Nếu và phân tích những cách xác định mức ô nhiễm tối ưu

Nếu và phân tích những cách xác định mức ô nhiễm tối ưu

Loading Preview

Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.

Nếu và phân tích những cách xác định mức ô nhiễm tối ưu

Loading Preview

Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.

Các tiêu chuẩn là một trong những giải pháp cơ bản của Nhà nước sử dụng để giảm thiểu ô nhiễm. Để xác định các tiêu chuẩn phải tuân thủ thông qua nhiều thủ tục khá dài dòng bao gồm các nghiên cứu khoa học và hàng loạt các quá trình đánh giá. Ví dụ ở Mỹ để xác định các tiêu chuẩn môi trường cơ quan bảo vệ môi trường (EPA) được giao nhiệm vụ xem xét lại toàn bộ những nhiệm vụ này và đưa ra kiến nghị chính thức làm thế nào để xác định được các định mức chuẩn, trên cơ sở định mức chuẩn đó được quốc hội quy định thực hiện và được EPA theo dõi và kiểm soát.

  • Các loại tiêu chuẩn môi trường.

Trong khuôn khổ của luật bảo vệ môi trường các định mức chuẩn được xác định, thường chúng được qui định rõ theo một trong hai cách, hoặc là dựa trên các định mức chuẩn của công nghệ hoặc dựa trên cơ sở định mức chuẩn mức thải ( performance - based standard). Như hàm ý của tên gọi, các tiêu chuẩn dựa vào công nghệ qui định một dạng kiểm soát giảm thiểu áp dụng cho tất cả các nguồn gây ô nhiễm , trên thực tế để thực hiện công việc này, cơ quan bảo vệ môi trường chịu trách nhiệm trong việc nghiên cứu công nghệ sẵn có và đánh giá hiệu quả của chúng theo những tiêu chuẩn nhất định đã được quy định rõ trong luật. Những tiêu chuẩn đó cho phép các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm có cơ hội lựa chọn công nghệ tốt nhất, động cơ khuyến khích là rất rõ ràng nhằm đảm bảo giới hạn cụ thể về phát thải ô nhiễm thông qua việc kiểm soát mức giới hạn ấy đạt được bằng cách nào. Ví dụ để giảm mức phát thải Sulfudioxinde ở Mỹ, cơ quan bảo vệ môi trường đã yêu cầu tất cả các nhà máy nhiệt điện sử dụng nhiên liệu đốt là than phải sử dụng hệ thống khử bụi, buộc từng nhà máy phải đạt được cùng một mức thải cho phép theo cùng quy định của công nghệ.

Một loại tiêu chuẩn môi trường có thể thay thế khác là dựa trên cơ sở chuẩn thải. Như vậy, chuẩn mức thải là quy định giới hạn mang tính pháp lý về lượng chất thải tối đa một doanh nghiệp được phép thải vào môi trường. Nếu doanh nghiệp nào thải quá giới hạn cho phép đó thì tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm pháp lý.

Tiêu chuẩn dựa trên cơ sở chuẩn thải qui định rõ mức phát thải đối với tất cả các chủ thể gây ô nhiễm nhưng không quy định công nghệ được sử dụng để đạt đựơc mức chuẩn thải đó. Bằng biện pháp sử dụng chuẩn thải đảm bảo tính linh hoạt hơn so với tiêu chuẩn dựa trên công nghệ, tạo ra cơ chế mềm dẻo để các cơ sở gây ô nhiễm có thể tuỳ chọn biện pháp giảm thiểu ô nhiễm.

  • Cơ sở lý luận để xác định chuẩn mức thải.

Nếu và phân tích những cách xác định mức ô nhiễm tối ưu

Trong hình 2.16 mức thải có hiệu quả S = W*, được chọn làm chuẩn mức thải là mức tối ưu đã nói ở trên. Chuẩn mức thải bảo đảm việc các doanh nghiệp sẽ thải ở mức cho phép nếu không muốn vi phạm pháp luật.

Khi chỉ đơn thuần quy định chuẩn mức thải, chi phí môi trường của doanh nghiệp sẽ chính là chi phí để làm giảm lượng thải từ Wm về W*, đó chính là diện tích tam giác W*EWm trong hình 2.16.

Nhà nước có thể kết hợp sử dụng công cụ chuẩn mức thải với các công cụ khác như phạt, phí xả thải như sẽ đề cập ở phần sau. Nếu vậy, chi phí môi trường của doanh nghiệp sẽ thay đổi.

Trong thực tế, nếu không có đủ thông tin về MAC và MDC, chuẩn mức thải quy định có thể cao hơn hay thấp hơn W*, tức là không đạt được mức ô nhiễm tối ưu. Mặt khác vì các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất và cách quản lý môi trường khác nhau, lại phân bố ở các khu vực địa lý có đặc điểm môi trường nền rất khác nhau nên chuẩn mức thải hiệu quả cần được quy định riêng rẽ. Việc làm này sẽ gây ra chi phí hành chính rất tốn kém, vì thế Nhà nước có thể quy định một mức chuẩn thải chung thống nhất cho một số doanh nghiệp thuộc cùng một ngành, một khu vực (ta gọi là chuẩn mức thải đồng nhất - Uniform Standard). Nhà nước cũng có thể căn cứ vào mức thải hiện tại của các doanh nghiệp để đề ra quy định mỗi hãng phải cắt giảm bao nhiêu % lượng thải của mình.

  • Ý nghĩa Kinh tế của việc sử dụng các tiêu chuẩn

Trong việc sử dụng các tiêu chuẩn có hiệu lực, trong đó chứa đựng hai hàm ý kinh tế quan trọng.

Thứ nhất là mức độ mà ở đó những tiêu chuẩn này được đặt ra, đây là một vấn đề hết sức quan trọng vì những tiêu chuẩn này giúp xác định những mục tiêu của chất lượng môi trường. Ví dụ như tiêu chuẩn đặt ra cho mức phát thải CO2 xác định mức độ có thể chấp nhận được đối với những chất gây ô nhiễm độc hại cho xã hội . Xét về khía cạnh kinh tế, vấn đề cần xem xét ở đây là liệu mức chuẩn đặt ra đó có đạt hiệu quả phân bổ không. Nếu không đạt được điều đó, có nghĩa là xã hội đang mất dần những phúc lợi hữu hình.

Thứ hai là trên cơ sở các tiêu chuẩn, sẽ có những cách ứng xử như thế nào đối với nguồn gây ô nhiễm. Những chính sách có thể thực thi liên quan đến các công cụ kiểm soát, cụ thể là giới hạn mức độ ô nhiễm hay các loại thuế, phí thải….Việc lựa chọn không những chỉ quyết định liệu các mục tiêu đặt ra có tính thực tiễn hay không mà còn phải xét tới có đạt được chi phí – hiệu quả hay không, nếu không đạt được điều đó có nghĩa là các nguồn lực kinh tế đang bị lãng phí, nghĩa là chính phủ phải gánh chịu những chi phí không đáng có.

5.2.1 Thuế ô nhiễm và mục tiêu tối đa hoá phúc lợi xã hội

Theo cách tiếp cận ô nhiễm tối ưu thứ nhất vừa nêu ở trên, người gây ô nhiễm cần phải giảm sản lượng về mức tối ưu xã hội. Để tạo được một động cơ kinh tế cho người gây ô nhiễm thay đổi mức sản lượng của mình, cần phải buộc họ chịu đầy đủ chi phí xã hội của việc sản xuất, bao gồm cả chi phí cá nhân (nguyên vật liệu, nhà xưởng, vốn, lao động…) và chi phí ngoại ứng môi trường.

Pigou đã đưa ra ý tưởng về việc đánh thuế đối với những người gây ô nhiễm(). Nguyên tắc đánh thuế do Pigou nêu ra là: "Mức thuế ô nhiễm tính cho mỗi đơn vị sản phẩm gây ô nhiễm có giá trị bằng chi phí ngoại ứng do đơn vị sản phẩm gây ô nhiễm gây ra tại mức sản lượng tối ưu xã hội Q*".

Nếu ký hiệu mức thuế là t*, ta có t* = MEC(Q*)

Loại thuế này nhằm mục đích buộc nhà sản xuất phải "nội hoá các ngoại ứng" và điều chỉnh mức hoạt động của mình về sản lượng tối ưu xã hội, vì thế người ta gọi là "thuế ô nhiễm tối ưu". Người ta cũng gọi là thuế Pigou để kỷ niệm người đã có công đầu tiên đề xuất ra loại thuế này.

Nếu và phân tích những cách xác định mức ô nhiễm tối ưu

Tại sao thuế Pigou lại là tối ưu? Liệu rằng việc áp dụng thuế có đạt được mục tiêu tối đa hoá phúc lợi xã hội hay không?

Trong trường hợp không có ngoại ứng, chúng ta sẽ có

NSB = TB - TC

Trong đó: NSB: lợi ích ròng xã hội (hay phúc lợi xã hội)

TB: tổng lợi ích do tiêu dùng hàng hoá

TC: tổng chi phí cá nhân của việc sản xuất

Điều kiện để tối đa hoá NSB là MB = MC sẽ đạt được tại sản lượng QM. Nhớ rằng MB thể hiện bằng đường cầu và MC là đường cung đối với hàng hoá. Nếu xuất hiện yếu tố ngoại ứng, phúc lợi xã hội đã thay đổi, lúc đó:

NSB = TSB - TSC

Vì không có lợi ích ngoại ứng, TSB = TB;

Do có chi phí ngoại ứng nên TSC = TC + TEC. Như vậy, mong muốn của chúng ta bây giờ là

Max NSB = TB - (TC + TEC) (1)

Mục tiêu này sẽ đạt được nếu

dNSB dQ = dTB dQ − dTC dQ − dTEC dQ = 0 size 12{ { { ital "dNSB"} over { ital "dQ"} } = { { ital "dTB"} over { ital "dQ"} } - { { ital "dTC"} over { ital "dQ"} } - { { ital "dTEC"} over { ital "dQ"} } =0} {}

tức là: MB - MC - MEC = 0

hay MB = MC + MEC (2)

Khi điều kiện này thoả mãn, chúng ta sẽ đạt được mức sản lượng tối ưu xã hội Q*, vì thế, có thể viết lại (2) là:

MB(Q*) = MC(Q*) + MEC­(Q*)­ = MSC(Q*) (3)

Nếu ta đánh thuế t* = MEC(Q*), (3) sẽ trở thành:

MB(Q*) = MC(Q*) + t* (4)

và mục tiêu maxNSB vẫn hoàn toàn đạt được.

Sau khi đánh thuế, đường cung sẽ dịch chuyển vào trong. Điều này được thể hiện trên đồ thị là đường cung mới (St = MC + t*) cắt đường cầu tại E, tương ứng với mức sản lượng Q*.

Sau khi thực hiện thuế, thặng dư người tiêu dùng sẽ là diện tích tam giác P*AE, còn thặng dư người sản xuất là diện tích tam giác CP*E (hay cũng chính bằng diện tích OBD = OP*ED - BP*ED)

Vấn đề đặt ra là liệu rằng thuế có tạo ra một gánh nặng chi phí mới cho người sản xuất hay không? Câu trả lời là không vì nếu ta coi chi phí môi trường là một loại chi phí đầu vào như các chi phí khác thì việc người sản xuất phải trả tiền cho chi phí ấy là tất nhiên. Rõ ràng là, khi chưa áp dụng thuế, người phải trả chi phí môi trường là người bị ô nhiễm; còn sau khi áp dụng thuế, người gây ô nhiễm phải trả khoản chi phí đó.

5.2.2 Thuế ô nhiễm và mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của người sản xuất

Hãy nhớ lại đồ thị 2.10 mà chúng ta đã đề cập khi nói về mức ô nhiễm tối ưu. Chúng ta sẽ xem thuế Pigou có tác động như thế nào đến lợi nhuận và hành vi của doanh nghiệp.

Nếu và phân tích những cách xác định mức ô nhiễm tối ưu

Khi chưa áp dụng thuế, một doanh nghiệp với đường MNPB như hình vẽ 2.18 a, sẽ sản xuất tại Qm và gây ô nhiễm ở mức Wm lớn nhất, lợi nhuận của doanh nghiệp lúc này là diện tích OAQm.

Khi áp dụng thuế t* có nghĩa là với mỗi đơn vị sản lượng đầu ra, doanh nghiệp đều phải trả một khoản thuế t* cho Nhà nước. Tại mức sản lượng Q*, tổng số thuế mà doanh nghiệp phải nộp là diện tích Qot*EQ* và lợi nhuận sau thuế chỉ còn là t*AE.

Giả sử nếu doanh nghiệp này sản xuất thêm một đơn vị sản lượng vượt quá Q*, lợi nhuận cận biên mà hãng thu được do việc sản xuất thêm đó sẽ nhỏ hơn mức thuế t* mà doanh nghiệp phải trả cho đơn vị sản phẩm thêm đó và việc này sẽ làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp giảm xuống nhỏ hơn t*AE. Ngược lại, doanh nghiệp cũng không cố gắng giảm sản lượng xuống mức nhỏ hơn Q* vì tại đó lợi nhuận cận biên sau khi trừ đi thuế vẫn còn dương, tức là doanh nghiệp vẫn còn cơ hội tăng tổng lợi nhuận nếu gia tăng mức sản lượng.

Như vậy, bằng cách đánh thuế t* = MEC(Q*) doanh nghiệp sẽ có một động cơ kinh tế để sản xuất tại mức sản lượng Q* là mức tối ưu đối với xã hội và vì vậy cũng tạo ra mức ô nhiễm tối ưu W*.

Chúng ta cũng có thể biểu diễn sự dịch chuyển của đường Mπ như trong hình (b). Đường lợi nhuận cá nhân ròng cận biên sau thuế sẽ là Mπt = Mπ - t*. Rõ ràng đường lợi nhuận mới này cắt trục hoành tại Q* và tổng lợi nhuận là diện tích OBQ* sẽ bằng đúng diện tích t*AE trong hình a.

Nếu thể hiện những điều trên dưới dạng hàm số toán học, ta có:

- Trước khi có thuế, mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận

max  = TR - TC

sẽ đạt được khi thoả mãn điều kiện

' = MR - MC = 0,

tức là Mπ = 0 hay MR = MC. Mức sản lượng Qm thoả mãn điều kiện đó.

- Sau khi áp dụng thuế, doanh nghiệp vẫn theo đuổi mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận

max t = TR - (TC + T)

Trong đó: T là tổng số thuế phải nộp, bằng t*.Q

điều kiện cần cho tối đa hoá hàm này là:

't = MR - MC - t* = 0, tức là MNPB - t* = 0 hay MR = MC + t*

Trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì MR = P, do đó P = MC + t*

5.2.3 Một số vấn đề liên quan đến áp dụng thuế ô nhiễm tối ưu

 Trong thực tế, việc xác định đúng mức thuế t* cần thiết là rất khó khăn vì chúng ta không có đủ thông tin về MNPB và MEC. Khi đó, một mức thuế t nào đó được ban hành có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn t* và như vậy việc áp dụng thuế t sẽ không đạt được mục tiêu tối ưu đối với xã hội.

 Một vấn đề gây nhiều tranh cãi là, mặc dù thuế Pigou góp phần đưa mức sản lượng và ô nhiễm về mức tối ưu xã hội nhưng cách đánh thuế như vậy có vẻ không công bằng lắm vì người gây ô nhiễm phải trả nhiều hơn mức chi phí ngoại ứng môi trường mà họ gây ra cho xã hội.

Nếu và phân tích những cách xác định mức ô nhiễm tối ưu

Trong hình 2.19 này, chi phí ngoại ứng môi trường chỉ là diện tích a nhưng người gây ô nhiễm phải trả tổng số thuế bằng diện tích (a + b)

Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế lại cho rằng lập luận về sự "không công bằng" chỉ đúng trong trường hợp doanh nghiệp có quyền tài sản về môi trường. Trong trường hợp doanh nghiệp không có quyền tài sản về môi trường, khoản thuế (a + b) sẽ bao gồm cả việc chi trả cho chi phí môi trường và chi trả cho quyền sử dụng các nguồn lực môi trường vốn là khan hiếm, tức là (a + b) bao gồm cả chi phí thực và chi phí cơ hội của việc sử dụng môi trường.

 Như đã đề cập ở phần trên, thuế ô nhiễm đánh vào từng đơn vị sản phẩm được sản xuất ra mà không căn cứ vào lượng chất thải gây ô nhiễm thực tế được thải ra môi trường. Hạn chế của cách đánh thuế này là nó không tạo ra được những động cơ khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất sạch hơn để giảm lượng chất thải cũng như không khuyến khích doanh nghiệp tìm kiếm các giải pháp tốt hơn để xử lý hay huỷ bỏ chất thải.

Phí xả thải là một loại phí đánh vào lượng chất thải thực tế của người sản xuất. Đây cũng là một dạng thuế Pigou, chúng ta có thể gọi là phí pigou. Để xác định mức phí tính trên mỗi đơn vị chất thải, người ta cần căn cứ vào chi phí cần thiết để làm giảm đơn vị ô nhiễm đó, tức là MAC đã nói ở trên. Khi áp dụng phí xả thải, người gây ô nhiễm sẽ có phản ứng phù hợp để nhằm tối thiểu hoá chi phí của mình.

Chúng ta sẽ xem doanh nghiệp với đường MAC = 72 – 3Q (trong đó Q là lượng phát thải) như trong hình 2.2.5 dưới đây sẽ phản ứng như thế nào với một mức phí F.

Nếu và phân tích những cách xác định mức ô nhiễm tối ưu

Khi chưa có sự can thiệp của Nhà nước, doanh nghiệp thải 24 đơn vị chất thải và không chi phí một đồng nào cho việc giảm thải.

Giả sử Nhà nước yêu cầu phải giảm thải triệt để 24 đơn vị, căn cứ vào công nghệ giảm thải và yêu cầu nộp phí ở mức quy định của nhà nước có tính tối ưu với một mức phí là 30$/đơn vị chất thải, doanh nghiệp có thể có những lựa chọn khác nhau như được tính toán trong bảng 2.4 dưới đây:

Bảng 2.2: Các lựa chọn giảm thải và chi phí của doanh nghiệp

Tổng chi phí giảm thải (TAC) Tổng phí (TF) Tổng chi phí môi trường (TAC + TF)
Phương án 1 Không chi phí giảm thải 0 30$ x 24 = 720$ 720$
Phương án 2 Giảm thải toàn bộ 1 2 x 72 $ x 24 = 864 $ size 12{ { {1} over {2} } x"72"$x"24"="864"$} {} 0 864$
Phương án 3 nộp phí 14 đơn vị (tại mức có MAC = F). Chi phí giảm thải 10 đơn vị. 1 2 x 30 $ x 10 = 150 $ size 12{ { {1} over {2} } x"30"$x"10"="150"$} {} 30$ x 14 = 420$ 570$

Tất nhiên doanh nghiệp có thể có nhiều phương án lựa chọn khác mà mức thải không phải là 14 đơn vị. Chúng ta có thể dễ dàng thấy được là bất cứ phương án lựa chọn nào khác với phương án 3 ở trên sẽ đều có tổng chi phí lớn hơn 570$. Một doanh nghiệp muốn tối đa hoá lợi ích của mình sẽ chọn phương án cực tiểu hoá tổng chi phí.

Trên thực tế, với mọi mức thải cao hơn 14 đơn vị, chi phí cận biên của việc giảm thải thấp hơn mức phí phải nộp nên với một khoản chi phí giảm thải nhỏ doanh nghiệp có thể tránh được việc nộp phí 30$ cho mỗi đơn vị chất thải.

Nhưng với những mức thải nhỏ hơn 14 đơn vị, do MAC lớn hơn mức phí F = 30$ nên doanh nghiệp sẽ thích nộp phí thải hơn là bỏ tiền ra để xử lý chất thải.

Cuối cùng thì doanh nghiệp sẽ thải 14 đơn vị, nộp một tổng số phí bằng diện tích b và gánh chịu một tổng chi phí giảm thải bằng diện tích a như trong hình vẽ.

Qua việc phân tích một ví dụ như trên, có thể thấy rằng, nếu muốn đạt được một mức thải xác định nào đó, thì Nhà nước cần quy định mức phí thải bằng đúng MAC của chính đơn vị chất thải đó.

Như vậy, theo cách tiếp cận ô nhiễm tối ưu thứ hai nói ở trên, mức phí tối ưu (hay mức phí có hiệu quả) sẽ được xác định tại mức thải W*, tại đó F = MAC = MDC.

Nếu và phân tích những cách xác định mức ô nhiễm tối ưu

Thực tế khi áp dụng công cụ này, cũng giống như chuẩn mức thải, do không có đủ thông tin về MAC và MDC nên mức phí quy định có thể cao hơn hoặc thấp hơn F* và vì thế kết quả là mức thải cuối cùng sẽ không trùng với mức tối ưu W*.

Bên cạnh đó, để tiết kiệm chi phí hành chính, Nhà nước cũng có thể quy định mức phí thải đồng nhất (Uniform Fee). Nếu áp dụng mức phí thải đồng nhất, một giải pháp có hiệu quả về chi phí (chi phí thấp nhất) đối với xã hội sẽ đạt được bởi lẽ chi phí cận biên của việc giảm đơn vị thải cuối cùng của tất cả các doanh nghiệp sẽ bằng nhau và bằng chính mức phí, tức là MAC1 = MAC2 … = F.

Minh hoạ 2.2: THU PHÍ NƯỚC THẢI.

Điều 6: Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải quy định như sau.

  1. Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt được tính theo tỷ lệ phần trăm (%) trên giá bán 1 m3 (một mét khối) nước sạch, nhưng tối đa không quá 10% (mười phần trăm) của giá bán nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng. Đối với nước thải sinh hoạt thải ra từ các tổ chức, hộ gia đình tự khai thác nước để sử dụng (trừ hộ gia đình ở những nơi chưa có hệ thống cấp nước sạch), thì mức thu được xác định theo từng người sử dụng nước, căn cứ vào số lượng nước sử dụng bình quân của mỗi người trong xã, phường nơi khai thác và giá cung cấp 1 m3 nước sạch trung bình tại địa phương.
  2. Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp tính theo từng chất gây ô nhiễm được quy định như sau:
STT
CHẤT GÂY Ô NHIỄM MỨC THU(đồng/kg chất gây ô nhiễm có trong nước thải)
Tên gọi Ký hiệu Tối thiểu Tối đa
1 Nhu cầu ô xi sinh hoá ABOD 100 300
2 Nhu cầu ô xi hoá học ACOD 100 300
3 Chất rắn lơ lửng ATSS 200 400
4 Thuỷ ngân AHg 10.000.000 20.000.000
5 Chì Apb 300.000 500.000
6 Arsenic AAS 600.000 1.000.000
7 Cadmium Acd 6000.000 1.000.000

Nguồn:Nghị định của chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Số 67/2003/NĐ-CP. Ngày 13 tháng 6 năm 2003.

Thực tế áp dụng các công cụ chuẩn mức thải và phí xả thải cho thấy, ở một số quốc gia, trong một số trường hợp các nhà quản lý dựa nhiều hơn vào chuẩn mức thải trong khi một số quốc gia khác lại sử dụng rất thành công các loại phí thải để điều tiết mức thải.

Vậy, lý do kinh tế gì đã làm cho người ta ưa thích cách này hay cách khác. Các nhà kinh tế đã chứng minh rằng, trong trường hợp thông tin hoàn hảo, nói chung các nhà quản lý ưa thích dùng công cụ phí thải hơn so với công cụ chuẩn mức thải. Tuy nhiên, khi không có đủ thông tin, sự ưa thích sẽ còn tuỳ thuộc vào việc cân nhắc chi phí - lợi ích của từng trường hợp cụ thể. Chúng ta sẽ xem xét cách lựa chọn của các nhà quản lý trong cả hai trường hợp, khi thông tin hoàn hảo và khi thông tin không hoàn hảo.

5.4.1 Trường hợp thông tin hoàn hảo

Khi thông tin hoàn hảo tức là chúng ta hoàn toàn xác định được MAC và MDC và mức thải tối ưu cũng như mức phí cần thiết để đạt được mức thải tối ưu đó. Ví dụ sau đây sẽ cho thấy trong trường hợp thông tin hoàn hảo, các nhà quản lý ưa thích sử dụng công cụ phí thải hơn.

Giả sử có hai doanh nghiệp ở gần nhau, quá trình sản xuất cùng tạo ra chất thải như nhau và việc xả thải của họ gây ra những thiệt hại tương tự nhau đối với môi trường. Tuy nhiên do sử dụng các công nghệ sản xuất khác nhau nên lượng thải hiện tại và chi phí cận biên để giảm thải của 2 doanh nghiệp này không giống nhau.

Trong hình 2.2.7 dưới đây, MAC1 và MAC2 là hai đường chi phí giảm thải cận biên của hai doanh nghiệp. Giả sử với thông tin đầy đủ người ta xác đinh được hàm chi phí giảm thải cận biên của doanh nghiệp 1 và doanh nghiệp 2 như sau:

MAC1 = 6500 – 50 Q1

MAC2 = 10000 – 40 Q2

Nếu và phân tích những cách xác định mức ô nhiễm tối ưu

Hiện tại doanh nghiệp 1 thải 130 đơn vị chất thải / năm, doanh nghiệp 2 thải 250 đơn vị chất thải / năm. Như vậy, nếu không có sự can thiệp của cơ quan quản lý môi trường, tổng lượng thải của 2 doanh nghiệp là 380 đơn vị / năm. Giả sử Nhà nước muốn giảm tổng lượng thải của 2 doanh nghiệp xuống còn 200 đơn vị / năm tức là giảm tổng lượng thải 180 đơnvị / năm. Để đạt được mục tiêu môi trường như vậy, cơ quan quản lý môi trường có thể thực hiện một trong hai giải pháp; một là cho phép các doanh nghiệp thực hiện theo quy định tiêu chuẩn phát thải S = 100 đơn vị / doanh nghiệp / năm, hai là một mức phí thải 4000 $ / đơn vị thải. Tuy nhiên các Nhà Quản lý cũng cho rằng mục tiêu kinh tế phải đạt được là càng tiết kiệm chi phí giảm thải cho xã hội càng tốt (chi phí xã hội là tổng chi phí giảm thải của 2 doanh nghiệp cộng lại).

Chúng ta sẽ thể hiện các kết quả về môi trường và kinh tế của hai cách lựa chọn trong bảng 2.5 sau đây.

Bảng 2.3: Các lựa chọn giải pháp giảm thải và chi phí của xã hội

Chuẩn mức thải Phí thải
Tổng lượng giảm thải 30 + 150 = 180 80 + 100 = 180
12 size 12{ { {1} over {2} } } {}12 size 12{ { {1} over {2} } } {}Chi phí giảm thải doanh nghiệp 1 x 1500 x 30 = 22.500$ x 4000 x 80 = 160.000$
12 size 12{ { {1} over {2} } } {}12 size 12{ { {1} over {2} } } {}Chi phí giảm thải doanh nghiệp 2 x 6000 x 150 = 450.000$ x 4000 x 100 = 200.000$
Tổng chi phí xã hội để giảm thải 472.500$ 360.000$

Như vậy, cả 2 cách thực hiện chính sách đều đạt được mục tiêu môi trường như nhau là giảm 180 đơn vị phát thải nhưng việc sử dụng phí thải sẽ tiết kiệm cho xã hội (472.500 - 360.000) = 112.500$/năm.

Nhờ thực hiện phí thải, doanh nghiệp 2 sẽ tiết kiệm được chi phí giảm thải (450.000 - 200.000) = 250.000$/năm so với tuân thủ chuẩn thải. Doanh nghiệp 1 tuy phải tăng chi phí giảm thải (160.000 - 22.500) = 137.500$/năm nhưng nhờ thế lại không phải nộp một khoản phí (4.000 x 50) = 200.000$/năm nên vẫn thích tự chi phí để giảm thải hơn. Lợi ích ròng của doanh nghiệp 1 khi thực hiện giảm thải thêm 50 đơn vị nữa là (200.000 - 137.500) = 62.800$/năm. Đến đây chúng ta đã thấy rõ tại sao một quy định mức phí thải 4.000$ lại được ưa thích hơn quy định một chuẩn mức thải 100 đơn vị / năm. Nói chung trong điều kiện thông tin đầy đủ, phí xả thải thường được ưa thích hơn các chuẩn mức thải, bởi vì:

Thứ nhất, so với chuẩn mức thải, phí thải đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn (tiết kiệm chi phí giảm thải) trong khi cùng đạt được hiệu quả môi trường như nhau.

Thứ hai, phí thải khuyến khích các doanh nghiệp hăng hái áp dụng các biện pháp để giảm thải (như thay đổi công nghệ, thiết bị quản lý nội vi tốt, tiết kiệm năng lượng, nước, xử lý chất thải…) trong chừng mực nào các chi phí cho việc này vẫn còn thấp hơn mức phí và vì thế có thể còn giảm được mức thải nhiều hơn nữa.

Thứ ba, khi áp dụng trong thực tế, nếu Nhà nước yêu cầu các doanh nghiệp phải nộp phí thì phí xả thải còn đem lại nguồn thu đáng kể có thể sử dụng cho các chương trình bảo vệ môi trường hoặc các chương trình xã hội khác.

5.4.2 Trường hợp thông tin không hoàn hảo

Thông tin không hoàn hảo sẽ gây ra tình trạng không chắc chắn về các chi phí giảm thải cận biên và chi phí thiệt hại cận biên, dẫn đến việc xác định chuẩn mức thải và/hoặc phí thải thấp hơn hoặc cao hơn mức cần thiết để đạt ô nhiễm tối ưu. Cụ thể hơn, có thể nói rằng thiếu thông tin sẽ dẫn đến việc ban hành các quy định về chuẩn thải hay phí thải không hiệu quả và gây ra những phí tổn gia tăng cho xã hội. Chúng ta gọi đó là sự thất bại của chính sách.

Các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý tất nhiên không muốn có sự thất bại về chính sách. Tuy nhiên, trong trường hợp thiếu thông tin, điều này là khó tránh khỏi. Các nhà hoạch định chính sách môi trường sẽ ưa thích sử dụng một công cụ nào đó nếu biết rằng việc sử dụng công cụ đó gây ra phí tổn gia tăng cho xã hội nhỏ hơn so với khi sử dụng công cụ khác.

Chúng ta hãy xem xét trường hợp khi thiếu thông tin về chi phí giảm thải. Giả sử đường chi phí thiệt hại cận biên có độ dốc (giá trị tuyệt đối) lớn hơn so với độ dốc của đường chi phí giảm thải cận biên. Giả sử tiếp rằng MAC thực tế được thể hiện bằng đường MACT trong hình 2.28 nhưng vì thiếu thông tin nên ta chỉ có số liệu MACE nhỏ hơn MACT.

Nếu và phân tích những cách xác định mức ô nhiễm tối ưu

Hình 2..23: Sự lựa chọn giữa chuẩn mức thải và phí thải khi không có đủ thông tin

Với số liệu thông tin có được, nhà hoạch định chính sách có thể ban hành một chuẩn mức thải tại WS nhỏ hơn mức tối ưu W*. Sự chệch khỏi mức thải tối ưu W* sẽ tạo ra sự gia tăng trong tổng chi phí môi trường đối với toàn xã hội, thể hiện bằng diện tích EAB trong hình vẽ trên.

Nếu cũng với thông tin đã nêu, việc ban hành một mức phí thải sẽ dẫn đến kết quả là doanh nghiệp sẽ thải tại WF thay vì W* và thiệt hại ròng gây ra cho xã hội sẽ bằng diện tích ECD trong hình vẽ.

Vì MDC có độ dốc lớn hơn độ dốc của đường MAC nên diện tích ECD sẽ lớn hơn diện tích EAB, hay nói cách khác, thiệt hại xã hội do việc ban hành một chuẩn mức thải không tối ưu nhỏ hơn thiệt hại xã hội do việc ban hành một mức phí thải không tối ưu gây ra. Và như vậy thì các nhà hoạch định chính sách sẽ ưa thích sử dụng công cụ chuẩn mức thải hơn.

Trường hợp ngược lại, nếu độ dốc của MDC nhỏ hơn độ dốc của MAC thì công cụ phí thải lại tỏ ra ưu thế hơn và được các nhà hoạch định chính sách ưa thích hơn.

Trong thực tế còn có thể xảy ra rất nhiều trường hợp khác liên quan đến vấn đề thiếu thông tin.

Khi không có thông tin hoàn hảo, việc áp dụng chuẩn mức thải sẽ ấn định mức thải xác định nhưng chúng ta không thể xác định chắc chắn chi phí để cắt giảm chất thải về đến mức đó. Trong khi đó, nếu áp dụng phí thải, chúng ta lại hoàn toàn không chắc chắn về lượng thải thực tế sẽ là bao nhiêu.

Như vậy, công cụ chính sách nào, phí hay chuẩn thải, được ưa thích hơn còn tuỳ thuộc vào bản thân sự không chắc chắn, vào hình dạng và độc dốc của các đường chi phí cận biên.

Vấn đề khó khăn trong thực tế là các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan quản lý môi trường có thể không biết về độ dốc tương đối của các đường MAC và MDC hoặc có thể không có một ý niệm gì về sự tương quan (đồng biến hay nghịch biến) của các đường này và vì thế khả năng thất bại về chính sách sẽ có thể xảy ra nhiều hơn.

Năm 1968, nhà kinh tế học người Canađa là Dales lần đầu tiên đưa ra đề nghị về một cơ chế trong đó một số lượng nhất định "quyền gây ô nhiễm" (bằng với mức ô nhiễm mà xã hội mong muốn) có thể được mua đi bán lại giữa những người gây ô nhiễm.

"Quyền gây ô nhiễm" của các doanh nghiệp sẽ được ghi nhận bằng các "giấy phép xả thải" do cơ quan quản lý môi trường ban hành. Giả sử cơ quan quản lý môi trường xác định tổng mức ô nhiễm cho phép là 100 đơn vị, họ sẽ phát hành 100 giấy phép, mỗi giấy phép tương đương quyền được thải 1 đơn vị ô nhiễm. Doanh nghiệp chỉ được phép thải trong phạm vi số lượng giấy phép mình có. Nhưng vì có thể mua bán, trao đổi giấy phép nên doanh nghiệp nào muốn thải nhiều hơn sẽ phải mua thêm giấy phép từ những doanh nghiệp không có nhu cầu sử dụng. Ngược lại doanh nghiệp nào có khả năng giảm thải tốt có thể thừa ra một số giấy phép và được bán số giấy phép thừa đó.

Nói chung doanh nghiệp nên bán giấy phép khi chi phí giảm ô nhiễm cận biên của họ thấp hơn giá giấy phép và ngược lại, nên mua giấy phép nếu chi phí này cao hơn giá giấy phép. Như vậy đường MAC thực tế trở thành đường cầu đối với giấy phép gây ô nhiễm. Động lực của thị trường giấy phép chính là cả người mua và người bán giấy phép đều có lợi; đồng thời tổng chi phí giảm thải của toàn xã hội sẽ giảm xuống.

Ví dụ, có hai doanh nghiệp A và B trong quá trình sản xuất đã thải ra SO2 gây ô nhiễm môi trường. Mức thải hiện tại của mỗi doanh nghiệp là 60 tấn, như vậy tổng lượng thải mà môi trường phải chịu tải là 120 tấn, với mức đó quá bị ô nhiễm, mức ô nhiễm tối ưu chỉ có thể là 60 tấn, trước thực tế đó Nhà nước quyết định sẽ phân phối cho mỗi doanh nghiệp 30 giấy phép, tương ứng với quyền được thải 30 tấn chất thải, nếu thải vượt quá quy định cho phép thì phải có giấy phép thải để chứng minh cho quyền phát thải của mình, mặt khác sau khi các doanh nghiệp có giấy phép thải trong tay họ được quyền trao đổi mua bán. Việc mua bán giấy phép giữa A và B sẽ diễn ra sau đó khi 2 doanh nghiệp này nhận thấy cơ hội trao đổi do chi phí giảm thải cận biên của họ có sự chênh lệch nhau. Giao dịch trên thị trường có thể dẫn đến quyết định về một mức giá giấy phép là 20$/tấn. Doanh nghiệp B do có chi phí giảm thải cận biên thấp hơn sẽ giảm đi 40 tấn chất thải thay vì chỉ giảm có 30 tấn theo sự cho phép của số giấy phép mà B có, vì thế lượng thải của B bây giờ là 20 tấn và B có thể bán đi 10 giấy phép không cần sử dụng đến nữa. Ngược lại doanh nghiệp A có MAC cao hơn sẽ quyết định mua thêm 10 giấy phép của B để được quyền thải 40 tấn chất thải và như vậy A chỉ cần xử lý 20 tấn chất thải. Tổng chi phí giảm thải đối với xã hội đã giảm đi so với việc phân phối giấy phép ban đầu, cả A và B đều được lợi nhờ việc mua bán giấy phép

Nếu và phân tích những cách xác định mức ô nhiễm tối ưu
Hình 2..24: Mua bán "quyền được gây ô nhiễm"

Sự thay đổi lợi ích và chi phí do việc mua bán giấy phép được tính như trong bảng 2.5 sau:

Bảng 2.5: So sánh chi phí giảm thải trước và sau khi có giấy phép thải

Doanh nghiệp A Doanh nghiệp B
12x15$x30T=225$ size 12{ { {1} over {2} } x"15"$x"30"T="225"$} {}12x30$x30T=450$ size 12{ { {1} over {2} } x"30"$x"30"T="450"$} {}I. Chi phí giảm thải lúc ban đầu
12x20$x40T=400$ size 12{ { {1} over {2} } x"20"$x"40"T="400"$} {}12x20$x20T=200$ size 12{ { {1} over {2} } x"20"$x"20"T="200"$} {}II. Chi phí giảm thải sau khi mua bán giấy phép
- Trừ đi khoản bán giấy phép 0 20$ x 10 = 200$
- Cộng với khoản mua giấy phép 20$ x 10 = 200$ 0
→ Tổng chi phí giảm thải và mua bán giấy phép 200 + 200 = 400$ 400 - 200 = 200$
III. Thu lợi do mua bán giấy phép 450 - 400 = 50$ 225 - 200 = 25$

Nhờ có mua bán giấy phép mà tổng chi phí giảm thải đối với xã hội giảm được 75$, trong đó A được lợi 50$ và B được lợi 25$. Phần được lợi của 2 doanh nghiệp này được thể hiện bằng diện tích hình tam giác được gạch chéo trong hình ( 2.30)

Công cụ giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng kết hợp được những ưu điểm của hệ thống chuẩn mức thải và phí xả thải. Việc phát hành một số lượng nhất định giấy phép sẽ có tác dụng như chuẩn mức thải, bảo đảm cho các doanh nghiệp không thải nhiều hơn mức cho phép. Mặt khác giá giấy phép trên thị trường sẽ có tác dụng như một mức phí thống nhất, là cơ sở để tối thiểu hoá chi phí xã hội của việc giảm thải do bảo đảm nguyên tắc cân bằng chi phí cận biên cuả việc giảm thải.

Quyền được bán giấy phép với giá xác định bởi cầu trên thị trường sẽ tạo ra động cơ khuyến khích các doanh nghiệp giảm thải nhiều hơn để có giấy phép thừa mà bán. Trong một số trường hợp, giảm thải có thể trở thành ngành kinh doanh mới của doanh nghiệp.

Trợ cấp thường được sử dụng trong những trường hợp và ở những khu vực mà ở đó có khó khăn đáng kể về kinh tế. Trợ cấp của Nhà nước có thể áp dụng cho các hoạt động tạo ra ngoại ứng tích cực như trồng rừng, xử lý ô nhiễm… Nguyên nhân dẫn đến việc trợ cấp là do trong các hoạt động này lợi ích cá nhân thường thấp hơn lợi ích xã hội; do đó chi phí mà các cá nhân chấp nhận bỏ ra để tiến hành các hoạt động trên không đạt mức cần thiết đối với xã hội.

Nhà nước có thể điều chỉnh mức độ hoạt động cá nhân về đến mức hiệu quả xã hội thông qua mức trợ cấp được xác định đúng bằng chênh lệch giữa lợi ích cận biên xã hội và lợi ích cận biên cá nhân (tức là bằng lợi ích ngoại ứng cận biên).

Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp thực tế, trợ cấp của Nhà nước không đạt được hiệu quả mong muốn, nhất là đối với các hoạt động mà lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích xã hội, ví dụ như trợ cấp cho các doanh nghiệp gây ô nhiễm nhằm khuyến khích hạn chế ô nhiễm. Trong các doanh nghiệp này, nếu không có sự giám sát chặt chẽ của cơ quan chức năng, trợ cấp sẽ không được hạch toán toàn bộ vào chi phí giảm ô nhiễm, mà một phần sẽ được dùng để hạ thấp chi phí cá nhân trong sản xuất nhằm tăng lợi nhuận. Kết quả là trợ cấp vẫn không làm giảm ô nhiễm đến mức tối ưu xã hội mà lại kích thích tăng số lượng doanh nghiệp gây ô nhiễm và tổng mức ô nhiễm có thể tăng lên.

Nếu người tiêu dùng hoặc người sản xuất không phải trả chi phí hoặc phải trả rất ít cho việc vứt bỏ rác thải (chẳng hạn họ chỉ tốn thời gian và chút công sức bỏ rác vào thùng) thì họ sẽ thải ra quá nhiều rác thải. Chi phí thải rác của cá nhân các hộ gia đình nói chung là không đổi hoặc tăng chậm. Ngược lại chi phí xã hội của việc đổ rác bao gồm cả chi phí thu gom và các chi phí môi trường do rác vứt bừa bãi (như làm mất mỹ quan thành phố, các tổn thương có thể có do mảnh thuỷ tinh và các vật sắc nhọn gây ra…) có xu hướng tăng nhanh khi mức thải gia tăng.

Chúng ta sẽ biểu diễn đường chi phí cá nhân và xã hội của việc thải rác trong hình 2.31dưới đây.

Nếu không phải chi phí cho việc vứt rác, các hộ gia đình sẽ thải rác ở mức tối đa, ví dụ như trong hình 2.31là 12 đơn vị / tuần.

Việc thu gom, phân loại để tái chế hoặc tái sử dụng có thể được thực hiện bởi một doanh nghiệp của Nhà nước hoặc tư nhân. Đường chi phí cận biên của việc tái sử dụng rác MCR ở hình 2.31 được đọc từ phải sang trái, có nghĩa là khi lượng rác thải là 12 đơn vị thì không có việc tái sử dụng và chi phí cận biên tái sử dụng bằng không. Khi lượng chất thải giảm xuống tức là lượng tái sử dụng tăng và chi phí cận biên (và tổng chi phí) của việc tái sử dụng cũng tăng ().

Lượng tái sử dụng hiệu quả là 6 đơn vị, tại đó, chi phí cận biên của tái sử dụng rác MCR bằng chi phí cận biên xã hội của việc thải rác MSC (lượng thải là 6 đơn vị)

Lượng thải hiệu quả xã hội này thấp hơn lượng rác sẽ phát sinh từ thị trường tư nhân (8 đơn vị thải).

Nếu và phân tích những cách xác định mức ô nhiễm tối ưu

Hình 2..25: Mức thải rác tối ưu và 1hệ thống đặt cọc - hoàn trả

Một giải pháp được sử dụng thành công ở nhiều nước trên thế giới để khuyến khích việc tái sử dụng là tiền đặt cọc có thể được hoàn trả lại. Trong hệ thống đặt cọc - hoàn trả, người tiêu dùng phải trả một khoản tiền cho chủ cửa hàng khi mua các sản phẩm mà sau đó có thể tái chế, tái sử dụng (như bia, nước ngọt đựng trong chai thuỷ tinh, ắc quy ô tô, máy giặt cũ…); khoản tiền này sẽ được hoàn lại nếu sau đó, người tiêu dùng đem trả lại đồ thuỷ tinh, ắc quy ôtô… cho cửa hàng hoặc một điểm thu gom nào đó để tái chế, tái sử dụng.

Việc phải đặt cọc và có thể nhận lại tiền đã tạo ra chi phí cá nhân bổ sung của việc vứt rác, đó là chi phí cơ hội của việc không lấy lại được tiền. Mức tiền có thể được hoàn lại cho mỗi đơn vị thải là d đã làm cho chi phí vứt rác tăng từ MC lên (MC + d). Và như vậy, với chi phí thải rác cao hơn, các cá nhân sẽ giảm mức thải và tăng mức tái sử dụng đến mức tối ưu xã hội.

Hệ thống đặt cọc - hoàn trả, ngoài ưu điểm điều tiết mức thải rác về tối ưu xã hội như đã nêu trên, còn có một ưu điểm khác nữa, đó là tạo ra một thị trường sản phẩm tái sử dụng. ở nhiều nơi, các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân cũng như rất nhiều lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức chuyên môn hoá vào hoạt động thu gom, mua bán và vận chuyển vật liệu có thể tái sử dụng. Khi thị trường này lớn hơn và có hiệu quả hơn thì cầu về vật liệu tái sử dụng sẽ tăng lên so với cầu về vật liệu nguyên chất, vì thế sẽ làm tăng tác động tích cực đối với môi trường.

Ký quỹ bảo vệ môi trường là việc cá nhân hay tổ chức trước khi tiến hành hoạt động sản xuất hay kinh doanh được xác định là gây ra những thiệt hại cho môi trường phải có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quí hoặc các giấy tờ trị giá được bằng tiền (gọi chung là tiền) vào tài khoản phong toả tại một tổ chức tín dụng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ phục hồi môi trường do hoạt động sản xuất hay kinh doanh gây ra theo quy định của pháp luật.

Những lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh thường sử dụng hình thức ký quỹ môi trường là khai thác khoáng sản, khai thác rừng hay một số các nguồn tài nguyên khác mà việc khai thác đó đòi hỏi phải có phục hồi lại những mất mát cuả các thành phần môi trường.

Minh hoạ 2.3: CĂN CỨ, PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH MỨC KÝ QUỸ ĐỂ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG TRONG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN.

1.- Căn cứ xác định mức tiền ký quỹ: Mức tiền ký quỹ được xác định căn cứ theo tổng dự toán chi phí phục hồi, thời hạn khai thác theo báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế mỏ và báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm định và phê chuẩn; và thời hạn có hiệu lực khai thác của giấy phép khai thác khoáng sản.

2. Phương pháp xác định mức tiền ký quỹ.

a) Trường hợp ký quỹ một lần:

Đối với những trường hợp có thời hạn khai thác theo báo cáo nghiên cứu khả thi về khai thác khoáng sản dưới 3 (ba) năm phải thực hiện ký quỹ một lần. Mức ký quỹ bằng 100% (một trăm phần trăm) tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường theo báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế mỏ và báo cáo đánh gí tác động môi trường (không bao gồm khoản kinh phí dùng cho phương án công nghệ sản xuất và công nghệ xử lý về mặt môi trường được tiến hành ngay trong quá trình khai thác của đơn vị) đã được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm định và phê chuẩn.

b) Trường hợp ký quỹ nhiều lần:

b.1. Đối với những trường hợp có thời hạn khai thác theo báo cáo nghiên cứu khả thi về khai thác khoáng sản từ 3 (ba năm) trở lên thì được phép ký quỹ nhiều lần.

b.2. Số tiền ký quỹ (ký hiệu là A) được xác định theo thời hạn khai thác theo báo cáo nghiên cứu khả thi, thời hạn khai thác theo giấy phép khai thác khoáng sản được cấp và tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường theo báo cáo nghiên cứu khả thi, thời hạn khai thác theo giấy phép khai thác khoáng sản được cấp và tông dự toán chi phí phục hồi môi trường theo báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế mỏ và báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm định và phê chuẩn, tính theo công thức sau:

Tg x Mcp

A = -------------------

Tb

Trong đó:

A: Số tiền ký quỹ cho một đối tượng được phép khai thác khoáng sản (Đồng Việt nam).

Tg: Thời hạn khai thác theo giấy phép khai thác khoáng sản được cấp (năm).

Tb: Thời hạn khai thác theo báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế mỏ và báo cáo đánh gía tác động môi trường đã được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm định và phê chuẩn (Năm).

Mcp: tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường theo báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế mỏ và báo cáo đánh giá tác động môi trường (không bao gồm khoản kinh phí dùng cho phương án công nghệ sản xuất và công nghệ xử lý về mặt môi trường được tiến hành ngay trong quá trình khai thác của đơn vị) đã được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm định và phê chuẩn (đồng Việt Nam).

b.3 Số tiền ký quỹ lần đầu (Ký hiệu là B) đối với từng trường hợp như sau:

b. 3. 1. Đối với dự án có thời hạn khai thác theo giấy phép khai thác khoáng sản được cấp (Tg) dưới 10 năm thì mức ký quỹ lần đầu bằng 25% (hai mươi phần trăm) số tiền phải ký quỹ (A) xác định theo công thức trên.

b. 3. 2. Đối với dự án có thời hạn khai thác theo giấy phép khai thác khoáng sản được cấp (Tg) từ 10 năm đến dưới 20 năm thì mức ký quỹ lần đầu bằng 20% (hai mươi phần trăm) số tiền phải ký quỹ (A) xác định theo công thức trên.

b. 3. 3. Đối với dự án có thời hạn khai thác theo giấy phép khai thác khoáng sản được cấp (Tg) từ 20 năm trở lên thì mức ký quỹ lần đầu bằng 15% (mười lăm phần trăm) số tiền phải ký quỹ (A) xác định theo công thức trên.

b. 4. Số tiền ký quỹ những lần sau (ký hiệu C) căn cứ vào số tiền phải ký quỹ còn lại và thời hạn khai thác khoáng sản được cấp, tính theo công thức sau đây:

(A – B)

C = ----------------

(Tg – 1)

C) Trường hợp được gia hạn, bổ sung thời hạn khai thác:

c.1. Trường hợp nếu hoạt động khai thác theo khoảng thời hạn được gia hạn, bổ sung mà không gây tác động xấu đến môi trường do công suất khai thác chưa đủ và đã được cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường đồng ý thì không phải thực hiện ký quỹ nữa.

c.2. Trường hợp nếu hoạt động khai thác theo khoảng thời hạn được gia hạn, bổ sung mà không gây tác động xấu đến môi trường thì phải thực hiện ký quỹ một lần theo tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường do hoạt động khai thác được gia hạn, bổ sung gây ra đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm định và phê chuẩn.

Nguồn: Thông tư liên tịch “Hướng dẫn việc ký quỹ để phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản”. Liên bộ tài chính - công nghiệp – Khoa học, công nghệ và môi trường. Số: 126/1999/TTLT – BTC – BCN – BKHCNMT. Ban hành ngày 22 tháng 10 năm 1999.