Người Anh điêng là gì

Người Anh điêng là gì

Màu đỏ của da là do một loại son.

Hiện nay, dân số của người da đỏ còn lại khoảng 36 triệu, chủ yếu sống ở các nước Mỹ Latinh như Bolivia, Peru, Ecuado, Paraguay, Canada… Họ chính là những người có gốc gác từ châu Á.

Quảng cáo

Từ thế kỷ 15, những người châu Âu đi theo Colombo chinh phục châu Mỹ, khi đặt chân lên các vùng đất mới đã nhìn thấy các thổ dân mình mẩy đỏ lừ đang nhảy múa và vì vậy gọi họ là người da đỏ. Màu đỏ ấy thực chất là do một loại son có tên là hồng hoàng do thổ dân tự tạo rồi bôi lên người. Ngoài tác dụng làm đẹp, loại son này còn giúp chống côn trùng và chống nắng.

Quảng cáo

Sách báo thường gọi họ là người Anh-điêng (Indien). Indien có nghĩa là người Ấn Độ. Cách gọi này xuất phát từ việc đoàn thám hiểm nhầm lẫn lục địa họ mới phát hiện với đất nước Ấn Độ mà họ từng nghe danh. Thế là những thổ dân ở đó được gọi là Indien. Suốt một thời gian dài sau đó, từ Indien vẫn được người châu Âu dùng để chỉ những người da đỏ.

KH&PT (theo Terre sauvage)

Từ năm triệu cư dân ban đầu, đến giờ dân da đỏ chỉ còn khoảng hơn 440.000 người thuộc 220 dân tộc, phân bố thưa thớt và biệt lập. Đa số dân Indian còn đang sống trong thời nguyên thủy và bảo tồn những tập tục "chẳng giống ai"...

Khi Columbus tìm ra Tân thế giới, ông đã gọi những cư dân ở đó là người Indian (người Ấn Độ), bởi ông cứ đinh ninh rằng mình đã tới miền Đông Ấn.

Ngày nay, ở vùng Amazon, người ta vẫn gọi thổ dân là người Indian, tiếng Việt gọi là người Anh-điêng. Đa số dân Indian còn rất nguyên thủy và bảo tồn trong lòng Amazon những tập tục "chẳng giống ai" của họ.

Đến giữa thế kỉ 16, người da trắng đã đặt chân đến vùng Amazon. Những kẻ xâm lược với trang bị kĩ thuật vượt trội đã cướp đi đất đai và phá huỷ nền văn hóa của cộng đồng cư dân Nam Mỹ nguyên thủy. Người da đỏ hầu như không thể chống đỡ nổi với các chiến hạm tối tân và những thứ vũ khí kì lạ chưa từng thấy trong đời. Họ rút vào ẩn nấp trong vùng rừng Amazon mênh mông để tránh sự tàn sát của kẻ thù.

Trong năm mươi năm trở lại đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế Brazil, khu vực sinh sống của người da đỏ càng ngày càng bị thu hẹp. Những nơi trước kia vẫn còn nhiều bộ lạc hoang dã định cư, giờ đã mọc lên những thành phố hiện đại hay những khu dân cư đông đúc.

Nhiều người da đỏ cũng đã từ bỏ cuộc sống nguyên thủy để đi theo tiếng gọi của văn minh, nhiều bộ lạc giải tán hoàn toàn hoặc bị tuyệt chủng.

Nội bất xuất, ngoại bất nhập

Mới đây, Tổ chức quốc gia về người Indian của Brazil - Funai (Fundação Nacional do Índio) đã đưa ra một biện pháp mới nhằm bảo vệ các bộ lạc vùng Amazon. Họ không cho phép bất cứ một cuộc tiếp xúc nào giữa người bên ngoài và các dân tộc biệt lập ở vùng rừng này.

Những người lạ, bao gồm cả khách du lịch, về nguyên tắc bị cấm không được bước vào lãnh thổ của người Anh-điêng. Chuyện thổ dân phục kích bắt sống hay tiêu diệt những kẻ lạ mặt xâm nhập lãnh địa của họ không phải chỉ tồn tại trong lịch sử hay những bộ phim trên màn ảnh.

Ngày nay, nặng thì họ vẫn sẽ "tiếp đón" bằng tên tẩm độc, nhẹ thì họ dùng điện thoại vệ tinh báo cho Funai hoặc quân đội. Một nhà thám hiểm châu Âu khá nổi tiếng vừa rồi cũng đã phải "trang bị thêm kinh nghiệm": ông tự nhận mình là bạn của người Anh-điêng và sau đó lại bị... ngồi bóc lịch ít lâu ở Brazil.

Vùng Amazon, phân bố dân cư Anh-điêng và các mỏ khoáng sản.

Ai muốn vào đây cần phải xin giấy phép của Funai. Nhưng kể cả có giấy tờ trong tay rồi, nhiều khi người da đỏ vẫn khước từ việc cho vào khu vực sinh sống của họ. Dân Indian ngày nay vẫn chọn bạn bè theo những cách thức cổ xưa. Nếu như quá tò mò, nhất thiết phải tìm đến chỗ họ thì phải chấp nhận là có thể sẽ không được chào đón, cho dù là có thiện chí đi chăng nữa.

Bạn của người Anh-điêng

Ở đây, những nhà nhân chủng học sống trong thế tiến thoái lưỡng nan. Họ muốn tiếp xúc với cuộc sống hoang dã của người da đỏ để từ đó có thể khám phá ra quá trình phát triển của loài người. Nhưng ngay lần gặp gỡ đầu tiên cũng có thể phá hỏng hết mọi kết quả. "Tốt nhất là ta để cho họ yên", Sydney Possuelo, cán bộ của Funai và là bạn của người Indian, nói.

Tất nhiên nhà nhân chủng nào cũng muốn những hành động đầy chất anh hùng phải đem đến cho họ những khám phá vẻ vang chứ không phải biến họ thành kẻ mang tội.

Cách đây một năm Possuelo cũng nghĩ y như vậy khi ông phát hiện ra một bộ lạc chưa từng được biết tới của dân tộc Corubo. Thế nhưng, khi bị nhóm người da đỏ đuổi theo ra đến ngoài rừng thì "tim tôi đã chui tọt lên tận cổ", ông kể. Cái nhìn đầu tiên! Ai biết được họ đánh giá thế nào về chúng ta?

Người Anh-điêng Tucano.

Renato Athias là một ngoại lệ. Anh là con của một người đàn ông Ma-rốc gốc Do Thái và một phụ nữ Bồ Đào Nha. Ban đầu anh đến với người da đỏ không phải vì tình yêu. Anh không biết họ có trên đời. Những năm 70, Renato phải sống chui lủi vì một sinh viên có tư tưởng cấp tiến như anh đã nằm trong sổ đen của chế độ độc tài. Tình cờ, anh nghe được tin người Salesian ở trong rừng đang tìm giáo viên dạy tiếng Bồ. Đó là một chỗ ẩn nấp lý tưởng.

Anh ở lại và sống một thời gian dài ngoài dự tính cùng một dòng họ người Hupdé thuộc giống dân Anh-điêng lùn Maku, những người vẫn sống theo trật tự bầy đàn ở trong rừng, săn bắn du mục, trồng trọt không đáng kể và nhất là không có sắn! Cạnh đó là làng của người Tucano. Những người Tucano thì ngược lại, sống ven sông, có sắn.

Họ thuê người Maku làm mọi việc, ví dụ như khi cần dựng lều để tổ chức lễ hội. Đặc biệt là không người Tucano nào có ý định lấy một phụ nữ Maku làm vợ. Họ sống hoàn toàn bản năng và ghét người ngoại tộc. "Với họ thì người Maku không phải là con người" - Renato nói. Nhưng thuở đó, anh đã quyết định ở lại với người Maku, sống với họ và cùng chịu cảnh bị săn đuổi như họ.

Sau đó Athias học lên giáo sư, cưới vợ và có bốn đứa con. Nhưng anh luôn trở lại thăm bộ lạc của mình. Ở São Gabriel anh đã thành lập tổ chức y tế "Saude Sem Límites" - "Sức khỏe không biên giới", dưới sự bảo trợ của EU. Kể từ khi những người Anh-điêng chuyển đến sống ở gần khu vực nhà thờ và các hội truyền giáo, bệnh lao và các bệnh kí sinh trùng khác lây lan rộng rãi. Ngày xưa, cứ 20 năm họ lại di cư theo từng nhóm nhỏ đến một bờ sông mới. Ngày nay, họ sống định cư trong các ngôi làng lớn, mà những dòng sông chảy qua các ngôi làng thì ngày càng nhiễm độc nặng hơn.

Renato Athias

Renato không phải là một nhà bảo vệ thiên nhiên giáo điều. Anh cùng với một nhóm người Dessano đứng ra xây một "Maloca" - nhà rông của người da đỏ, tổ chức cho họ làm và bán đồ thủ công ở đó, mặc dù mỗi món chỉ thu được vài xu. Nhà chức trách vẫn thường đóng cửa những xưởng kiểu này, bởi trong quá trình sản xuất có sử dụng lông chim quý hiếm. Renato thoáng ngoảnh mặt đi. "Cho đến nay chúng tôi chưa làm gì tổn hại đến môi trường", anh cười nhăn, "nếu có, thì là chẳng may bị lẫn vào".

Anh đứng về phe những người da đỏ, nhưng ngay trong đất người da đỏ cũng thường xảy ra những sự kiện nguy hiểm không ngờ. Gần đây, Renato bị rơi vào một cuộc xung đột của hai bộ lạc. Làng này chết mất một người đàn ông, làng kia hai đứa trẻ, và Renato thì vừa ghé qua thăm họ, nên anh bị vạ lây.

Cha anh là một bác sĩ nổi tiếng ở Rio de Janeiro, bản thân anh là một nhà khoa học đáng kính - nhưng anh vẫn tin vào những ma thuật huyền thoại của vùng Amazon như thể lý trí của anh bị chia làm hai.

Anh đã từng được cứu chữa. Anh kể, "Một lần, đột nhiên vùng thận của tôi đau nhói, sau đó thì bất tỉnh nhân sự". Một ông thầy lang đã lấy ba viên đá ra khỏi bụng anh, bằng phương pháp đặt tay ma thuật không hề làm tổn thương đến da. "Lão Pagé, đã cứu tôi" - Renato nói đầy cảm phục.

Ở nơi âm u cuối trời này anh đã trưởng thành. Anh mang đến cho người da đỏ những thành quả tích cực của xã hội hiện đại, là thuốc men, là cách sống vệ sinh, nhưng chính anh, ngược lại, chấp thuận sự giúp đỡ của ma thuật và cặm cụi đi thu thập những mảnh vụn của một thế giới đã vỡ.

Người Mỹ bản địa Hoa Kỳ (tiếng Anh: Indigenous Americans) còn được gọi là Người Mỹ da đỏ hay Người Anh điêngNgười Mỹ Anh điêng hoặc Người Mỹ bản địa hoặc các thuật ngữ khác, là những người bản địa Mỹ. Có hơn 500 bộ lạc được liên bang công nhận ở Hoa Kỳ. Thuật ngữ này không bao gồm người Hawaii bản xứ và một số người bản địa Alaska. Tổ tiên của người Mỹ bản địa hiện đại đã đến Hoa Kỳ cách đây ít nhất 15.000 năm, có thể sớm hơn nhiều, từ châu Á qua cầu đất liền Beringia. Một loạt các dân tộc, xã hội và văn hóa sau đó đã được phát triển.

Người Mỹ bản địa
Tổng số dân
Người Mỹ Da Đỏ và Thổ dân Alaska (2010 Census Bureau)[1]
One race: 2.932.248 được đăng ký
Kết hợp với một hoặc nhiều chủng tộc khác được liệt kê: 2.288.331
Toàn bộ: 5.220.579 ~ 1,6% trong tổng dân số Hoa Kỳ.
Khu vực có số dân đáng kể
Chủ yếu ở Tây Hoa Kỳ; cộng đồng nhỏ cũng tồn tại trong Đông Hoa Kỳ
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ bản địa
(kể cả tiếng Navajo, Tiếng Trung Alaska Yup'ik, tiếng Dakota, tiếng Sioux, Tiếng Tây Apache, Tiếng Keres, Tiếng Cherokee, Tiếng Choctaw, Tiếng Creek, Tiếng Kiowa, Tiếng Osage, Tiếng Zuni, Tiếng Ojibwe, Tiếng O'odham[2])
Tiếng Anh, Tiếng Tây Ban Nha, Tiếng Pháp, Tiếng Nga
Tôn giáo

  • Chính thống giáo Mỹ bản địa
  • Kháng Cách
  • Công giáo
  • Chính thống giáo Nga
  • Cách lễ truyền thống (Độc đáo với bộ lạc hoặc ban nhạc cụ thể)

Sắc tộc có liên quan

  • Thổ dân châu Mỹ
    • Thổ dân châu Mỹ tại México
    • Thổ dân châu Mỹ tại Canada
  • Người bản địa Nam Mỹ
  • Métis
  • Mestizo

Người Mỹ bản địa đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi thuộc địa châu Âu của châu Mỹ, bắt đầu vào năm 1492, và dân số của họ giảm một cách nặng nề do các dịch bệnh du nhập từ người da trắng như bệnh đậu muà, chiến tranh và chế độ nô lệ. Sau khi thành lập Hoa Kỳ, nhiều người Mỹ bản địa đã phải chịu các hậu quả chiến tranh, bị tiêu diệt và các hiệp ước bất bình đẳng, và họ tiếp tục bị các chính sách phân biệt đối xử vào thế kỷ 20. Kể từ những năm 1960, các phong trào tự trị, tự quyết của người Mỹ bản địa đã dẫn đến những thay đổi đối với cuộc sống của người Mỹ bản địa, mặc dù vẫn còn nhiều vấn đề đương thời mà người Mỹ bản địa phải đối mặt. Ngày nay, có hơn năm triệu người Mỹ bản xứ ở Hoa Kỳ.

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Thời kỳ tiền Columbus
    • 1.2 Hình thái xã hội
    • 1.3 Bò Bison
    • 1.4 Nền dân chủ bộ lạc
    • 1.5 Văn hoá chiến tranh
  • 2 Ngôn ngữ
  • 3 Tôn giáo và tín ngưỡng
  • 4 Tham khảo

Lịch sửSửa đổi

Thời kỳ tiền ColumbusSửa đổi

Hiện nay người ta vẫn chưa biết những người Mĩ bản địa đầu tiên đến Châu Mĩ như thế nào. Giới khoa học chỉ có thể đặt ra giả thuyết rằng những người Mĩ bản địa đầu tiên vốn có nguồn gốc từ lục địa Âu-Á, họ di cư đến Châu Mĩ thông qua cầu đất liền Beringia vào cuối thời kì băng hà từ khoảng 10.000 đến 100.000 năm trước công nguyên.

Lịch sử người Mĩ bản địa tại Hoa Kì vào thời kì tiền Columbus hiện vẫn còn nhiều điều chưa được khám phá. Nguyên nhân là do nền văn minh của họ lúc này vẫn còn ở thời kì đồ đá, không có một hệ ngôn ngữ chữ viết nào của người Mĩ bản địa được tìm thấy nên hầu như các nghiên cứu đáng tin cậy về lịch sử của người Mĩ bản địa chỉ có thể tìm hiểu thông qua khảo cổ học.

Giới học giả tin rằng các Paleo-Indians (những người Anh điêng cổ đại) Hoa Kì đầu tiên đã bắt đầu định cư ở Đại Bình nguyên Bắc Mỹ, Ngũ Đại Hồ và lưu vực Sông Mississippi vào khoảng 10 vạn năm trước. Những người này đã để lại các di chỉ như các làng mạc hoặc các bức họa trên các tảng đá, hang động,...v.v mô tả về hoạt động săn bắn của họ.

Hình thái xã hộiSửa đổi

Xã hội Người Mĩ bản địa thời tiền Colombus vẫn là xã hội của bộ lạc. Các bộ lạc lớn như Blackfoot, Cheyenne, Dakota, Comanche,... lại chia thành các ngôi làng lớn. Một số bộ lạc nhỏ hơn tầm vài ngàn người thì thường chỉ phân bố thành vài ngôi làng hay chỉ một ngôi làng. Việc phân bố sinh sống giúp người Mĩ Bản địa có thế quản lý vấn đề săn bắt lương thực mà ít phải cạnh tranh lẫn nhau hơn.

Không giống như những người Mĩ bản địa ở phía nam như Mexico và các nước Mĩ Latin, người Mĩ bản địa ở Hoa Kì vào thời kì tiền Colombus hầu như chưa phát triển nông nghiệp mà vẫn còn phụ thuộc vào việc săn bắt và hái lượm. Những người Mĩ bản địa việc săn bắn Bò rừng bison để giải quyết vấn đề lương thực, tuy nhiên một số bộ lạc sinh sống ở Bờ Tây Hoa Kì và Alaska - nơi không có bò rừng Bison - thì lại phụ thuộc vào việc đánh bắt cá hồi.

Các bộ lạc sống trong khu vực Đại Bình nguyên thường phải sống theo kiểu du mục để có thể theo đuổi các đàn bò Bison di cư (Ngoại trừ lúc mà các bộ lạc bắt buộc phải sống định cư để vượt qua mùa đông khắc nghiệt) . Một số bộ lạc như Hidatsa, Mandan, Pawnee, Omaha sống định cư vào mùa xuân quanh bờ sông Mississippi để trồng ngô và bí nhưng vẫn phải chuyển sang sống du mục săn bắt các đàn bò Bison khi mùa hè đến.

Bò BisonSửa đổi

Các đàn bò Bison thường có số lượng đông khủng khiếp đến mức các nhà thám hiểm châu Âu vào thế kỉ 16 vẫn còn phải choáng ngợp và mô tả rằng "Các đàn bò đông đúc đến mức làm đen kịt cả vùng Đại Bình nguyên", rằng "Một đàn bò Bison di cư phải tốn 3 ngày mới băng qua hết Sông Missouri" rằng "Ước tính một đàn bò có thể lên đến 4 triệu con".

Bò Bison cung cấp gần như tất cả mọi thứ cho người Mĩ bản địa, từ lương thực, quần áo cho đến chỗ ở.

Thịt bò Bison thường được chế biến để dễ bảo quản thành chà bông hoặc thịt khô để dự trữ. Để chế biến chà bông bò Bison, họ dùng búa đá để giã cho thịt phơi khô đến khi nó tơi ra, sau đó họ trộn chà bông với mỡ bò rồi để chúng vào các túi làm từ da bò Bison. Người Mĩ bản địa chỉ dùng thịt bò Bison tươi khi họ dư dả thịt (thường là mùa hè), họ nướng chúng lên và thưởng thức cùng nhau quanh lửa trại. Họ cũng tin rằng thịt bò Bison cái ngon hơn thịt bò Bison đực.

Ngoài lương thực, bò Bison còn cung cấp da để làm áo choàng, găng tay, mũ, giày Moccasin,...(Bò Bison mùa đông có bộ lông dày) hoặc áo và xà cạp (Bò Bison mùa xuân,hè và thu có bộ lông ngắn). Da bò Bison đực thường dai hơn da bò Bison cái, nếu để sống và phơi khô, da bò Bison đực có thể dùng làm khiên còn da bò Bison cái có thể dùng làm lều.

Xương bò Bison có thể dùng làm công cụ. Gân bò Bison được dùng làm kim chỉ hoặc dây cung. Sừng bò làm muỗng hoặc muôi. Dạ dày bò được dùng làm túi đựng lương thực hoặc nước. Phân bò được làm chất đốt.

Mỗi khi đến mùa săn bắt, các bộ lạc thường nhộn nhịp hẳn lên, đàn ông thì chuẩn bị cho các cuộc săn bắt còn đàn bà thì lo việc lột da, nấu nướng và bảo quản thịt bò.

Việc săn bắt bò Bison thường không khó khăn lắm vì người Mĩ bản địa cho rằng chúng kém cả về trí khôn lẫn thị lực. Họ sử dụng rất nhiều phương pháp như quây đàn bò lại để những con mạnh khỏe chạy thoát ra ngoài trong khi những con yếu ớt bị tụt lại sẽ dễ bị hạ gục bằng cung tên, hoặc họ lùa đàn bò nhảy xuống vực, hoặc họ khoác lên tấm da bò rồi kêu để dụ đàn bò vào bãi quây nơi họ có thể thoải mái bắn hạ chúng bằng tên mà không sợ chúng bỏ chạy, hoặc dùng lửa, hoặc mai phục các đàn bò vượt sông,...

Những người già và yếu ớt thường không thể săn được bò nhưng cũng không thiếu nhiều người mạnh khỏe hào phóng sẵn sàng chia sẻ thịt bò săn được cho họ.

Mặc dù số lượng bò Bison là vô số, song các bộ lạc vẫn có nhiều qui định nghiêm ngặt cho việc săn bắt chúng. Không ai được phép tự ý săn bò mà không có lệnh của tù trưởng và cũng không được phép quấy rối đàn bò mà không phải vì lí do lấy thực phẩm. Những ai vi phạm sẽ bị trừng phạt thích đáng: quần áo và vũ khí bị tiêu hủy, bị làm nhục trước cả bộ lạc, hoặc bị đuổi đi.

Với những con bò Bison nặng hàng trăm kí, người Mĩ bản địa thường phải mổ chúng để chia nhỏ thịt lại dễ vận chuyển bằng sức người hoặc dùng chó kéo.

Nền dân chủ bộ lạcSửa đổi

Toàn bộ luật lệ, phán quyết và quyết định của cả bộ lạc sẽ được quyết định bởi một hội đồng các thủ lĩnh của bộ lạc. Các tù trưởng không được quyền quyết định tối cao với bất kì ai khác, nhiệm vụ của tù trưởng là làm trọng tài phân xử và hòa giải giữa hai bên. Hầu hết các vụ việc ít nghiêm trọng sẽ được dàn xếp trong sự thuyết phục. Song nếu vụ việc quá nghiêm trọng, hình phạt sẽ được quyết định bởi hội động các thủ lĩnh. Hình phạt thường sẽ là đền bù bằng tài sản, bị đuổi khỏi bộ tộc hoặc xử tử.

Văn hoá chiến tranhSửa đổi

Vũ khí của người Mĩ bản địa thời kì tiền Colombus thường là gậy, giáo và cung tên. Họ sử dụng đá, gạc nai và gỗ để làm nguyên liệu cho vũ khí. Cung thường chỉ dài 0,9m với các bao tên chứ đến cả trăm mũi tên dài 0,6m. Các cung thủ điêu luyện có thể bắn 8 mũi tên lên không trung cùng lúc.

Trước khi có sự xuất hiện của người da trắng, các bộ lạc người Mĩ bản địa thường đánh lẫn nhau để tranh giành địa bàn săn bắt bò Bison. Hiếu chiến nhất là bộ lạc Cheyenne thường xuyên đánh nhau với các bộ lạc Kiowa, Crow,... Các bộ lạc không chủ tâm giết chóc bộ lạc khác đến cùng hoặc bắt nô lệ. Người Mĩ bản địa sống theo kiểu du mục, họ không cần nô lệ hay tù binh.

Các trẻ em nam thường được huấn luyện từ thuở nhỏ thông qua trò chơi đánh trận giả và được tham gia chiến đấu thực sự khi chúng đủ tuổi. Các gia đình thường truyền lại cho con em vũ khí của ông cha chúng. Người Mĩ bản địa thường dạy cho trẻ em về sự quả cảm trong chiến đấu là thứ mà chúng nên noi theo.

Người Mĩ bản địa ưa thích việc tấn công chớp nhoáng hơn là phòng thủ, do đó họ dễ bị hoảng loạn khi bị kẻ thù tấn công bất ngờ. Bản chất dân du mục cũng khiến họ không muốn xây dựng các công trình để phòng thủ các ngôi làng khỏi kẻ thù.

Người Mĩ bản địa đề cao sự quả cảm trong chiến đấu nên họ rất coi trọng các chiến công. Để xác nhận được việc tiêu diệt một kẻ thù, họ có tập tục lột da đầu từ xác nạn nhân.

Tuy nhiên, để đánh giá một cách chính xác nhất, các bộ lạc thường sẽ tính điểm chiến công dựa trên số lần tấn công và vũ khí tấn công. Hạ địch bằng gậy sẽ được coi trọng hơn bằng lao, hạ địch bằng lao thì sẽ được coi trọng hơn dùng cung tên, họ lý luận rằng tiêu diệt địch ở khoảng cách càng xa thì càng ít dũng cảm. Các chiến binh sẽ kể lại công lao của mình cho cả làng nghe sau khi trận đánh kết thúc, song ít ai dám nói dối về thành tích của mình vì có thể dễ dàng bị phát hiện bởi những chiến binh khác.

Một số bộ lạc cũng coi trọng việc hỗ trợ nhau hạ gục kẻ thù, chiến công của cả nhóm sẽ được ghi nhận lại bởi các đồng đội khác trên chiến trường. Song chỉ những ai hạ gục kẻ thù lúc còn sống mới được tính điểm cao nhất, những ai chỉ lột da đầu sẽ bị xếp sau cùng.

Không phải cứ hạ càng nhiều kẻ thù mới là quả cảm, một số bộ lạc cho rằng việc bị thương hoặc cứu đồng đội cũng là một chiến công.

Sau khi được xác nhận chiến công, người Mĩ bản địa có nhiều cách để khoe "huân chương" của anh ta. Anh có thể vẽ các chiến công của mình ngoài lều, khiên hoặc quần áo hoặc dùng lông chim lên mũ lông vũ hoặc da đầu. Một số bộ lạc dùng đuôi sói buộc vào giày Moccasin để biểu thị cho chiến công.

Ngôn ngữSửa đổi

Do sự phân hóa về địa lý đã khiến hệ ngôn ngữ của người Mĩ bản địa trở nên cực kì phức tạp với hơn 300 ngôn ngữ nói, trong đó hàng chục ngôn ngữ được xem là một hệ ngôn ngữ riêng không dính dáng với bất kì hệ ngôn ngữ nào khác.

Về chữ viết thì người Mĩ bản địa không có chữ viết, họ chỉ có các chữ cái tượng hình và mỗi chữ biểu thị cho một từ hoặc một ý.

Song phổ biến nhất là ngôn ngữ cử chỉ, khác với ngôn ngữ nói, người Mĩ bản địa gần như rất thống nhất với nhau về ngôn ngữ cử chỉ.

Tôn giáo và tín ngưỡngSửa đổi

Phần lớn các bộ lạc người Mĩ bản địa tin rằng có các linh hồn tồn tại ở khắp nơi và trong mọi thứ. Họ tin rằng các linh hồn cổ xưa có thể kết nối thông qua các điềm báo qua các giấc mơ. Từ các điềm báo này sẽ quyết định rất nhiều thứ trong cuộc sống của họ. Một chiến binh hoàn toàn có quyền từ chối việc ra trận nếu như anh ta nói rằng có các điềm báo xấu trong mơ.

Ngoài ra người Mĩ bản địa còn có một nghi thức được gọi là Vũ điệu Mặt Trời, trái với nghi thức vũ điệu mặt trời chỉ mới cách đây vài trăm năm. Vũ điệu Mặt Trời cổ xưa thường được thực hiện bởi các nhân vật quan trọng trong bộ lạc, theo đó người này sẽ nhảy múa nhiều ngày cho đến khi ông ta ngã gục vì kiệt sức, trong lúc bất tỉnh giữa cõi sống và cõi chết, ông sẽ mơ thấy thấy các điềm báo quan trọng cho vận mệnh của cả bộ lạc của mình.

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ “Archived copy” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2013.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết) 2010 Census Bureau
  2. ^ Sieben, J & T Julian. Ngôn ngữ bản xứ Bắc Mỹ được nói ở nhà tại Hoa Kỳ và Puerto Rico: 2006–2010. Cục điều tra dân số Hoa Kỳ. tháng 12 năm 2011.