cả các quốc gia đều có lợi nếu tất cả các quốc gia thực hiện thương mại tự do và chuyên môn hóa phù hợp với lợi thế tuyệt đối của họ. Ông cũng tuyên bố rằng để trở nên giàu có, các quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà họ có lợi thế tuyệt đối và tham gia vào thương mại tự do với các quốc gia khác để bán hàng hóa của họ. Điều này giúp cho các nguồn lực của một quốc gia sẽ được sử dụng theo cách tốt nhất có thể cho việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà quốc gia đó có lợi thế về năng suất so với các quốc gia khác. Và từ đó tối đa hóa của cải quốc gia.

2. Nội dung quy luật.......................................................................................

Theo Adam Smith - người được coi là cha đẻ của kinh tế học hiện đại, các quốc gia chỉ nên sản xuất những mặt hàng mà họ có lợi thế tuyệt đối. Một cá nhân, doanh nghiệp hoặc quốc gia được cho là có lợi thế tuyệt đối nếu nó có thể sản xuất hàng hóa với chi phí thấp hơn so với một cá nhân, doanh nghiệp hoặc quốc gia khác.

Lý thuyết lợi thế tuyệt đối được xây dựng với hai nội dung chính: - Khẳng định vai trò của cá nhân và hệ thống kinh tế dân doanh. Nếu như các tác giả trọng thương cho rằng buôn bán chỉ có lợi cho một bên tham gia và họ ủng hộ một chính sách bảo hộ mậu dịch, thì Adam Smith lại khẳng định rằng thương mại tự do có lợi cho tất cả các quốc gia, và Chính phủ nên thực hiện chính sách “không can thiệp” vào hoạt động thương mại quốc tế nói riêng và các hoạt động kinh tế nói chung. - Khẳng định nguyên tắc phân công lao động để tạo ra nhiều lợi nhuận làm cơ sở cho sự ra đời của lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Theo Ông, hai quốc gia tham gia mậu dịch với nhau là tự nguyện và cả hai đều phải cùng có lợi. Có nghĩa là quốc gia A, xét trong tương quan với quốc gia B, có thể tỏ ra có hiệu quả hơn (có lợi thế tuyệt đối) trong việc sản xuất mặt hàng X, và kém hiệu quả hơn (có mức bất lợi tuyệt đối)

trong việc sản xuất mặt hàng Y. Khi đó B là quốc gia có lợi thế tuyệt đối về mặt hàng Y, và bất lợi tuyệt đối trong sản xuất mặt hàng X. Như vậy theo Ông, nếu mỗi quốc gia tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối, và xuất khẩu mặt hàng này sang quốc gia kia để đổi lấy mặt hàng mà mình có mức bất lợi tuyệt đối, thì sản lượng của cả hai mặt hàng sẽ tăng lên và cả hai quốc gia đều trở nên sung túc hơn. Theo Smith, cơ sở mậu dịch giữa hai quốc gia chính là lợi thế tuyệt đối. Lợi thế tuyệt đối ở đây là chi phí sản xuất thấp hơn ( nhưng chỉ có lao động mà thôi ).

3. Mô hình thương mại dựa trên lợi thế tuyệt đối............................................

Giả thiết của mô hình bao gồm: (1) Thế giới chỉ gồm hai quốc gia, chẳng hạn: Nhật Bản và Việt Nam. (2) Các quốc gia trên chỉ sản xuất hai mặt hàng, chẳng hạn: thép và vải. (3) Không có chi phí vận tải. (4) Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và được di chuyển tự do giữa các ngành sản xuất trong quốc gia nhưng không di chuyển được giữa các quốc gia.

(5) Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên tất cả các thị trường. Trong điều kiện tự cung tự cấp, mỗi quốc gia tự sản xuất hai mặt hàng để tiêu dùng trong quốc gia.

hơn so với trường hợp tự cung tự cấp. Nhật Bản lợi thêm 0,6 vải, Việt Nam lợi thêm 0,5 thép (cả hai quốc gia cùng có lợi nhưng Nhật Bản lợi nhiều hơn).

Ví dụ 2: Lợi thế tuyệt đối theo Năng suất lao động Giả sử 1 giờ lao động ở Mỹ sản xuất được 6 mét vải, 1 giờ lao động ở Việt Nam chỉ sản xuất được 1 mét vải. Trong khi đó 1 giờ lao động ở Mỹ thì chỉ sản xuất được 4 kg lương thực, còn ở Việt Nam thì sản xuất được 5kg lương thực. Các số liệu được biểu thị như sau:

Sản phẩm Mỹ Việt Nam

Vải (mét/giờ) 6 1

Lương thực (kg/giờ) 4 5

Nếu theo quy luật lợi thế tuyệt đối (so sánh cùng 1 sản phẩm về năng suất lao động ở 2 quốc gia Mỹ và Việt Nam) thì Mỹ có năng suất lao động cao hơn về sản xuất vải so với Việt Nam và ngược lại Việt Nam có năng suất lao động cao hơn về sản xuất lương thực so với Mỹ.

Do đó, Mỹ sẽ tập trung sản xuất vải để đem trao đổi lấy lương thực của Việt Nam (xuất khẩu vải và nhập khẩu lương thực). Còn Việt Nam sẽ tập trung sản xuất lương thực và xuất khẩu để nhập khẩu vải.

Nếu Mỹ đổi 6 mét vải lấy 6kg lương thực của Việt Nam thì Mỹ được lợi 2kg lương thực vì nếu 1 giờ sản xuất trong nước thì Mỹ chỉ sản xuất được 4kg lương thực mà thôi. Như vậy, Mỹ sẽ có lợi 2:4=1/2 giờ lao động.

Việt nam sản xuất 1 giờ chỉ được 1 mét vải, với 6m vải trao đổi được Việt Nam phải mất 6 giờ đồng hồ. Giả sử Việt Nam tập trung 6 giờ đó vào sản xuất lương thực sẽ được 6 giờ x 5kg/giờ = 30 kg lương thực. Mang 6kg đem trao đổi lấy 6 mét vải, còn lại 24kg.

Như vậy, Việt Nam sẽ tiết kiệm được 24:5kg/h ~ 5 giờ lao động.

 Qua ví dụ trên ta thấy thực tế là Việt Nam có lợi nhiều hơn so với Mỹ. Tuy nhiên điều này không quan trọng, mà quan trọng hơn là cả hai bên đều có lợi khi chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm mà họ có thế so sánh và mang đi trao đổi.

4. Những điểm tích cực và hạn chế cơ bản của lý thuyết lợi thế tuyệt đối......

- Điểm tích cực:  Học thuyết đã được các quốc gia sử dụng trong một số trường hợp, đề cao vai trò của cá nhân trong hoạt động giao thương, ủng hộ một nền thương mại tự do không có sự can thiệp của Chính phủ. Thấy được tính ưu việt của chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế.  Học thuyết về lợi thế tuyệt đối là bước tiến bộ vượt bậc so với thuyết trọng thương, giải thích bản chất kinh tế và ích lợi trong thương mại quốc tế, giải thích được sự phát triển của thương mại quốc tế hai chiều giữa các quốc gia thời kỳ đầu công nghiệp hóa ở châu Âu.  Học thuyết khuyến khích tự do thương mại, tự do định giá trao đổi, có tác dụng lành mạnh hóa và thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển.  Lợi ích của lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith là nó có thể giúp các quốc gia tối đa hóa năng suất và hiệu quả sản xuất hàng hóa, dịch vụ của mình. Nếu một quốc gia có lợi thế tuyệt đối so với các quốc gia khác khi sản xuất một sản phẩm, thì việc quốc gia đó tập trung tất cả các nguồn lực của mình để tạo ra sản phẩm đó sẽ mang lại lợi ích không chỉ riêng cho quốc gia đó mà còn cho tất cả các quốc gia khác trên thế giới: Quốc gia sản xuất nhận được nhiều giá trị nhất cho sức lao động của mình bằng cách bán sản phẩm đó cho các quốc gia khác và nhập khẩu về bất kỳ hàng hoá nào mà quốc gia đó cần. - Điểm hạn chế:  Thương mại quốc tế chỉ xảy ra khi mỗi quốc gia đều có lợi thế tuyệt đối về một trong hai mặt hàng => Hạn chế lớn nhất  Học thuyết được xây dựng dựa trên cơ sở thương mại hàng hóa: hàng đổi hàng giản đơn, trong khi thương mại quốc tế ngày nay còn gồm cả thương mại dịch vụ.

II. LÝ THUYẾT LỢI THẾ SO SÁNH CỦA DAVID RICARDO

1. Hoàn cảnh ra đời.........................................................................................

Theo lý thuyết trước đó của Adam Smith về lợi thế tuyệt đối, trong thương mại quốc tế, mỗi quốc gia sẽ tìm cho mình một số sản phẩm mà nó có lợi thế tuyệt đối, tức là nó sẽ thu lợi nhờ việc chuyên môn hoá và những sản phẩm mà nó sản xuất hiệu quả nhất và trao đổi với các quốc gia khác. Như vậy phải chăng những nước không có lợi thế tuyệt đối về bất cứ sản phẩm nào thì không thể thu được lợi ích từ thương mại quốc tế? Để trả lời cho câu hỏi đó, trong Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, năm 1817 David Ricardo xuất bản cuốn “Những nguyên tắc Chính trị và Thuế” trong đó Ông đề cập đến lợi thế so sánh. Với lý thuyết lợi thế so sánh, ông đã chứng minh rằng những nước không có lợi thế tuyệt đối vẫn có thể có chỗ đứng trong thương mại quốc tế.

2. Nội dung của quy luật.................................................................................

  • Lợi thế so sánh xuất phát từ hiệu quả sản xuất tương đối.
  • Lợi thế so sánh có thể đạt được ở mỗi quốc gia trong quan hệ quốc tế nếu như quốc gia nào đó tập trung vào việc sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có ít bất lợi hơn và nhập khẩu những mặt hàng mà mình có nhiều bất lợi hơn

3. Mô hình thương mại dựa trên lợi thế so sánh..............................................

David Ricardo tiếp tục sử dụng mô hình thương mại giản đơn tương tự như Adam Smith để giải thích quan hệ thương mại giữa các quốc gia tham gia. Lý thuyết của Ricardo được xây dựng trên một số giả thiết, nhằm làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên đơn giản và trực tiếp hơn.

Trong mô hình của mình, ông vẫn giả thiết: (1) Thế giới chỉ gồm hai quốc gia, chẳng hạn: Nhật Bản và Việt Nam. (2) Các quốc gia trên chỉ sản xuất hai mặt hàng, chẳng hạn: lúa mỳ và rượu vang.

(3) Không có chi phí vận tải.

(4) Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và được di chuyển tự do giữa các ngành sản xuất trong quốc gia nhưng không di chuyển được giữa các quốc gia.

(5) Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên tất cả các thị trường. Ví dụ:

Nh t B nậ ả Vi t Namệ Sốố l ng lao đ ng cầần đ s n xuầốt 1 đ n v ượ ộ ể ả ơ ị thép 212 Sốố l ng lao đ ng cầần đ s n xuầốt 1 đ n v ượ ộ ể ả ơ ị v i ả 56 Các số liệu trên cho thấy Nhật Bản đang có lợi thế tuyệt đối cả hai loại mặt hàng là thép và vải, cụ thể số lượng lao động cần thiết để sản xuất của Nhật Bản ít hơn so với Việt Nam. Theo suy nghĩ thông thường, trong trường hợp này Nhật Bản sẽ không nên nhập khẩu mặt hàng nào từ Việt Nam cả thế nhưng phân tích của Ricardo đã dẫn đến kết luận hoàn toàn khác. Theo Ricardo, hai quốc gia này vẫn có thể tiến hành giao thương được với nhau và cả hai cùng có lợi.

Ta nhận thấy tuy Nhật Bản có lợi thế tuyệt đối về cả hai mặt hàng, nhưng do mức độ lợi thế về sản xuất thép lớn hơn mức lợi thế về sản xuất vải (qua số liệu so sánh giữa hai tỷ số 2/12 < 5/6) do đó Nhật Bản có lợi thế so sánh về mặt hàng thép.

Việt Nam bất lợi tuyệt đối về cả hai mặt hàng, nhưng do mức bất lợi về sản xuất vải ít hơn mức bất lợi về sản xuất thép (qua số liệu so sánh giữa hai tỷ số 6/5 < 12/2). Do đó Việt Nam có lợi thế so sánh về mặt hàng vải.

 Như vậy, mặc dầu cả thép và vải ở Nhật Bản được sản xuất với hiệu quả tuyệt đối cao hơn, nhưng thép lại là mặt hàng mà Nhật có mức lợi thế tương đối lớn hơn so với vải. Trái với lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh là một khái niệm có tính tương đối có nghĩa là một thế giới bao gồm hai quốc gia, hai mặt hàng, khi đã xác định được có lợi thế so sánh về một mặt hàng nào đó thì có thể rút ra kết luận là quốc gia thứ hai sẽ có lợi thế so sánh về mặt hàng kia.

Hoặc, một cách lý giải khác về lợi thế so sánh:

Để thấy được cả hai nước sẽ có lời nếu chỉ tập trung vào sản xuất một mặt hàng mình có lợi thế so sánh. Ricardo đã làm như sau, ông giả định, nguồn lực lao động của Anh là 270 giờ công lao động, còn của Bồ Đào Nha là 180 giờ công lao động.

- Nếu không có thương mại, cả hai nước sẽ sản xuất cả hai hàng hoá theo chi phí như trên thì kết quả là số lượng sản phẩm được sản xuất ra:

Trước khi thương mại Quôốc gia Sôố đ n v lúa mỳơ ị Số đơn vị rượu vang Anh 8 5 Bốầ Đào Nha 9 6 T ngổ 17 11 - Nếu Anh chỉ sản xuất lúa mỳ và Bồ Đào Nha chỉ sản xuất rượu vang đem giao thương với nhau thì số lượng sản xuất ra như sau:

Sau khi thương mại Quôốc gia Sôố đ n v lúa mỳơ ị Số đơn vị rượu vang Anh 18 0 Bốầ Đào Nha 0 12 T ngổ 18 12

 Rõ ràng sau khi có thương mại và mỗi nước chỉ tập trung vào sản xuất hàng hoá mà mình có lợi thế so sánh, tổng số lượng sản phẩm của lúa mỳ và rượu vang của cả hai nước đều tăng hơn so với trước khi có thương mại (là lúc hai nước cùng phải phân bố nguồn lực khan hiếm của mình để sản xuất cả hai loại sản phẩm).

Ví dụ đương thời: Lợi thế so sánh của Trung Quốc với Hoa Kỳ là ở dạng lao động giá rẻ. Công nhân Trung Quốc sản xuất hàng tiêu dùng đơn giản với chi phí cơ hội thấp hơn nhiều. Lợi thế so sánh của Hoa Kỳ là lao động chuyên môn hóa, sử dụng

nhiều vốn. Công nhân Mỹ sản xuất hàng hóa tinh vi hoặc cơ hội đầu tư với chi phí cơ hội thấp hơn. Chuyên môn hóa và kinh doanh theo những đường này đều có lợi.

→ Khi mỗi quốc gia thực hiện chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng mà quốc gia đó có lợi thế so sánh thì tổng sản lượng tất cả các mặt hàng của toàn thế giới sẽ tăng lên, và tất cả các quốc gia sẽ trở nên sung túc hơn.

4. Những điểm tích cực và hạn chế trong lý thuyết lợi thế so sánh...............

- Điểm tích cực:  Là một trong những quy luật quan trọng nhất của kinh tế, đặt cơ sở nền móng cho mậu dịch quốc tế.  Bản chất của quy luật lợi thế so sánh cho đến nay vẫn không thay đổi, nó đúng với bất kỳ quốc gia nào. Đã chứng minh được rằng tất cả các quốc gia đều có lợi khi giao thương với nhau bất kể là quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối hay không. - Điểm hạn chế:  Trong chi phí sản xuất mới chỉ tính đến yếu tố duy nhất là lao động, trong khi các yếu tố sản xuất khác như vốn, kỹ thuật, đất đai, trình độ của người lao động chưa được đề cập đến => Do đó không thể lý giải được vì sao năng suất lao động của quốc gia này cao hay (thấp) hơn quốc gia khác.  Tuy nhiên chưa xác định được tỷ lệ trao đổi quốc tế, tức là giá cả quốc tế mà chủ yếu vẫn là hàng đổi hàng. Vẫn chỉ chú ý đến cung mà không chú ý tới cầu sản phẩm đặc biệt là cầu trong nước => Do đó không xác định được giá cả tương đối của sản phẩm dùng để trao đổi giữa các quốc gia với nhau.

 Quy luật lợi thế so sánh là một trong những quy luật quan trọng của kinh tế học nói chung và kinh tế quốc tế nói riêng, cho đến ngày nay nó vẫn còn giá trị. Nhà kinh tế học Paul Samuelson, người được giải Nobel về kinh tế năm 1970, đã viết: “Mặc dù có những hạn chế, lý thuyết lợi thế so sánh vẫn là một trong những chân lý sâu sắc nhất của mọi môn kinh tế học. Các quốc gia không quan tâm đến lợi thế so sánh đều phải trả một cái giá rất đắt bằng mức sống và tăng trưởng kinh tế của chính mình”.

của một quốc gia để sản xuất hàng hóa vì nó không xem xét chi phí cơ hội của việc sản xuất.

định phân bổ nguồn lực, sản xuất trong nước và nhập khẩu các mặt hàng cụ thể.

Hiệu quả kinh tế

Lợi thế tuyệt đối có thể không hiệu quả lắm vì nó tập trung vào việc tối đa hóa sản xuất với cùng một nguồn lực sẵn có mà không tính đến chi phí cơ hội của sản xuất.

Lợi thế so sánh có hiệu quả hơn trong việc giúp các quốc gia đưa ra các quyết định liên quan đến phân bổ nguồn lực, sản xuất trong nước và xuất / nhập khẩu hàng hóa.

KẾT LUẬN

Tóm lại, các nội dung giới thiệu trên đây, có thể rút ra nhận xét rằng, các lý thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối đều nhấn mạnh yếu tố cung, coi quá trình sản xuất trong mỗi quốc gia là yếu tố quy định hoạt động thương mại quốc tế. Trong các lý thuyết này, giá cả từng mặt hàng không được biểu hiện bằng tiền, mà được tính bằng số lượng hàng hóa khác, và thương mại giữa các quốc gia được thực hiện theo phương thức hàng đổi hàng. Những giả định này khiến cho phân tích trở nên đơn giản hơn, trong khi vẫn giúp chỉ ra nguồn gốc sâu xa của thương mại quốc tế. Hạn chế cơ bản duy nhất của lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế là ở chổ chúng được xây dựng trên cơ sở học thuyết về giá trị lao động, theo đó lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và đồng nhất trong các ngành sản xuất. Do tính chất phi thực tế của học thuyết về giá trị lao động cho nên lý thuyết lợi thế so sánh gặp những nguy cơ bị bác bỏ. Tuy nhiên, vào năm 53 1936 lý thuyết lợi thế so sánh đã được cứu nguy bởi một nhà kinh tế học tân cổ điển là Haberler trình bày trên cơ sở vận dụng khái niệm chi phí cơ hội.

Chủ đề