Khách thể của các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người là gì?

Cập nhật: 23-02-2019 | 07:38:48

Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Bộ luật Hình sự 2015 quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người ngay sau các tội xâm phạm an ninh quốc gia đã nói lên quan điểm trừng trị của Nhà nước ta đối với các nhóm tội này.

 Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sống, quyền được bảo vệ về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Người thực hiện các tội trong nhóm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự, từ đủ 14 tuổi trở lên với lỗi cố ý hoặc vô ý.

Chúng tôi xin giới thiệu một số tội thường xảy ra trong nhóm tội này, đó là Tội giết người, Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, Tội làm nhục người khác.

1.Tội giết người (Điều 123)

Tội giết người được quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015, là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện. Tội giết người có thể được thực hiện qua hành động hoặc không hành động. Hành động phạm tội giết người là hành vi làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, xâm phạm đến quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Ví dụ như: Đánh, đâm, bắn, chém. Không hành động phạm tội giết người là hành vi thể hiện việc một người không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm. Hành vi đó làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm - quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Ví dụ: Một y tá cố tình không cho người bệnh uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ để người bệnh chết mặc dù người y tá này phải có nghĩa vụ cho người bệnh uống thuốc.

Cần phân biệt Tội giết người với Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Nếu hành vi khách quan của Tội giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân thì hành vi khách quan của Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng chỉ là hành vi cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.

Người phạm tội giết người thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Lỗi cố ý trực tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhiều khả năng hoặc tất yếu làm nạn nhân chết nhưng vẫn mong muốn nạn nhân chết. Lỗi cố ý gián tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thể làm nạn nhân chết, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hoặc chấp nhận hậu quả nạn nhân chết.

Hậu quả của Tội giết người là thiệt hại do hành vi phạm tội giết người gây ra cho quan hệ nhân thân, cho quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Thiệt hại này được thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất mà hậu quả là gây ra cái chết cho con người. Hậu quả của Tội giết người có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành. Vì Tội giết người là tội phạm có cấu thành vật chất nên thời điểm hoàn thành của tội phạm này là thời điểm nạn nhân đã chết sinh vật - giai đoạn cuối cùng của sự chết mà ở đó sự sống của con người không xảy ra và cũng không có khả năng hồi phục. Tuy nhiên, có trường hợp nạn nhân không chết vẫn là phạm tội giết người, vì hậu quả đó ngoài mong muốn của kẻ phạm tội (phạm tội chưa đạt).

Tội giết người có hình phạt rất nghiêm khắc với 3 khung hình phạt chính: Khung 1, phạt tù từ 12 năm, chung thân hoặc tử hình, đối với một trong các trường hợp giết 2 người trở lên; giết người dưới 16 tuổi; giết phụ nữ mà biết là có thai; giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; thực hiện tội phạm một cách man rợ; bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; thuê giết người hoặc giết người thuê; có tính chất côn đồ; có tổ chức; tái phạm nguy hiểm; vì động cơ đê hèn.

Khung 2, phạt tù từ 7 năm đến 15 năm đối với trường hợp không thuộc các trường hợp ở khung 1. Khung 3, phạt tù từ 1 năm đến 5 năm đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội. Người phạm tội còn có thể bị áp dụng các hình phạt cấm hành nghề hoặc làm công việc từ 1 năm đến 5 năm; quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 năm đến 5 năm. (còn tiếp)

 Chương trình này được Hội Luật gia tỉnh Bình Dương và Báo Bình Dương cùng phối hợp thực hiện theo Công văn số 5792/UBND-NC ngày 30-11-2018 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Dương. Chúng tôi rất mong nhận được thư, bài góp ý hoặc yêu cầu tư vấn xin gửi về địa chỉ: Số 26 đường Đoàn Thị Liên, phường Phú Lợi, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

Vi phạm pháp luật được cấu thành bởi bốn yếu tố: chủ thể, khách thể, mặt chủ quan và mặt khách quan. Trong pháp luật Hình sự, khách thể của tội phạm là yếu tố quan trong qua đó xác định những quan hệ xã hội nào bị tội phạm xâm hại, từ đó xác định mức độ vi phạm và trách nhiệm hình sự tương ứng.

Căn cứ pháp lý:

– Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

1. Khách thể là gì?

Hiện nay chưa có một văn bản nào có giải thích rõ ràng về Khách thể là gì? Song dựa trên những đặc điểm, những trường hợp cụ thể trong từng vụ án của khách thể, có thể đưa ra khái niệm như sau:

Khách thể là những lợi ích vật chất hoặc lợi ích về tinh thần, hoặc lợi ích cả về vật chất và tinh thần mà các bên chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào một quan hệ pháp luật nào đó.

Khách thể tiếng Anh là “Object “.

2. Khách thể của tội phạm là gì?

Khách thể là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.

Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm và được hiểu là đối tượng bị tội phạm xâm hại.

Luật hình sự coi đối tượng bị tội phạm xâm hại là quan hệ xã hội. Bất cứ tội phạm nào cũng đều xâm hại một hoặc một vài quan hệ xã hội nhất định được Luật hình sự bảo vệ.

Việc xác định khách thể của tội phạm mang ý nghĩa rất quan trọng trong pháp luật về hình sự bởi đó:

Xem thêm: Phân tích các dấu hiệu của tội phạm và cấu thành tội phạm

– Là căn cứ để định tội và là căn cứ quan trọng để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác.

– Là căn cứ quan trọng để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho cộng đồng, xã hội của tội phạm.

– Thông qua khách thể của tội phạm có thể thấy được bản chất giai cấp của Bộ luật hình sự Việt Nam.

3. Phân tích khách thể của tội phạm:

Trong mối tương quan với tội phạm nói chung, nhóm tội phạm và tội phạm cụ thể có khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp. Trong đó, khách thể chung của tội phạm được hiểu là tổng hợp những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và có thể bị tội phạm xâm hại. Những quan hệ xã hội được luật hình sự Việt Nam bảo vệ là những quan hệ xã hội được xác định trong Bộ luật hình sự như độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,… chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, các quyền nhân thân, quyền sở hữu.

Khách thể chung của tội phạm:

Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại và được Luật hình sự bảo vệ. Khách thể chung của tội phạm là những quan hệ xã hội được xác định tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, cụ thể:

1. Tội phạm là hành vi nguy him cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” 

Bất kỳ hành vi phạm tội nào cũng đều gây phương hại đến khách thể chung là một trong những quan hệ xã hội được xác định tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự. Chính vì vậy, thông qua khách thể chung, chúng ta có thể thấy được nhiệm vụ của Bộ luật hình sự và bản chất giai cấp của nó. Hay nói đúng hơn là thấy được chính sách hình sự của một quốc gia.

Khách thể loại của tội phạm:

Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của một nhóm tội phạm. Khách thể loại có vai trò quan trọng về mặt lập pháp. Ý nghĩa của việc xác định khách thể loại của tội phạm là cơ sở để hệ thống hoá các quy phạm pháp luật phần các tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự thành từng chương.

Khách thể trực tiếp của tội phạm:

Xem thêm: Cấu thành tội phạm là gì? Yếu tố cấu thành, ý nghĩa của cấu thành tội phạm?

Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể bị một loại phạm cụ thể trực tiếp xâm hại. Thông qua việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đối với khách thể trực tiếp, tội phạm đã gây phương hại đến khách thể chung và khách thể loại của tội phạm.

Một tội phạm có thể xâm hại đến nhiều khách thể nhưng không phải lúc nào tất cả các khách thể đó đều được xem là khách thể trực tiếp. Khách thể trực tiếp khi đó là quan hệ xã hội mà tội phạm gây thiệt hại thể hiện được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Trong nhiều trường hợp, nếu một tội phạm xâm phạm đến nhiều khách thể mà xâm phạm đến khách thể nào cũng thể hiện được bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, chúng ta cần xem xét dấu hiệu thứ hai để xác định khách thể loại. Đó là khách thể đó phải luôn bị tội phạm cụ thể đó xâm hại trong mọi trường hợp, hoặc người phạm tội muốn xâm hại khách thể nào (lỗi)….

Ví dụ 1: 

Hành vi cướp tài sản vừa xâm hại đến quan hệ nhân thân vừa xâm hại đến quan hệ sở hữu. Bản chất nguy hiểm của hành vi cướp tài sản chỉ được thể hiện đầy đủ qua cả việc xâm hại quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Chính vì thế, cả hai khách thể đều là khách thể trực tiếp của tội phạm.

Khách thể trực tiếp là cơ sở thể hiện rõ nhất bản chất của tội phạm cụ thể. Nó giúp  xác định đúng tội danh và đánh giá đúng đắn tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm  tội cụ thể.

Hành vi trộm cắp dây điện thoại đang sử dụng vừa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu XHCN vừa gây thiệt hại cho an toàn thông tin liên lạc. Nhưng thiệt hại cho an toàn thông tin liên lạc mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội phải được xác định là tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia chứ không phải tội trộm cắp tài sản.

Trong nhiều trường hợp, nếu một tội phạm xâm phạm đến nhiều khách thể mà xâm phạm đến khách thể nào cũng thể hiện được bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, chúng ta cần xem xét dấu hiệu thứ hai để xác định khách thể loại. Đó là: khách thể đó phải luôn bị tội phạm cụ thể đó xâm hại trong mọi trường hợp, hoặc người phạm tội muốn xâm hại khách thể nào (lỗi)….

Chẳng hạn, hành vi giật túi xách của người đi đường làm cho chủ sở hữu ngã dẫn đến thương tích. Ở đây có hai khách thể bị xâm hại là quyền sở hữu và sức khỏe. Tuy nhiên, quyền sở hữu đúng là khách thể trực tiếp của hành vi “cướp giật tài sản”, sức khỏe không là khách thể trực tiếp của hành vi này.

Một tội phạm có thể có một khách thể trực tiếp hoặc nhiều khách thể trực tiếp. Tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp khi hành vi phạm tội xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội  mà việc xem xét sự gây thiệt hại đối với bất cứ một quan hệ xã hội nào cũng không thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó và nhiều khách thể đó luôn bị xâm hại ở mọi trường hợp phạm tội.

Ví dụ 3: 

A trộm cắp tài sản của B. A đã xâm hại đến khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài sản của B và gây phương hại đến khách thể chung và khách thể loại là quyền sở hữu của công dân.

Một tội phạm có thể xâm hại đến nhiều khách thể nhưng không phải lúc nào tất cả các khách thể đó đều được xem là khách thể trực tiếp. Khách thể trực tiếp khi đó là quan hệ xã hội mà tội phạm gây thiệt hại thể hiện được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.

5. Các yếu tố cấu thành khác của tội phạm:

Ngoài yếu tố khách thể, cấu thành tội phạm còn gồm có: chủ thể, mặt chủ quan và mặt khách quan. Cụ thể:

Chủ thể

Chủ thể tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 bao gồm hai đối tượng: cá nhân và pháp nhân thương mại.

– Chủ thể của tội phạm là cá nhân thực hiện hành vi phạm tội, có đủ khả năng nhận thức và chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình, đạt độ tuổi theo luật định. Hành vi đó được quy định theo pháp luật hình sự.

Pháp luật hình sự quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

“Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”

Ngoài những tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng quy định tại các điều luật nêu trên thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

– Ngoài ra, chủ thể của tội phạm cũng có thể là pháp nhân thương mại. Việc pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân. Cá nhân trong pháp nhân thương mại có hành vi trái pháp luật vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự, dù cho pháp nhân do cá nhân đó làm chủ đã chịu trách nhiệm hình sự.

Mặt chủ quan

Mặt chủ quan của tội phạm được thể hiện dưới dạng lỗi cố ý hoặc vô ý. Lỗi là trạng thái tâm lý của tội phạm được đánh giá dưới các góc nhìn về động cơ và mục đích của hành vi.

– Lỗi vô ý là khi người thực hiện có thể nhận thức được hành vi của mình có thể hoặc không thể gây nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả của hành vi sẽ không xảy ra hoặc khi hậu quả xảy ra có thể phòng ngừa được. Lỗi vô ý được phân loại thành lỗi vô ý do cẩu thả và lỗi vô ý do quá tự tin.

– Lỗi cố ý là khi người thực hiện nhận thức được hành vi của mình là gây nguy hại cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó nhưng mong muốn hậu quả đó sẽ xảy ra. Lỗi cố ý được phân loại thành lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp.

Mặt khách quan

Dấu hiệu khách quan của tội phạm được thể hiện qua tính chất nguy hiểm của hành vi; hậu quả hành vi gây ra; công cụ, phương tiện, thủ đoạn,…. thực hiện hành vi.