Nghị định hướng dẫn điều 104 bộ luật hình sự

Quyết định của TAND huyện Đ trong bản án hình sự sơ thẩm nêu trên đối với Nguyễn Văn A tại Bản án hình sự sơ thẩm của TAND huyện Đ ngày 02/8/2010 áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Văn A 15 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; buộc Nguyễn Văn A phải bồi thường cho anh Trần Viết B số tiền 5.345.000 đồng là chưa phù hợp.

Theo ý kiến của tôi, Nguyễn Văn A có hành vi dùng dao Thái Lan đâm vào bụng và tay anh B cấu thành tội cố ý gây thương tích được quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) là đúng tội danh nhưng việc áp dụng điều khoản là chưa chính xác; bởi vì:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 104 BLHS thì người nào gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. Như vậy, trong trường hợp này A có hành vi dùng da Thái Lan gây thương tật cho Đ là 40% nhưng do A đã dùng dao Thái Lan là hung khí nguy hiểm được hướng dẫn tại tiểu mục 3.1, mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã hướng dẫn hung khí nguy hiểm quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 của BLHS là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm tại điểm a, tiểu mục 2.2, mục 2, phần I Nghị quyết 02/2003/HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã nêu rõ:

“… Phương tiện nguy hiểm” là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công.

  1. Về công cụ, dụng cụ

Ví dụ: búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn…”

Đối chiếu với quy định trên thì hành vi dùng dao Thái Lan của Nguyễn Văn A là trường hợp sử dụng hung khí nguy hiểm, cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác.

Như vậy, hành vi dùng dao Thái Lan đâm vào bụng và tay của B gây tổn hại 40% sức khỏe đối với B, nên A đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự với tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 là “dùng hung khí nguy hiểm”.

Từ những phân tích nêu trên cho thấy, Việc TAND huyện Đ ngày 02/8/2010 áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Văn A 15 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; buộc Nguyễn Văn A phải bồi thường cho anh Trần Viết B số tiền 5.345.000 đồng là chưa chính xác. Cần áp dụng khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự để xử phạt Nguyễn Văn A với mức án phù hợp hơn./.

Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 (tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác) quy định:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm:

  1. Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
  1. Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
  1. Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
  1. Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

  1. Có tổ chức;
  1. Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
  1. Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
  1. Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
  1. Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến 7 năm…”.

Tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” được hướng dẫn tại mục 3.1 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 như sau: “Dùng hung khí nguy hiểm quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 của Bộ luật hình sự là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTPngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”.

Theo tiểu mục 2.2, phương tiện nguy hiểm là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công, cụ thể:

  1. Về công cụ, dụng cụ

Ví dụ: búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn...

  1. Về vật mà người phạm tội chế tạo ra

Ví dụ: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ...

  1. Về vật có sẵn trong tự nhiên

Ví dụ: gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt…

Theo các quy định vừa trích dẫn ở trên, chai bia được coi là hung khí nguy hiểm, nếu sử dụng chai bia tấn để công người khác sẽ gây nguy hiểm tới tính mạng hoặc sức khỏe của người bị tấn công.

Đối với trường hợp của bạn, mặc dù nhân viên quán karaoke chỉ bị thương tật dưới 11% nhưng người bạn của bạn lại dùng hung khí nguy hiểm để gây thương tích cho anh này nên vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác” theo quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự.