Hệ thống ngân hàng ở Việt Nam có máy cấp

Mục lục bài viết

  • 1. Ngân hàng trung ương
  • 2. Tổ chức tín dụng
  • 3. Ngân hàng nhà nước Việt Nam
  • 3.1. Vị trí và vai trò của Ngân hàng nhà nước
  • 3.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng nhà nước bao gồm:

Ngày nay phổ biến ở các quốc gia, hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng gồm ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng.

1. Ngân hàng trung ương

Khi đánh giá về vai trò của ngân hàng trung ương, Samuelson nhà kinh tế học người Mỹ cho rằng: "Từ khi thời gian bắt đầụ có, cho đến nay, đã có ba phát minh lớn: lửa, bánh xe và ngân hàng trung ương’’. Mặc dù ngày nay ngân hàng trung ương được nhìn nhận với vai trò to lớn như vậy nhưng sự ra đời của thực thể này trong lịch sử gắn liền với quá trình phát triển lâu dài của nghề kinh doanh tiền tệ và yêu cầu quản lí nhà nước đối với các hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng ở các quốc gia.

Đến thế kỉ XVII, hoạt động kinh doanh ngân hàng không còn là hoạt động kinh doanh mang tính cá thể của thương nhân mà ở nhiều nước đã xuất hiện các tổ chức kinh doanh tiền tệ có quy mô lớn như Ngân hàng Amsterdam (Hà Lan) thành lập năm 1609, Ngân hàng Hambourg (Đức) thành lập năm 1619, Ngân hàng Anh quốc (Bank of England) thành lập năm 1694 V.V.. Tuy vậy, cho đến cuối thế kỉ XVII, ở các quốc gia, hoạt động của các ngân hàng mang 2 đặc điểm phổ biến sau:

Thứ nhất, hoạt động kinh doanh ngân hàng mang tính đơn lẻ. Điều này thể hiện ở chỗ, các ngân hàng tồn tại độc lập, không có quan hệ liên kết theo hệ thống;

Thứ hai, các ngân hàng đều có quyền thực hiện các hoạt động kinh doanh giống nhau như nhận tiền gửi, cho vay, phát hành tiền cho lưu thông V.V..

Tình trạng các ngân hàng đều có quyền phát hành tiền đã dẫn tớị tình trạng “thừa tiền” trong nền kinh tế và tác động xâu tới sản xuất và lưu thông hàng hoá. Do đó, đến đầu thế kỉ XVIII, các nước đều thực hiện chính sách chỉ cho phép một sổ ngân hàng hội đủ điều kiện do nhà nước quy định mới được phép phát hành tiền. Thực tế đó đã dẫn tới sự hình thành hai loại hình ngân hàng: Các ngân hàng được phép phát hành tiền gọi là ngân hàng phát hành, còn các ngân hàng không được phép phát hành tiền gọi là ngân hàng trung gian.

Sự vận động của nền kinh tể chịu ảnh hưởng to lớn của hoạt động phát hành tiền. Do đó, cùng với việc tăng cường sự can thiệp, điều tiết đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, ở các quốc gia, nhà nước dần dần tiến tới kiểm soát chặt chẽ hoạt động phát hành tiền.

Đến cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, ở châu Âu, nhiều nước ban hành đạo luật quy định chỉ cho phép một ngân hàng duy nhất được phát hành tiền.

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới thời kì 1929 - 1933 đã buộc nhà nước ở các nước tư bản phải cải cách căn bản cơ chế sử dụng ngân hàng phát hành. Một mặt, nhà nước xác lập cơ chế kiểm soát chặt chẽ tổ chức và hoạt động của ngân hàng phát hành. Mặt khác, nhà nước giao cho ngân hàng phát hành thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và quản lí nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh ngân hàng trong nền kinh tế.

Sau thời kì 1929 - 1933, trong các tài liệu nghiên cứu ở các nước xuất hiện khái niệm ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương là ngân hàng có chức năng chủ yếu là phát hành tiền, thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.

Ngày nay, ở các nước ngân hàng trung ương được tổ chức theo một trong hai loại: mô hình ngân hàng trung ương thuộc sở hữu nhà nước và mô hình ngân hàng trung ương được thành lập dưới dạng công ty cổ phần.

Mô hình ngân hàng trung ương thuộc sở hữu nhà nước được nhiều nước áp dụng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Việt Nam V.V..

Mô hình ngân hàng trung ương được tổ chức dưới dạng công ty cổ phần được áp dụng ở một số nước. Ở Hoa Kỳ, Hệ thống Dự trữ liên bang (FED) đóng vai trò của ngân hàng trung ương được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần.

Ngoài hai dạng chủ yếu trên, Cộng đồng kinh tế châu Âu (EU) có ngân hàng trung ương thực hiện chức năng phát hành tiền chung cho các nước thành viên.

Mặc dù phương thức thành lập và phạm vi quyền hạn của ngân hàng trung ương ở các quốc gia có khác nhau nhưng chúng đều là định chế tài chính công quyền. Tính chất công quyền của ngân hàng trung ương thể hiện ở chỗ, hoạt động chủ yếu của nó nhằm thực hiện những nhiệm vụ mà nhà nước hoặc liên minh các quốc gia giao và dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước.

2. Tổ chức tín dụng

Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng.

Căn cứ vào phạm vi thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh, pháp lụật của các nước quy định các tổ chức tín dụng gồm hai loại: Tổ chức tín dụng là ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng.

Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.

Luật của các nước quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng thường có quy định các loại giao dịch được coi là giao dịch ngân hàng và về nguyên tắc một tổ chức là ngân hàng được phép thực hiện tất cả các loại giao dịch đó. Chẳng hạn, Luật về ngành tín dụng của Cộng hoà liên bang Đức năm 1992 quy định 9 loại giao dịch được coi là giao dịch ngân hàng. Còn Luật ngân hàng thương mại của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm 1995 quy định 13 loại giao dịch được coi là giao dịch ngân hàng.

Các loại giao dịch được coi là giao dịch ngân hàng (nghiệp vụ ngân hàng) theo quy định của pháp luật các nước là những giao dịch phổ biến như: huy động vốn dưới hình thức tiền gửi, cho vay, mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, cung cấp dịch vụ thanh toán, dịch vụ bảo lãnh V.V.. Ngoài ra, đối với một sổ giao dịch khác, tuỳ thuộc quan điểm của nhà nước mà ở các nước có sự khác nhau trong việc quy định loại giao dịch mà ngân hàng được phép thực hiện. Chẳng hạn, ở Hoa Kỳ, Nhật Bản... các ngân hàng chỉ được phép thực hiện các hoạt động kinh doanh ngân hàng mang tính truyền thống còn việc kinh doanh chứng khoán do các công ty chứng khoán độc lập thực hiện. Còn ở Cộng hoà Liên bang Đức, ngoài hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, các ngân hàng còn được phép kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm.

Ngày nay ở các nước, các ngân hàng được tổ chức và thành lập dưới nhiều dạng như: ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư-phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác V.V..

Ở nước ta, Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 (được sửa đổi bổ sung năm 2004) quy định tổ chức tín dụng gồm hai loại: Tổ chức tín dụng là ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định: Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một sô hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.

Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy đỉnh của Luật các tổ chức tín dụng. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.

Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, trừ các hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Tổ chức tín dụng phỉ ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.

Công ty cho thuê tài chính là loại hình công ty tài chính có hoạt động chính là cho thuê tài chính theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng.

Tổ chức tài chính vi mô là loại hình tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.

Quỹ tín dụng nhân dân là tổ chức tín dụng do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và Luật hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống.

Ngân hàng hợp tác xã là ngân hàng của tất cả các quỹ tín dụng nhân dân do các quỹ tín dụng nhân dân và một số pháp nhân góp vốn theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu chủ yếu là liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính, điều hoà vốn trong hệ thống quỹ tín dụng nhân dân.

3. Ngân hàng nhà nước Việt Nam

3.1. Vị trí và vai trò của Ngân hàng nhà nước

Nói về Ngân hàng nhà nước Việt Nam, trước hết cần khẳng định đây là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội. Ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng chính là quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.

3.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng nhà nước bao gồm:

Nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng nhà nước bao gồm:

- Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

- Xây dựng chiến lược phát triển ngành ngân hàng trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện.

- Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; tuyên truyền, phổ biến và kiểm tra theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.

- Xây dựng chỉ tiêu lạm phát hằng năm để Chính phủ trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện.

- Tổ chức, điều hành và phát triển thị trường tiền tệ.

-Tổ chức hệ thống thống kê, dự báo về tiền tệ và ngân hàng; công khai thông tin về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật.

- Tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền giấy, tiền kim loại; thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi, thay thế và tiêu huỷ tiền giấy, tiền kim loại.

- Cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng, giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giấy phép thành lập văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho các tổ chức không phải là ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các tổ chức; chấp thuận việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và giải thể tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật.

- Thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật; được sử dụng vốn pháp định để góp vốn thành lập doanh nghiệp đặc thù nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

- Kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật.

- Quyết định áp dụng biện pháp xử lý đặc biệt đối với tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, gặp khó khăn về tài chính, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng, gồm mua cổ phần của tổ chức tín dụng; đình chỉ, tạm đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng; quyết định sáp nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tín dụng; đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật về phá sản đối với tổ chức tín dụng.

- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng chính sách, kế hoạch và tổ chức thực hiện phòng, chống rửa tiền.

- Thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.

- Chủ trì lập, theo dõi, dự báo và phân tích kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế.

- Tổ chức, quản lý, giám sát hệ thống thanh toán quốc gia, cung ứng dịch vụ thanh toán cho các ngân hàng; tham gia tổ chức và giám sát sự vận hành của các hệ thống thanh toán trong nền kinh tế.

- Quản lý nhà nước về ngoại hối, hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng.

- Quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước.

- Quản lý việc vay, trả nợ, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài theo quy định của pháp luật.

- Chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan chuẩn bị nội dung, tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế với tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế mà Ngân hàng Nhà nước là đại diện và là đại diện chính thức của người vay quy định tại điều ước quốc tế theo phân công, uỷ quyền của Chủ tịch nước hoặc Chính phủ.

- Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về tiền tệ và ngân hàng.

- Đại diện cho Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế.

- Tổ chức hệ thống thông tin tín dụng và cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng; thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hoạt động thông tin tín dụng.

- Làm đại lý và thực hiện các dịch vụ ngân hàng cho Kho bạc Nhà nước.

- Tham gia với Bộ Tài chính về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh.

- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về tiền tệ và ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ngân hàng.

- Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến luật ngân hàng, hoạt động ngân hàng Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật ngân hàng trực tuyến. Đội ngũ luật sư luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc của Bạn.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật ngân hàng - Công ty luật Minh Khuê