Khác với giai cấp nông dân tầng lớp tư sản có thái độ như thế nào

Thái độ của từng giai cấp, tầng lớp đối với cách mạng giải phóng dân tộc như thế nào? Vì sao họ lại có thái độ như vậy?

Đề bài

Show

Thái độ của từng giai cấp, tầng lớp đối với cách mạng giải phóng dân tộc như thế nào? Vì sao họ lại có thái độ như vậy?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Lời giải chi tiết

* Giai cấp địa chủ phong kiến:

- Đầu hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp. Một bộ phận câu kết với đế quốc để áp bức, bóc lột nhân dân.

- Một số địa chủ vừa và nhỏ vẫn có tinh thần yêu nước.

* Giai cấp nông dân:

- Cuộc sống cơ cực trăm bề nên căm ghét chế độ bóc lột của thực dân Pháp, có ý thức dân tộc sâu sắc.

- Họ sẵn sàng hưởng ứng, tham gia các cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp và chế độ phong kiến.

* Tầng lớp tư sản:

- Họ là các chủ hãng buôn bán, nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, chủ xưởng thủ công.

- Họ bị chính quyền thực dân kìm hãm, tư bản Pháp chèn ép. Vì có tiềm lực kinh tế yếu ớt, nên họ chỉ muốn có điều kiện làm ăn, buôn bán dễ dàng, chưa có ý thức tham gia vào phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.

* Tầng lớp tiểu tư sản:

- Xuất thân từ các chủ xưởng thủ công nhỏ, những viên chức cấp thấp như thông ngôn, nhà giáo, thư kí, học sinh, kế toán,...

- Cuộc sống của họ có phần dễ chịu hơn nông dân, công nhân nhưng vẫn rất bấp bênh.

- Họ là những người có ý thức dân tộc, tích cực tham gia vào cuộc vận động cứu nước đầu thế kỉ XX.

* Đội ngũ công nhân:

- Phần lớn xuất thân từ nông dân, không có ruộng đất, phải bỏ làng đi ra các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền làm thuê.

- Họ bị thực dân phong kiến và tư sản bóc lột nên sớm có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống lại địa chủ, đòi cải thiện điều kiện làm việc và sinh hoạt.

Loigiaihay.com

  • Khác với giai cấp nông dân tầng lớp tư sản có thái độ như thế nào

    Tại sao các nhà yêu nước ở Việt Nam thời bấy giờ muốn noi theo con đường cứu nước của Nhật Bản?

    Tại sao các nhà yêu nước ở Việt Nam thời bấy giờ muốn noi theo con đường cứu nước của Nhật Bản?

  • Khác với giai cấp nông dân tầng lớp tư sản có thái độ như thế nào

    Vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp thi hành những chính sách gì về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục ở Việt Nam?

    Vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp thi hành những chính sách gì về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục ở Việt Nam?

  • Khác với giai cấp nông dân tầng lớp tư sản có thái độ như thế nào

    Nêu tác động của chính sách khai thác thuộc địa đối với kinh tế, xã hội Việt Nam.

    Tác động của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đối với kinh tế, xã hội Việt Nam

  • Khác với giai cấp nông dân tầng lớp tư sản có thái độ như thế nào

    Lập bảng thống kê về tình hình các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX theo mẫu:

    Lập bảng thống kê về tình hình các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX theo mẫu:

  • Khác với giai cấp nông dân tầng lớp tư sản có thái độ như thế nào

    Nêu điểm mới của xu hướng cứu nước đầu thế kỉ XX

    Nêu điểm mới của xu hướng cứu nước đầu thế kỉ XX

  • Khác với giai cấp nông dân tầng lớp tư sản có thái độ như thế nào

    Tại sao thực dân Pháp xâm lược nước ta?

    - Muốn chiếm nước ta, biến nước ta thành thuộc địa của chúng

  • Khác với giai cấp nông dân tầng lớp tư sản có thái độ như thế nào

    Lập niên biểu về những sự kiện chính của chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945).

    Lập niên biểu về những sự kiện chính của chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945).

  • Khác với giai cấp nông dân tầng lớp tư sản có thái độ như thế nào

    Thực dân Pháp thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam như thế nào?

    Thực dân Pháp thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam như thế nào?

  • Khác với giai cấp nông dân tầng lớp tư sản có thái độ như thế nào

    Tại sao nói từ năm 1858 đến năm 1884 là quá trình triều đình Huế đi từ đầu hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược

    Từ năm 1858 đến năm 1884 là quá trình triều đình Huế đi từ đầu hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược

Chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng XHCN - Giá trị và những nội dung cần bổ sung, phát triển

(Mặt trận) - Lý luận về liên minh giai cấp và tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn liền với xây dựng chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, hệ lý luận về liên minh giai cấp và các tầng lớp trong xã hội được Đảng ta kiên định thực hiện và bổ sung, phát triển, xây dựng nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam

Xuất bản cuốn sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng

Giá trị bền vững của ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương’

Quan niệm chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp

Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh công - nông

C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận bàn đến liên minh công - nông và đi đến kết luận rằng, những cuộc cách mạng sắp tới chỉ có thể thu được những thắng lợi nếu giai cấp nông dân ủng hộ những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, nếu không thì bài “đơn ca” cách mạng của giai cấp vô sản sẽ trở thành bài “ai điếu”.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói đến khả năng và sự cần thiết phải đoàn kết giai cấp vô sản với các tầng lớp trung gian. Sau cách mạng 1848 - 1852 ở Tây Âu, các ông thấy rõ, vấn đề liên minh giữa giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội, nhất là giai cấp nông dân trở thành vấn đề có tính sống còn đối với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của Công xã Pa-ri (năm 1871) cũng là do giai cấp công nhân không liên minh được với giai cấp nông dân. Từ thực tiễn lịch sử sinh động của Công xã Pa-ri, C.Mác đã bổ sung cho lý luận của mình về liên minh công - nông: đó là vai trò hết sức quan trọng của giai cấp nông dân không chỉ trong việc giành chính quyền mà còn cả trong việc giữ chính quyền.

Tuy nhiên, sự cần thiết của liên minh công - nông không chỉ từ phía giai cấp công nhân, mà còn từ phía giai cấp nông dân. Giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng không thể thoát khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, không thể được giải phóng một cách thực sự và triệt để nếu không liên minh với giai cấp công nhân, không trở thành người bạn đồng minh của giai cấp công nhân. C.Mác khẳng định: “Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại thì dĩ nhiên là những phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và của nông dân, phải liên minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức là giai cấp vô sản cách mạng”1. Vì “... người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành thị, giai cấp có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên của mình”2. Tuy vậy, để có thể liên minh được với giai cấp nông dân, cần phải thấy rõ đặc điểm, vai trò của giai cấp nông dân trong tiến trình cách mạng.

Trong giai cấp nông dân, có một bộ phận cốt lõi là tiểu nông. Về kinh tế, mỗi gia đình nông dân là một đơn vị kinh tế gần như tự túc hoàn toàn, cho thấy tính liên kết giữa họ rất ít. Về xã hội, quan hệ xã hội của họ có tính chất dòng họ, địa phương, làng xã, khiến tầm nhìn, suy nghĩ của người nông dân rất hạn chế. Về văn hóa - tư tưởng, sống trong những điều kiện kinh tế - xã hội như vậy, nên trình độ học vấn của nông dân rất thấp kém, tư tưởng bảo thủ và họ không có hệ tư tưởng riêng. Chính đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa - tư tưởng đã quy định vị trí, vai trò của giai cấp nông dân trong xã hội tư bản là tầng lớp trung gian, họ có thể ngả theo giai cấp công nhân và cũng có thể ngả theo giai cấp tư sản. Vấn đề là, trên thực tế ai đem lại và bảo vệ lợi ích cho họ.

Về nội dung của liên minh công - nông, không chỉ dừng ở sự liên minh về chính trị, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ rõ sự liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì liên minh về kinh tế là liên minh cơ bản, thường xuyên và lâu dài, là cơ sở cho liên minh trên các lĩnh vực khác.

Theo Ph.Ăngghen, nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng vô sản là phải không ngừng giải thích cho nông dân thấy rằng, chừng nào chủ nghĩa tư bản đang còn nắm chính quyền thì tình cảnh của họ vẫn là tuyệt vọng mà thôi, tuyệt đối chắc chắn là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất quy mô nhỏ, bất lực và lỗi thời của họ. Chỉ cần cho nông dân thấy lợi ích chân chính của họ là phải chuyển ruộng đất của họ thành tài sản của hợp tác xã, tức là đưa nông dân đi vào sản xuất hợp tác: “Dù sao thì điều chủ yếu cũng là phải làm cho nông dân hiểu rằng chúng ta chỉ có thể cứu vãn và bảo tồn được tài sản của họ bằng cách biến tài sản đó thành tài sản hợp tác xã và thành những doanh nghiệp hợp tác xã”3. Ph.Ăngghen cũng cho rằng, đó là khâu trung gian trong việc chuyển nền sản xuất cá thể của nông dân quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua phát triển tư bản chủ nghĩa.

C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ nguyên tắc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và nông dân. Nguyên tắc thứ nhất là, không được dùng bạo lực đối với nông dân, “... mà là bằng những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội”4. Nguyên tắc thứ hai là, tự nguyện, không được gò ép, bắt buộc đối với nông dân: “Chúng ta kiên quyết đứng về phía người tiểu nông... để cho họ có thời gian suy nghĩ với tư cách là người sở hữu mảnh đất của họ nếu họ chưa có thể quyết định như thế”5. Nguyên tắc thứ ba là, tiến dần từ thấp đến cao: phải phát triển các hợp tác xã từ bậc thấp đến bậc cao, từ quy mô từng xã đến quy mô liên xã. Các ông cho rằng, để nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội một cách thuận lợi, nhà nước phải có nhiệm vụ giúp đỡ nông dân trong cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trong sách lược đối với nông dân, theo Ph.Ăngghen, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản không thể coi nông dân là một khối thống nhất, vì họ không ngừng phân hóa, do đó, sách lược của các đảng xã hội chủ nghĩa cần phải khác nhau đối với các thành phần nông dân khác nhau.

Không chỉ dừng lại ở việc luận giải tính tất yếu, nội dung, và nguyên tắc của liên minh công - nông, C.Mác phê phán quan điểm của phái Látxan cho rằng: “Ngoài giai cấp vô sản ra, hết thảy mọi giai cấp khác chỉ là một khối phản động”. C.Mác đã nhắc lại “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” có ghi: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản, thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản thì trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”6.

C.Mác khẳng định: “Látxan thuộc làu cuốn “Tuyên ngôn cộng sản”, cũng như các tiến đồ của ông ta thuộc những thánh thư do ông ta viết ra. Sở dĩ ông ta xuyên tạc cuốn “Tuyên ngôn” một cách thô bỉ như thế vì đó chỉ là để biện hộ cho sự liên minh của ông ta với những kẻ thù chuyên chế và phong kiến chống giai cấp tư sản”7. C.Mác lý giải phái Látxan cho rằng: “Việc giải phóng lao động phải là sự nghiệp của giai cấp công nhân, đối với giai cấp công nhân tất cả các giai cấp khác chỉ gộp thành một khối phản động”8 thì đó là một điều phi lý. Thực chất quan điểm Látxan đòi phủ định khả năng tham gia cách mạng của giai cấp nông dân và tiểu tư sản; phủ nhận một vấn đề chiến lược của cách mạng vô sản là vấn đề bạn đồng minh tạm thời và lâu dài của giai cấp vô sản, đã đẩy giai cấp vô sản vào thế bị cô lập, điều đó chỉ có lợi cho giai cấp bóc lột.

C.Mác phê phán phái Látxan đưa ra yêu sách: Tổ chức những “Hợp tác xã sản xuất” của công nhân do nhà nước giúp đỡ. C.Mác cho rằng: Đề ra yêu sách này mục đích làm cho phong trào công nhân quay về hoạt động bè phái, thay thế đấu tranh giai cấp bằng những hoạt động bè phái, làm cho phong trào công nhân đi vào thế cô lập trước mặt kẻ thù giai cấp. Theo C.Mác, nói rằng những người lao động muốn xây dựng những điều kiện sản xuất tập thể theo quy mô xã hội và trước hết theo quy mô dân tộc, điều đó chỉ có nghĩa là: họ cố gắng tìm cách lật đổ những điều kiện sản xuất hiện nay và việc đó không liên quan gì tới việc thành lập những hợp tác xã do nhà nước giúp đỡ. Lập luận của Látxan và quan điểm phủ định liên minh công - nông của bọn cơ hội chủ nghĩa trong Quốc tế II có mối liên hệ tư tưởng rất rõ ràng, cho nên phê phán của C.Mác đối với chủ nghĩa Látxan trên vấn đề này đã vạch ra đường lối cơ bản cho việc phê phán chủ nghĩa cơ hội sau này trong phong trào cộng sản quốc tế.

Quan điểm của V.I.Lênin về liên minh công - nông

Kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vị trí, vai trò của liên minh công - nông, V.I.Lênin cho rằng, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản.

V.I.Lênin chỉ rõ: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v.) hoặc với phần lớn những tầng lớp đó; liên minh nhằm chống lại tư bản, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống cự của giai cấp tư sản và những mưu toan khôi phục của giai cấp ấy, nhằm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội”9.

Theo luận điểm này, V.I.Lênin chỉ ra: Xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng cách mạng của chuyên chính vô sản thì khối liên minh này đã tập hợp được những giai cấp và tầng lớp xã hội đông đảo và mạnh nhất trong các giai tầng xã hội, trong đó giai cấp công nhân là tiên tiến nhất. Xét về nguyên tắc lãnh đạo xã hội, thì người lãnh đạo cao nhất và duy nhất chỉ là giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, vai trò đó chỉ được giữ vững khi đảng tổ chức và lãnh đạo được khối liên minh. Xét về lợi ích cơ bản thì nguyên tắc cao nhất và mục tiêu của chuyên chính vô sản là vì lợi ích toàn thể nhân dân lao động. Như vậy, sức mạnh và độ bền vững của khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là thể hiện sức mạnh của Đảng, Nhà nước và tính hiện thực quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động, đó là những yếu tố cơ bản của chuyên chính vô sản.

V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn “chuyên chính vô sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và khoa học công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: nếu không có kinh tế nông nghiệp làm cơ sở, thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền công nghiệp.

V.I.Lênin nêu nhiều luận điểm về liên minh công - nông - trí thức. Trong đó có luận điểm: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)”10. Người còn khẳng định: “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giữa kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được”11.

Trong tác phẩm “Những người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?”, V.I.Lênin phê phán quan điểm phi lịch sử của phái “dân tuý” cho rằng nông dân là lực lượng chủ yếu của cách mạng. Đồng thời, khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cho rằng, đã có chủ nghĩa tư bản thì có đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những điều kiện vật chất cho chế độ mới, và đồng thời cũng tạo ra một lực lượng xã hội mới: Giai cấp công nhân công xưởng - nhà máy, giai cấp vô sản thành thị. Tuy phải chịu cùng một sự bóc lột tư sản, mà xét theo thực chất kinh tế của nó thì sự bóc lột toàn thể nhân dân lao động ở Nga cũng là một sự bóc lột như thế, nhưng giai cấp đó lại được đặt trong những điều kiện đặc biệt có lợi cho sự giải phóng của nó: chẳng có cái gì gắn bó nó với cái xã hội cũ hoàn toàn xây dựng trên sự bóc lột; chính bản thân những điều kiện lao động của nó và hoàn cảnh sinh sống của nó đã tổ chức nó lại, buộc nó phải suy nghĩ, làm cho nó có khả năng bước lên vũ đài đấu tranh chính trị”12.

Theo V.I.Lênin, đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản, là một tất yếu và đó là cuộc đấu tranh mạnh mẽ nhất, tập trung nhất và quyết liệt nhất, trong cuộc đấu tranh đó giai cấp công nhân phải liên minh với nông dân, vì nông dân là lực lượng của cách mạng. Ông đề cập tư tưởng liên minh công - nông và cho rằng, đường lối thì của một giai cấp, còn lợi ích thì của sự liên minh giai cấp. Giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, nhưng không chỉ đem lại lợi ích cho giai cấp công nhân mà cho cả giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động.

Về thái độ đối với nông dân và tư tưởng liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo, trong tác phẩm “Những người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?”, V.I.Lênin cho rằng, do quan niệm không đúng, nên Plêkhanốp đã đoạn tuyệt với nông dân, V.I.Lênin đã luận chứng vai trò của nông dân, đưa ra tư tưởng liên minh công - nông và yêu cầu cần phải ủng hộ yêu sách của họ. Người chỉ rõ: Phải có thái độ đúng với nông dân, tuyên truyền giác ngộ họ, cần phải đoạn tuyệt với tư tưởng nông dân, nhưng không đoạn tuyệt với nông dân, mà phải có sách lược với họ. Và cho rằng, những người dân chủ - xã hội có nhiệm vụ thành lập một đảng công nhân mácxít và đề ra tư tưởng liên minh cách mạng giữa giai cấp công nhân và nông dân, coi đó là phương sách chủ yếu để lật đổ chế độ Nga hoàng, bọn địa chủ và giai cấp tư sản.

Một nguyên tắc trong liên minh giai cấp, tầng lớp theo quan điểm của V.I.Lênin đó là vấn đề thỏa hiệp cả với giai cấp tư sản. Trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản”, V.I.Lênin đã phê phán: “Những người cộng sản Đức đã gạt bỏ việc tham gia nghị viện phản động tư sản và việc tham gia các công đoàn phản động”13. V.I.Lênin còn khẳng định: Đấu tranh cách mạng có lúc phải thoả hiệp. Bởi vì, tiến hành cách mạng không phải hoàn toàn thuận lợi và dễ dàng, mà còn có những lúc cách mạng gặp khó khăn. Trong những hoàn cảnh khó khăn phức tạp đòi hỏi người cách mạng phải biết lựa chiều, liên minh, thoả hiệp để tránh tổn thất cho cách mạng. Cách mạng không phải chỉ biết có tiến công, khoa học tiến công phải được bổ sung bằng khoa học rút lui khi cần thiết, rút lui là để chuẩn bị tiến công những thắng lợi lớn hơn. Vì vậy, V.I.Lênin đòi hỏi: Những người cộng sản có nhiệm vụ phải tìm kiếm và tìm ra một hình thức thoả hiệp thích đáng để có thể, một mặt làm dễ dàng và xúc tiến việc thống nhất hoàn toàn và cần thiết với cách ấy, mặt khác, không làm trở ngại gì đến cuộc đấu tranh tư tưởng và chính trị của những người cộng sản. Người nhấn mạnh nguyên tắc: “Không bao giờ được thoả hiệp, không bao giờ được lựa chiều chỉ làm hại cho sự mở rộng ảnh hưởng của giai cấp vô sản”14.

Như vậy, theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức không chỉ là nhu cầu nội tại của cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà nó còn xuất phát từ những cơ sở khách quan khác, cụ thể: Thứ nhất, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là điều kiện đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, là điều kiện quyết định thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và công cuộc cải tạo và xây dựng xã hội mới. Thứ hai, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là mối liên hệ tự nhiên gắn bó và sự thống nhất lợi ích cơ bản của tất cả các giai cấp, tầng lớp. Thứ ba, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là do sự gắn bó thống nhất giữa sản xuất công nghiệp, nông nghiệp với khoa học kỹ thuật. Nếu không có sự liên minh chặt chẽ của cả 3 lực lượng này thì các ngành kinh tế sẽ khó phát triển. Đúng như V.I. Lênin đã khẳng định: “… thực hiện liên minh công nông là một việc khó, nhưng vô luận thế nào đó cũng là khối liên minh vô địch duy nhất để chống lại bọn tư bản”15.

Hầu hết những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa như đã trình bày cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tuy nhiên, có những luận điểm đã bị lịch sử vượt qua, chẳng hạn luận điểm “liên minh công - nông là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản”. Bởi vì hiện nay, cơ cấu xã hội - giai cấp ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đã thay đổi. Nhiều nước tỷ lệ dân cư là nông dân đã giảm xuống tuyệt đối; hơn nữa, quá trình trí thức hóa công nhân, công nhân hóa nông dân cũng đang diễn ra mạnh mẽ. Vậy, phải căn cứ vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng quốc gia, dân tộc để xác định liên minh giai cấp và các tầng lớp cho đúng…

Mặt khác, hiện nay trên thế giới, nhất là ở các nước xã hội chủ nghĩa không dùng thuật ngữ “chuyên chính vô sản”, thay vào đó sử dụng thuật ngữ có cùng bản chất là “hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa”. Một trong những đặc điểm của của hệ thống chính trị đó là một hệ thống tổ chức, hệ thống chuyên chính của giai cấp thống trị, do giai cấp công nhân thống trị lãnh đạo nhằm thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền lực của giai cấp công nhân; là sự liên minh giai cấp trong đấu tranh giành, giữ, củng cố và sử dụng quyền lực chính trị và trên bề mặt xã hội, nó đại diện cho toàn xã hội.

Trước những biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đang điều chỉnh để thích nghi, nhằm kéo dài sự tồn tại của chúng… thì những nội dung cần bổ sung, phát triển quanđiểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa tập trung cần quan tâm, đó là: một là, vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp trong khối liên minh; hai là, nội dung thực chất của liên minh; ba là, nguyên tắc của liên minh, nhất là nguyên tắc bảo đảm về lợi ích; bốn là, phương thức tập hợp lực lượng…

2. Ý nghĩa của nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với Việt Nam hiện nay

* Quá trình nhận thức của Đảng ta về liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức

Trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức vào điều kiện cụ thể cách mạng Việt Nam, ngay từ văn kiện Đại hội lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, Đảng ta đã chỉ rõ: “Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân… Lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng do giai cấp công nhân lãnh đạo”16.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam năm 1991, Đảng ta xác định: xây dựng khối liên minh công - nông - trí làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”17.

Tổng kết thành tựu của 25 năm đổi mới, trong văn kiện Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ một trong năm bài học kinh nghiệm lớn là: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi của lịch sử”18.

Hiện nay, vấn đề liên minh công - nông đã được mở rộng thành liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và trở thành nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định, phải “tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”19, để lực lượng này thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nguyễn Thị Tuyết* - Hà Sơn Thái**

* Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

** Tiến sĩ, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Chú thích:

1. C.Mác và Ph.Ăngghen,Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 7, tr. 84 - 85.

2. C.Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 269.

3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 22, tr. 737 - 738.

4. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 22, tr. 736.

5. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 22, tr. 738.

6. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 613.

7. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 39.

8. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 37.

9. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 38, tr 452.

10. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 38, tr 452.

11. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 40, tr 218.

12. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t. 1, tr.234 -235.

13. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1978, t. 41, tr.72.

14. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1978, t. 41, tr.74.

15. V.I. Lênin, Toàn tập, (Tiếng Việt), Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1978, t. 39, tr. 340.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr.437.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.66.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 158.

Khác với giai cấp nông dân tầng lớp tư sản có thái độ như thế nào

Một số giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam

Khác với giai cấp nông dân tầng lớp tư sản có thái độ như thế nào

Xuất bản cuốn sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng

Khác với giai cấp nông dân tầng lớp tư sản có thái độ như thế nào

Giá trị bền vững của ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương’

Khác với giai cấp nông dân tầng lớp tư sản có thái độ như thế nào

Báo chí với công tác tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới

Thái độ của từng giai cấp, tầng lớp đối với cách mạng giải phóng dân tộc

Một số hình ảnh

Nhận thức đúng về đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay

Ths. Nguyễn Kim Dự
2021-03-02T15:38:40+07:00 2021-03-02T15:38:40+07:00 https://truongchinhtri.edu.vn/home/dau-tranh-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/nhan-thuc-dung-ve-dau-tranh-giai-cap-o-viet-nam-hien-nay-1088.html /home/themes/egov/images/no_image.gif
Trường Chính trị tỉnh Bình Phước https://truongchinhtri.edu.vn/home/uploads/logotc108t.png
Thứ tư - 24/02/2021 22:02 119.306 0
Có thể khẳng định việc nhận thức đúng về đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là cơ sở quan trọng để chúng ta khẳng định lập trường, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng, tư tưởng của Đảng, bảo vệ Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thời gian vừa qua đã xuất hiện những quan điểm lệch lạc, sai trái và cả những quan điểm của thế lực thù địch nhằm xuyên tạc, phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh giai cấp. Trong đó, nổi lên là quan điểm cho rằng: “trong điều kiện hiện nay, nói tới đấu tranh giai cấp là bảo thủ, lạc hậu, là gây nên sự chia rẽ, phân hoá nội bộ… làm phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc” hay: “hiện nay, nói đến đấu tranh giai cấp ở Việt Nam là đi ngược lại xu thế của thời đại, là lạc hậu, không thức thời, không phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay”. Do vậy, có thể nói, việc nâng cao nhận thức khoa học về đấu tranh giai cấp sẽ góp phần đấu tranh phòng chống những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, bảo vệ nền tảng, tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay là một vấn đề khoa học, có ý nghĩa thiết thực.
1. Bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề đấu tranh giai cấp
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã bàn nhiều về đấu tranh giai cấp và chỉ rõ những cái mới trong lý luận về vấn đề này. Điều đáng nói là, do nhu cầu của thực tiễn lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tập trung nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, coi đó là động lực trực tiếp của lịch sử. Nhưng các ông không bao giờ xem đấu tranh giai cấp là mục đích, là công cụ vạn năng, duy nhất để giải quyết mâu thuẫn xã hội, mà đó chỉ là phương tiện để giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Quan điểm đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc.
Theo V.I.Lênin “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phân nhân dân này chống một bộ phân khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản’’1
Đấu tranh giai cấp là một quá trình phức tạp trong sự vận động của lịch sử - xã hội, một xu thế tất yếu, khách quan của xã hội có giai cấp. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848), C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”2.
Trong nhiều tác phẩm, các ông đã trình bày rõ quan điểm của mình cho rằng, đấu tranh giai cấp không phải là những cuộc bạo loạn, khủng bố, lật đổ, chỉ có ý nghĩa phá hoại gây chia rẽ, bè phái, gây rối loạn, làm thiệt hại cho xã hội, mà là một quá trình tất yếu, khách quan của xã hội có áp bức giai cấp, là những cuộc đấu tranh rộng khắp của quần chúng nhân dân lao động chống lại giai cấp thống trị bảo thủ. Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội hóa ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội: mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ đại diện cho phương thức sản xuất mới một bên là giai cấp thống trị, bóc lột, đại diện cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỡi thời, lạc hậu. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tự nó không giải quyết được, mà phải thông qua cuộc đấu tranh của giai cấp bị trị lật đỗ giai cấp thống trị, sau đó mới xóa bỏ được quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất mới cho phù hợp với trình độ sản xuất mới của lực lượng sản xuất. Với ý nghĩa ấy đấu tranh giai cấp được coi là động lực trực tiếp của sự phát triển lịch sử chứ không phải là sự gây rối, phá hoại. Trong xã hội có giai cấp đối kháng về mặt lợi ích thì tất yếu có đấu tranh giai cấp. Điều đó hoàn toàn không phụ thuộc vào việc người ta có nói về nó hay không, hoặc nói như thế nào về nó. Không phải cứ cố tình không nói đến đấu tranh giai cấp thì trên thực tế, đấu tranh giai cấp sẽ mất đi hoặc mức độ xung đột sẽ dịu đi.
Đấu tranh giai cấp là quy luật chung của mọi xã hội có giai cấp. Nhưng trong quy luật ấy có những biểu hiện đặc thù trong từng xã hội cụ thể. Điều đó do kết cấu giai cấp của mỗi xã hội và do địa vị lịch sử của mỗi giai cấp cách mạng trong từng phương thức sản xuất quyết định.
Đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu trạnh khác về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi mục tiêu là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội. Do vậy, đây là cuộc đấu tranh gay go và phức tạp nhất trong lịch sử. Cuộc đấu tranh này tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản. Nhưng, chuyên chính vô sản không phải là mục đích cuối cùng của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Nó chỉ là bước quá độ để tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp, tiến tới xã hội không có giai cấp. Giai cấp vô sản cần phải sử dụng nền chuyên chính của mình để tiếp tục cuộc đấu tranh trong điều kiện mới. Như vậy, ngay từ khi giai cấp vô sản ra đời thì cuộc đấu tranh của nó với giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột khác cũng xuất hiện. Cuộc đấu tranh đó diễn ra thường xuyên, liên tục cả khi giai cấp vô sản chưa giành được chính quyền từ tay giai cấp thống trị cũ, lẫn khi đã thiết lập được chính quyền cách mạng của mình và sử dụng chính quyền ấy như một công cụ để xây dựng xã hội mới.
Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Sau khi giành được chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. V.I.Lênin viết: “Trong điều kiện chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước được”3
2. Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay:
Ở Việt Nam, đấu tranh trong giai đoạn quá độ là tất yếu. Bởi lẽ, ở nước ta hiện nay còn có những lực lượng đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân, của cách mạng, của Đảng. Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong đó có cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái cách mạng, tiến bộ và cái bảo thủ, trì trệ, v.v. nên đấu tranh giai cấp là tất yếu.
Đại hội IX của Đảng đã xác định rõ thực chất “mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng”; Nội dung chủ yếu cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá các thế lực thù địch; bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc4.
Những nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trên đây là rất lớn lao và phức tạp. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, chúng ta phải sử dụng nhiều hình thức đấu tranh khác nhau, vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết, bao gồm cả đấu tranh trực diện bằng bạo lực, trấn áp đối với thế lực thù địch trong nước và trên thế giới luôn tìm cách ngăn cản, phá hoại cuộc cách mạng của nhân dân ta, đấu tranh bằng giáo dục, tuyên truyền, vận động, cả hành chính và đấu tranh chống khuynh hướng bảo thủ, tiêu cực của tầng lớp tư sản nói riêng.
Đấu tranh ở đây không có nghĩa là phá hoại sự ổn định xã hội mà chính là thông qua đấu tranh để ngăn chặn, loại trừ những phần tử bảo thủ, thoái hóa, biến chất và chống đối nhằm củng cố, tăng cường và phát huy vai trò của sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong nhân dân.
Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta vẫn đang tiếp tục diễn ra một cách khá gay gắt và phức tạp. Sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc đang đứng trước nhiều thách thức, khó khăn mới. Các thế lực thù địch chưa từ bỏ ý đồ phá hoại, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng đang ra sức đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, kết hợp gây bạo loạn lật đổ, với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng đang ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và những yếu kém, sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; chia rẽ các tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra mâu thuẫn, xung đột trong xã hội để làm suy yếu và lật đổ chế độ ta. Vì vậy, hơn bao giờ hết, chúng ta cần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc đồng thời tiếp tục nghiên cứu để thấy rõ đặc điểm, nội dung, hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực trong điều kiện mới.
Đều kiện mới của đấu tranh giai cấp hiện nay đó là lợi ích cơ bản, lâu dài của các giai cấp trong cộng đồng Việt Nam thống nhất với lợi ích dân tộc; cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường vẫn còn nhưng gắn liền với sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, chống nghèo nàn lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển. Đấu tranh trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần, mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, trong cơ cấu giai cấp - xã hội của nước ta hiện nay, ngoài giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác, còn có tầng lớp tư sản. Với kết cấu giai cấp đó, tất yếu nảy sinh mâu thuẫn giữa lợi ích của những người lao động làm thuê với tầng lớp tư sản và mâu thuẫn giữa sự phát triển tự giác theo con đường xã hội chủ nghĩa với khuynh hướng tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản. Đây là mặt mâu thuẫn trong quan hệ giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động với tầng lớp tư sản. Mâu thuẫn đó biểu hiện rất rõ trong các doanh nghiệp tư bản, nhất là các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, chúng ta có Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong điều kiện như vậy, mâu thuẫn giữa công nhân và tầng lớp tư sản là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Ở nước ta, tầng lớp tư sản không có công cụ để thực hiện sự thống trị về chính trị và kinh tế của nó. Giai cấp công nhân, dù làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân, vẫn được Nhà nước ta bảo vệ quyền lợi. Mặt khác, kinh tế tư bản tư nhân là bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế nhiều thành phần. Tầng lớp tư sản có vai trò nhất định trong sự nghiệp phát triển kinh tế, có khả năng tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lợi ích hợp pháp của các nhà tư sản thống nhất với lợi ích chung của cả cộng đồng dân tộc. Đây là mặt thống nhất giữa giai cấp công nhân và tầng lớp tư sản. Như vậy, quan hệ giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản là quan hệ vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Hợp tác cùng xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đấu tranh chống khuynh hướng bảo thủ, tiêu cực của tầng lớp tư sản.
Những sự phân tích trên đây cho thấy, ở nước ta hiện nay và trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại của các giai cấp và đấu tranh giai cấp vẫn là một tất yếu. Cuộc đấu tranh đó có lúc, có mặt còn gay go, quyết liệt hơn so với những thời kỳ trước đây.
Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nhận thức rõ tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp. Chúng ta cần nghiên cứu thấu đáo, cẩn thận, nghiêm túc những tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và quan điểm của Đảng ta, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn một cách cụ thể, tránh rơi vào hai thái cực sai lầm: hoặc là quá cường điệu đấu tranh giai cấp, dẫn đến mất phương hướng trong huy động nguồn lực phát triển đất nước; hoặc là xem thường, xóa nhòa đấu tranh giai cấp đi đến mơ hồ, mất cảnh giác, mắc vào âm mưu diễn biến hòa bình của các lực lượng phản động trên thế giới đang luôn tìm cách lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Tài liệu tham khảo:
1. V.I.Lênin.Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.7, tr.238 -239.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen.Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.596.
3. V.I.Lênin.Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.39, tr.298.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr85-86.

Tác giả bài viết: Ths. Nguyễn Kim Dự