Đối tượng đánh giá trong môn tiếng việt là gì?

KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CÁC MÔN HỌC - MÔN TIẾNG VIỆT

Đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt cấp Tiểu học được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc chung về Đánh giá kết quả giáo dục tiểu học xác định tại Chương trình GDPT cấp Tiểu học (Ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), gồm ... » Xem thêm

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Phần 2 KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CÁC MÔN HỌC _________________________________________________________________ A. CÁC MÔN HỌC ĐÁNH GIÁ BẰNG ĐIỂM SỐ MÔN TIẾNG VIỆT I. NGUYÊN TẮC CHUNG Đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt cấp Tiểu học được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc chung về Đánh giá kết quả giáo dục tiểu học xác định tại Chương trình GDPT cấp Tiểu học (Ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), gồm những điểm cơ bản sau : 1. Đánh giá kết quả giáo dục đối với HS ở môn học trong mỗi lớp và cuối cấp nhằm xác định mức độ đạt được mục tiêu giáo dục, làm căn cứ để điều chỉnh quá trình giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, động viên, khuyến khích HS chăm học và tự tin trong học tập. 2. Đánh giá kết quả giáo dục ở môn học trong mỗi lớp và cuối cấp cần phải : a) Đảm bảo tính toàn diện, khoa học, khách quan và trung thực ; b) Căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng và yêu cầu về thái độ của môn học ở từng lớp, ở toàn cấp học để xây dựng công cụ đánh giá thích hợp ;
  2. c) Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì ; giữa đánh giá của GV và tự đánh giá của HS ; giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng đồng ; d) Kết hợp giữa hình thức trắc nghiệm khách quan, tự luận và các hình thức đánh giá khác. 3. Môn Tiếng Việt được đánh giá bằng điểm kết hợp với nhận xét của GV. II. QUY ĐỊNH VỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN TIẾNG VIỆT Quy định về kiểm tra, đánh giá môn Tiếng Việt được nêu tại văn bản Đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học (Ban hành kèm theo Quyết định số 30/2005/QĐ-BGD&ĐT ngày 30/9/2005 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) như sau : 1. Môn Tiếng Việt được đánh giá bằng điểm số, cho điểm từ 1 đến 10, không cho điểm 0 và điểm thập phân ở các lần kiểm tra. 2. Việc đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì kết quả học tập của HS về môn Tiếng Việt được quy định : a) Đánh giá thường xuyên - Nhằm mục đích theo dõi, động viên, khuyến khích hay nhắc nhở HS học tập tiến bộ, đồng thời để GV thực hiện đổi mới phương pháp, điều chỉnh hoạt động giảng dạy nhằm đạt hiệu quả thiết thực.
  3. - Việc đánh giá thường xuyên được tiến hành dưới các hình thức kiểm tra thường xuyên (KTTX), gồm : kiểm tra miệng, quan sát HS học tập, bài tập thực hành, kiểm tra viết (dưới 20 phút). - Số lần KTTX tối thiểu trong 1 tháng đối với môn Tiếng Việt là 4 lần. b) Đánh giá định kì - Nhằm mục đích cung cấp thông tin cho các cấp quản lí chỉ đạo để quản lí quá trình học tập của HS và giảng dạy của GV ; tiến hành sau từng giai đoạn học tập : giữa học kì I (GKI), cuối học kì I (CKI), giữa học kì II (GKII), cuối học kì II (CKII). - Việc đánh giá định kì được tiến hành dưới các hình thức kiểm tra định kì (KTĐK), gồm : kiểm tra viết bằng hình thức trắc nghiệm, tự luận trong thời gian 1 tiết. - Số lần KTĐK môn Tiếng Việt ở mỗi lớp (mỗi năm học) là 4 lần : GKI, CKI, GKII, CKII. * Chú ý : + Trường hợp HS có kết quả KTĐK bất thường so với kết quả học tập hằng ngày hoặc không đủ số điểm KTĐK đều được bố trí cho làm bài kiểu tra lại để có căn cứ đánh giá về học lực môn và xét khen thưởng. + Đối với môn Tiếng Việt, mỗi lần KTĐK có 2 bài kiểm tra : Đọc, Viết. Điểm của 2 bài kiểm tra này được quy về 1 điểm chung là điểm trung bình cộng điểm của 2 bài (làm tròn 0,5 thành 1).
  4. + Khi xác định điểm học lực môn (HLM) KI (hoặc điểm HLM.KII) bằng cách tính trung bình cộng của điểm KTĐK.GKI và điểm KTĐK.CKI (hoặc trung bình cộng của điểm KTĐK.GKII và điểm KTĐK.CKII), kết quả có thể là số thập phân (không làm tròn số). III. NỘI DUNG, HÌNH THỨC KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ MÔN TIẾNG VIỆT 1. Kiểm tra, đánh giá thường xuyên Để đánh giá thường xuyên kết quả học tập của HS về môn Tiếng Việt, GV thực hiện các hình thức KTTX với nội dung, yêu cầu cụ thể như sau : - Kiểm tra miệng : GV thường tiến hành vào đầu tiết học, nhằm củng cố kiến thức, kĩ năng của bài dạy thuộc cùng một phân môn (chủ yếu ở tiết kế trước), tạo điều kiện thuận lợi để HS tiếp nhận bài mới. Việc kiểm tra miệng tỏ ra có hiệu quả tích cực đối với bài học thuộc các phân môn Học vần (lớp 1), Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu - Tập làm văn (các lớp 2, 3, 4, 5). - Quan sát HS học tập : GV tiến hành trong suốt quá trình lên lớp ở tất cả các phân môn, nhằm đánh giá hiệu quả tiếp nhận của HS, kịp thời động viên, khuyến khích HS tích cực học tập. Quan sát HS học tập trên lớp còn giúp GV tự điều chỉnh hoạt động dạy học sao cho phù hợp với đối tượng HS cụ thể. - Yêu cầu HS luyện tập thực hành (thông qua bài tập) : GV đánh giá mức độ nắm vững về kiến thức, thành thạo về kĩ năng theo yêu cầu cần đạt đối với bài học cụ thể. Bài tập thực hành môn Tiếng Việt tiểu học có thể được đặt ra ở tất cả các bài học thuộc các phân môn khác nhau, ví dụ : thực hành luyện đọc (Tập đọc), thực hành luyện nghe – nói (Kể chuyện, Tập làm văn), thực hành luyện viết (Chính tả, Tập viết), thực hành để nắm vững kiến thức và kĩ năng tiếng Việt (Luyện từ và câu),...
  5. - Kiểm tra viết (dưới 20 phút) : Thường áp dụng đối với bài học thuộc các phân môn Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu, Tập làm văn. Bài kiểm tra viết trong thời gian ngắn vừa khích lệ HS nắm vững kiến thức, kĩ năng mới học vừa củng cố kiến thức, kĩ năng đã học qua các bài trước đó. Thông qua bài kiểm tra viết (nội dung và hình thức trình bày, diễn đạt), GV còn có thể đánh giá kết quả vận dụng tổng hợp các kiến thức, kĩ năng tiếng Việt của HS. Theo quy định, số lần KTTX tối thiểu trong 1 tháng đối với môn Tiếng Việt là 4 lần. Do vậy, để thực hiện yêu cầu kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS ở tất cả các phân môn, GV cần có kế hoạch KTTX đối với từng HS theo cách “luân phiên” (có thể ghi rõ trong giáo án những HS được kiểm tra). Ví dụ : KTTX (lớp 2) tháng thứ nhất : Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Tập làm văn ; tháng thứ hai : Tập đọc, Tập viết, Luyện từ và câu, Tập làm văn. 2. Kiểm tra, đánh giá định kì Kiểm tra đánh giá định kì môn Tiếng Việt được thực hiện 4 lần trong năm học, theo từng giai đoạn học tập của HS (GKI, CKI, GKII, CKII). Việc kiểm tra định kì môn Tiếng Việt được thực hiện theo các văn bản hướng dẫn hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo. GV cần lưu ý những điểm cơ bản sau : a) Mục đích, yêu cầu - Đánh giá tương đối đầy đủ và toàn diện cả 4 kĩ năng : đọc, viết, nghe, nói. - Đảm bảo mục tiêu dạy học ; bám sát Chuẩn kiến thức, kĩ năng quy định cho từng giai đoạn học (GKI, CKI, GKII, CKII) ; đánh giá kiến thức về tiếng Việt thông qua kết quả thực hiện các bài tập theo chương trình quy định.
  6. - Nội dung bao quát chương trình đã học (theo từng giai đoạn học tập). - Kết hợp hình thức kiểm tra bằng câu hỏi trắc nghiệm (bài kiểm tra Đọc thầm và làm bài tập - đánh giá kĩ năng đọc hiểu, kiến thức về từ và câu) và hình thức kiểm tra bằng bài viết (Chính tả, Tập làm văn - từ lớp 2 đến lớp 5). b) Thời điểm kiểm tra Thực hiện theo văn bản Hướng dẫn phân phối chương trình các môn học - môn Tiếng Việt (các tuần Ôn tập và kiểm tra giữa HK, cuối HK). Lịch kiểm tra cụ thể do trường tiểu học tự sắp xếp. c) Nội dung và cách kiểm tra, đánh giá Kiểm tra định kì (KTĐK) môn Tiếng Việt được tiến hành với 2 bài : Đọc, Viết. Nội dung và cách tiến hành kiểm tra, cho điểm bài KTĐK như sau : c.1. Bài kiểm tra Đọc (10 điểm) Bài kiểm tra Đọc gồm 2 phần : Đọc thành tiếng - Đọc thầm và làm bài tập (hình thức trắc nghiệm khách quan). - Đọc thành tiếng : + GV kiểm tra đọc thành tiếng đối với từng HS qua các tiết Ôn tập theo từng giai đoạn học (GKI, CKI, GKII, CKII). Số HS được kiểm tra cần rải đều ở các tiết Ôn tập trong tuần. + Nội dung kiểm tra : HS đọc một đoạn văn (khoảng 1 phút) theo quy định số chữ ở từng giai đoạn đối với từng lớp (Chuẩn kiến thức, kĩ năng) trong bài Tập đọc đã học ở SGK Tiếng Việt (do GV lựa chọn và chuẩn bị trước; ghi số trang trong
  7. SGK, tên bài và đoạn đọc vào phiếu cho từng HS bốc thăm, đọc thành tiếng, sau đó trả lời 1 câu hỏi về nội dung đoạn đọc). Chú ý : tránh trường hợp 2 HS kiểm tra liên tiếp đọc một đoạn giống nhau. + GV đánh giá, cho điểm dựa vào những yêu cầu quy định ở mỗi lớp (theo hướng dẫn KTĐK của Bộ GD&ĐT). Ví dụ : KTĐK CKI lớp 2 về đọc thành tiếng như sau : * Đọc đúng tiếng, đúng từ : 3 điểm. (Đọc sai dưới 3 tiếng : 2,5 điểm ; đọc sai từ 3 đến 5 tiếng : 2 điểm ; đọc sai từ 6 đến 10 tiếng : 1,5 điểm ; đọc sai từ 11 đến 15 tiếng : 1,0 điểm ; đọc sai từ 16 đến 20 tiếng : 0,5 điểm ; đọc sai trên 20 tiếng : 0 điểm). * Ngắt nghỉ hơi đúng ở các dấu câu (có thể mắc lỗi về ngắt nghỉ hơi ở 1 hoặc 2 dấu câu) : 1 điểm. (Không ngắt nghỉ hơi đúng ở 3 đến 4 dấu câu : 0,5 điểm; không ngắt nghỉ hơi đúng ở 5 dấu câu trở lên : 0 điểm). * Tốc độ đọc đạt yêu cầu (40 chữ / không quá 1 phút) : 1 điểm. (Đọc từ trên 1 phút đến 2 phút: 0,5 điểm ; đọc quá 2 phút, phải đánh vần nhẩm : 0 điểm). * Trả lời đúng ý câu hỏi do GV nêu : 1 điểm. (Trả lời chưa đủ ý hoặc hiểu câu hỏi nhưng diễn đạt còn lúng túng, chưa rõ ràng : 0,5 điểm ; không trả lời được hoặc trả lời sai ý : 0 điểm). - Đọc thầm và làm bài tập + GV kiểm tra Đọc thầm và làm bài tập đối với HS cả lớp trên phiếu in sẵn (nếu có điều kiện phôtôcopy) hoặc GV chép đề bài trên bảng lớp (giấy khổ to) và hướng dẫn HS làm bài (trả lời các câu hỏi trắc nghiệm) theo cách ghi kết quả lựa chọn (đánh dấu x vào ô trống... / khoanh tròn chữ cái trước ý trả lời đúng cho từng câu hỏi) vào giấy kẻ ô li, ví dụ : Câu 1 – a, Câu 2 – b, Câu 3 – c,...
  8. + Nội dung kiểm tra : HS đọc thầm một văn bản đã học trong SGK Tiếng Việt (hoặc văn bản ngoài SGK phù hợp với chủ điểm đã học - đối với HS ở vùng thuận lợi) có độ dài theo quy định số chữ ở từng giai đoạn (Chuẩn kiến thức, kĩ năng). Sau đó HS làm bài tập (theo số lượng câu hỏi-bài tập quy định cho từng lớp); thời gian HS làm bài khoảng 30 phút. + GV đánh giá, cho điểm dựa vào lời giải cụ thể. * Chú ý : Theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo về kiểm tra định kì môn Tiếng Việt, bài kiểm tra Đọc được tính 10 điểm (tỉ lệ điểm Đọc thành tiếng / điểm Đọc thầm và làm bài tập có thay đổi theo các khối lớp, căn cứ vào trình độ đọc ngày càng phát triển ở HS). Cụ thể như sau : - Lớp 1 : Thực hiện theo hướng dẫn riêng cho mỗi giai đoạn Học vần, Luyện tập tổng hợp. (Tham khảo tài liệu Đề kiểm tra học kì cấp Tiểu học – Lớp 1, NXB Giáo dục, 2008). - Lớp 2, lớp 3 : 6 điểm Đọc thành tiếng / 4 điểm Đọc thầm và làm bài tập (4 câu trắc nghiệm, mỗi câu 1 điểm). - Lớp 4, 5 : 5 điểm Đọc thành tiếng / 5 điểm Đọc thầm và làm bài tập (Lớp 4 : 8 câu trắc nghiệm, gồm 6 câu 0,5 điểm, 2 câu 1,0 điểm ; Lớp 5 : 10 câu trắc nghiệm, mỗi câu 0,5 điểm). c.2. Bài kiểm tra Viết (10 điểm) Bài kiểm tra Viết gồm 2 phần : Chính tả - Tập làm văn (đối với các lớp 2, 3, 4, 5). HS viết bài Chính tả, bài Tập làm văn trên giấy kẻ ô li ; thời gian làm bài kiểm tra Viết khoảng 40 phút.
  9. * Chú ý : Riêng ở lớp 1, HS chỉ kiểm tra viết chính tả (tập chép vần - từ ngữ - câu hoặc đoạn văn) theo hướng dẫn cụ thể cho mỗi giai đoạn Học vần, Luyện tập tổng hợp. (Tham khảo tài liệu Đề kiểm tra học kì cấp Tiểu học – Lớp 1, Sđd). - Chính tả (5 điểm) + GV đọc cho HS viết (Chính tả nghe – viết) hoặc yêu cầu HS tập chép (đối với lớp 1) một đoạn văn (thơ) trích ở bài Tập đọc đã học trong SGK Tiếng Việt (hoặc văn bản ngoài SGK phù hợp với chủ điểm đã học - đối với HS ở vùng thuận lợi) có độ dài theo quy định số chữ ở từng giai đoạn (Chuẩn kiến thức, kĩ năng). Thời gian viết bài Chính tả khoảng 15 phút. + Đánh giá, cho điểm : Bài viết không mắc lỗi chính tả, chữ viết rõ ràng, trình bày đúng đoạn văn (thơ) : 5 điểm. Mỗi lỗi chính tả trong bài viết (sai-lẫn phụ âm đầu hoặc vần, thanh; không viết hoa đúng quy định), trừ 0,5 điểm. * Lưu ý : Nếu chữ viết không rõ ràng, sai về độ cao, khoảng cách, kiểu chữ hoặc trình bày bẩn,... bị trừ 1 điểm toàn bài. - Tập làm văn (5 điểm) + HS viết theo yêu cầu của đề bài Tập làm văn thuộc nội dung chương trình đã học ở từng giai đoạn (Chuẩn kiến thức, kĩ năng các lớp 2, 3, 4, 5). Thời gian HS viết bài Tập làm văn khoảng 25 phút. + GV đánh giá, cho điểm dựa vào yêu cầu về nội dung và hình thức trình bày, diễn đạt của bài tập làm văn cụ thể (có thể cho theo các mức điểm từ 0,5 - 1 - 1,5... đến 5 điểm) ; hoặc cho điểm bài chính tả (tập chép) ở lớp 1 theo hướng dẫn cụ thể ở mỗi giai đoạn Học vần, Luyện tập tổng hợp. (Tham khảo tài liệu Đề kiểm tra học kì cấp Tiểu học – Lớp 1, Sđd) d) Cách tính điểm kiểm tra định kì môn Tiếng Việt
  10. Điểm từng phần của bài kiểm tra (Đọc thành tiếng, Đọc thầm và làm bài tập, Chính tả, Tập làm văn) có thể cho đến 0,25 điểm ; điểm chung của bài kiểm tra Đọc hay Viết có thể cho đến 0,5 điểm. HS chỉ được làm tròn điểm số 1 lần duy nhất khi cộng trung bình điểm của 2 bài kiểm tra Đọc - Viết để thành điểm KTĐK môn Tiếng Việt (nếu lẻ 0,5 thì được làm tròn thành 1 để thành điểm số nguyên, không cho điểm 0 và điểm thập phân ở các lần kiểm tra - theo Quy định Đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học). IV. SỬ DỤNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM TRONG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ MÔN TIẾNG VIỆT 1. Vận dụng hình thức trắc nghiệm khách quan trong đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt ở tiểu học Hình thức trắc nghiệm khách quan (gọi tắt là trắc nghiệm - TrN) được sử dụng trong đánh giá kết quả giáo dục còn được gọi là trắc nghiệm giáo dục. Có nhiều hình thức đặt câu hỏi TrN khác nhau, do đó cũng có nhiều loại TrN giáo dục khác nhau : TrN đúng - sai ; TrN nhiều lựa chọn ; TrN đối chiếu cặp đôi ; TrN điền thế ; TrN sắp xếp thứ tự ; TrN trả lời ngắn. Các loại TrN nói trên đều có thể vận dụng vào việc thiết kế bài kiểm tra đánh giá môn Tiếng Việt ở tiểu học. Tuy nhiên, cần thấy rõ những mặt mạnh và yếu của mỗi loại để sử dụng cho thích hợp và có hiệu quả nhất. - Loại TrN đúng - sai chỉ gồm 2 lựa chọn (đúng hoặc sai), do vậy nó đơn giản và có khả năng áp dụng rộng rãi (HS chỉ cần xác nhận kết quả là Đ hay S). Tuy nhiên, loại TrN này ít có khả năng phân biệt HS giỏi và HS kém. Hơn nữa, còn có thể xảy ra trường hợp hiểu lầm câu hỏi hoặc có nhiều cách giải thích khác nhau dẫn đến những bất đồng ý kiến về câu trả lời được cho là đúng.
  11. - Loại TrN nhiều lựa chọn có thể được sử dụng rộng rãi ở nhiều trường hợp, nhưng khả năng phân biệt HS giỏi và HS kém tỏ ra đắc dụng hơn. Có điều, loại TrN này tương đối khó soạn, vì : mỗi câu hỏi phải kèm theo một số câu trả lời, các câu trả lời đều phải hấp dẫn ngang nhau, nhưng trong đó chỉ có một câu trả lời đúng. Thông thường, TrN nhiều lựa chọn có nhiều hi vọng đạt mức tin cậy cao hơn loại TN đúng - sai gấp 2 lần. - Loại TN điền thế thường có một hay nhiều chỗ trống (khuyết) trong câu văn hay đoạn lời, đòi hỏi HS phải điền (lấp) những yếu tố phù hợp, sao cho đầy đủ và đúng, hoặc có một hay nhiều yếu tố cần thay thế trong câu văn hay đoạn lời, đòi hỏi HS phải thế (thay) bằng những yếu tố phù hợp, sao cho đúng và đủ. Đây là loại TrN khá gần gũi với HS tiểu học hiện nay, được vận dụng trong các bài tập điền từ, bài tập về chính tả (âm-vần-tiếng), bài tập tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa,... Nó có tác dụng phân loại trình độ HS khá rõ, lại dễ thiết kế, do vậy thường được GV sử dụng trong dạy học. Tuy vậy, cũng cần lưu ý về cách “đặt” chỗ trống (hoặc “chọn” từ ngữ cần thay thế), xác định yêu cầu lựa chọn yếu tố điền thế sao cho phù hợp trình độ HS và đòi hỏi của chương trình mỗi lớp ; cần tính toán “độ khó” của bài TrN và khả năng đánh giá khách quan (dùng máy hay người chấm). - Loại TN đối chiếu cặp đôi có 2 cột, mỗi cột gồm một số yếu tố độc lập (tiếng, từ, câu,...) đòi hỏi HS phải lựa chọn-ghép nối một yếu tố bên này với yếu tố bên kia, sao cho thành một cặp tương thích. Loại TrN này cũng khá quen thuộc với HS tiểu học, được sử dụng ở bài tập trong các phân môn Học vần, Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu,...Tuỳ theo mức độ yêu cầu (khó - bình thường - dễ), có thể soạn bài TrN đòi hỏi ghép nối 1 hay nhiều cặp, ghép nối có lựa chọn (thử) ở 1 cột hay cả 2 cột... Khi thiết kế bài TrN loại này, cần tính toán đến các khả năng kết hợp để sao cho chỉ có một kết quả đúng (xác định “cặp đôi” chính xác). - Loại TrN sắp xếp thứ tự yêu cầu HS sắp xếp các yếu tố cho sẵn theo một trật tự đúng và hợp lí nhất. TrN loại này được HS tiểu học làm quen qua các bài
  12. tập (hoặc trò chơi học tập) ở các phân môn Luyện từ và câu, Tập làm văn, Tập đọc, Kể chuyện. Ví dụ : sắp xếp các từ ngữ thành câu, xếp các câu thành đoạn, xếp các đoạn thành bài, sắp xếp các chi tiết (hoặc tranh minh hoạ) theo trình tự diễn biến của câu chuyện,... Tuỳ theo “độ khó” của bài TrN, có thể yêu cầu HS sắp xếp ít hay nhiều yếu tố, nhận biết mối quan hệ giữa các yếu tố dễ hay khó (qua nội dung và dấu hiệu liên kết), chỉ nhớ lại nội dung văn bản để sắp xếp thứ tự hay phải suy nghĩ, phán đoán để xác lập một trật tự hợp lí,... Khi thiết kế bài TrN loại này, cần đưa ra số lượng yếu tố vừa phải, tính toán đến “dấu hiệu nhận biết để sắp xếp” phù hợp đối tượng HS và xác lập một trật tự duy nhất đúng (tránh trường hợp có thể sắp xếp theo thứ tự khác mà vẫn hợp lí). - Loại TrN trả lời ngắn tuy có hạn chế tính khách quan, nhưng lại ít nhiều đo nghiệm được tính sáng tạo của HS qua nội dung trả lời ngắn và cách trình bày, diễn đạt câu trả lời. Khi cần thiết, cũng có thể dùng loại TrN này với điều kiện : tính toán kĩ về nội dung và độ dài của câu hỏi ; dự đoán khả năng trả lời của HS để đánh giá cho công bằng, chính xác. Vấn đề đặt ra là : Nên sử dụng nhiều loại câu hỏi (tức những câu hỏi theo nhiều loại TrN khác nhau) hay chỉ nên dùng một loại câu hỏi trong một bài trắc nghiệm đánh giá trình độ học tập của HS tiểu học ? Có nhiều ý kiến trái ngược nhau về vấn đề này. Người chủ trương cần dùng nhiều loại câu hỏi khác nhau cho rằng như vậy sẽ làm tăng thêm giá trị của bài TrN, làm cho bài TrN đỡ nhàm chán. Ngược lại, có người cho rằng chỉ nên lựa chọn một loại câu hỏi TrN thích hợp nhất cho toàn bài TrN, ví dụ như loại TrN nhiều lựa chọn. Thật ra, không có một quy luật nào cả. Nhưng cần nhớ một điều là : không nên làm rối trí HS bằng nhiều hình thức câu hỏi phức tạp, nhất là những loại câu hỏi không quen thuộc với HS tiểu học. Mục đích của chúng ta là khảo sát học lực của HS và tìm cách giúp cho các em biểu lộ khả năng một cách dễ dàng và trung thực, chứ không phải khảo sát “tài” làm trắc nghiệm của chúng. Tốt nhất là
  13. kết hợp được hài hoà cả yêu cầu cần đánh giá và khả năng, thói quen, hứng thú làm một số loại câu hỏi-bài tập nào đó, hoặc sử dụng loại câu hỏi nhiều lựa chọn vì phạm vi áp dụng của loại này rất rộng rãi, và chỉ sử dụng thêm các hình thức khác khi nào ta nhận thấy hình thức đó thích hợp và có hiệu quả cao hơn, đỡ nhàm chán cho HS. 2. Mấy vấn đề lưu ý về kĩ thuật soạn thảo trắc nghiệm Về kĩ thuật soạn thảo trắc nghiệm, theo tài liệu Trắc nghiệm giáo dục của GS Trần Trọng Thuỷ (Viện KHGD), có mấy vấn đề dưới đây cần được lưu ý quan tâm. a) Vấn đề số lượng các câu hỏi trong một bài trắc nghiệm - Cần tính đến 2 yếu tố quy định số câu hỏi cần thiết trong 1 bài TrN : + Thời gian dành cho cuộc khảo sát. + Sự chính xác của điểm số trong việc đo kiến thức hay học lực mà ta muốn khảo sát. (Thông thường, câu hỏi cùng một loại trắc nghiệm được cho với số điểm bằng nhau, số lượng câu hỏi trắc nghiệm dùng để đo kiến thức hay học lực được quy định bởi mục đích và phạm vi khảo sát). - Số câu hỏi trả lời được trong 1 phút tuỳ thuộc vào loại câu hỏi sử dụng, vào sự phức tạp của quá trình tư duy cần thiết để trả lời được câu hỏi ấy, vào tập quán và năng lực của từng HS,... Vì vậy, khó xác định một cách chính xác số câu hỏi hợp lí cần đặt vào bài TrN. Tuy nhiên, có thể dựa vào những căn cứ sau để tính thời giạn cho HS thực hiện 1 câu : tốc độ đọc của HS (ở từng lớp, từng giai đoạn cụ thể) ; mức độ yêu cầu cần thực hiện của câu hỏi (bao gồm cả về “độ khó”, về khả năng suy nghĩ và thực hiện của HS).
  14. - Ngoài ra, sự chính xác của điểm số cũng là yếu tố chi phối số lượng câu hỏi trong một bài TrN. Cần nhận thức rõ : một bài TrN về một môn nào đó, dù có đến 100 câu hay hơn thế, cũng chỉ là một mẫu trong muôn ngàn mẫu khác có thể rút ra từ một quần thể vô tận những câu hỏi có thể đặt ra để khảo sát về khả năng học môn học ấy. Vì vậy, vấn đề quan trọng đối với người soạn TrN là : làm sao cho mẫu mà mình sử dụng đại diện được đúng đắn cho toàn bộ quần thể các câu hỏi thích hợp với bài TrN đang soạn. Do đó, mẫu câu hỏi của ta càng lớn, tức là càng nhiều câu hỏi đại diện bao nhiêu thì điểm số về bài TrN càng đo lường chính xác khả năng mà ta muốn khảo sát bấy nhiêu. b) Vấn đề độ khó của bài trắc nghiệm Bài TrN tốt bao gồm những câu có độ khó trung bình hay vừa phải. b.1. Độ khó của mỗi câu hỏi Độ khó của mỗi câu hỏi được tính bằng tỉ số HS trả lời đúng câu hỏi ấy trên toàn thể số HS tham dự : P = R : n (R là số HS làm đúng, n là số HS tham dự). Câu TrN có độ khó vừa phải là câu có độ khó 50% (50% đúng, 50% sai). Tuy nhiên, cần căn cứ vào loại câu hỏi TrN. Nếu là câu hỏi thuộc loại Đúng – Sai thì tỉ lệ may rủi đương nhiên là 50%. Vì vậy, cần phải lưu ý đến một yếu tố khác là : tỉ lệ may rủi mong đợi (tỉ lệ MRMĐ). Tỉ lệ này thay đổi tuỳ theo số lựa chọn trong mỗi câu hỏi. Nếu câu TrN gồm 2 lựa chọn thì tỉ lệ MRMĐ là 50%. Như vậy thì độ khó vừa phải của câu TrN này phải là trung bình cộng giữa tỉ lệ MRMĐ và một trăm phần trăm, tức là : (100 + 50) : 2 = 75%. Nói cách khác, câu hỏi thuộc loại Đúng - Sai có độ khó vừa phải, nếu 75% HS trả lời đúng. Với cách tính ấy và với tỉ lệ MRMĐ của câu hỏi gồm 5 lựa chọn là 100 : 5 = 20(%), thì độ khó vừa phải của câu ấy sẽ là : (100 + 20) : 2 = 60% ; nghĩa là, độ khó của câu hỏi 5 lựa chọn được gọi là vừa phải nếu 60% HS trả lời đúng câu hỏi
  15. này. Riêng với câu hỏi thuộc loại “trả lời tự do” thì độ khó vừa phải là 50%, nghĩa là 50% HS trả lời đúng câu hỏi ấy. Khi tiến hành lựa chọn câu TrN căn cứ theo độ khó của nó, trước tiên ta phải gạt đi những câu nào mà tất cả HS đều không trả lời được (vì như thế là quá khó), hay tất cả HS đều làm được (vì như thế là quá dễ). Những câu ấy vô dụng vì không giúp gì cho sự phân biệt HS giỏi với HS kém. Một bài TrN có hiệu lực và đáng tin cậy thường bao gồm những câu hỏi có độ khó xấp xỉ hay bằng độ khó vừa phải. b.2. Độ khó của cả bài TrN Độ khó của cả bài TN được tính như sau : - Cách thứ nhất : Đối chiếu điểm số trung bình (TB) của bài TrN với điểm số TB lí tưởng. Điểm số TB lí tưởng là TB cộng của của điểm số tối đa có thể có được và điểm MRMĐ. Điểm MRMĐ bằng số câu hỏi của bài TrN chia cho số lựa chọn của mỗi câu. Như vậy, với một bài TrN 50 câu hỏi, mỗi câu có 5 lựa chọn, thì điểm MRMĐ là 50 : 5 = 10, và TB lí tưởng sẽ là : (10 + 50) : 2 = 30. Nếu TB thực sự của bài TrN ấy trên hay dưới 30 quá xa thì bài TN ấy có thể quá dễ hoặc quá khó. Sở dĩ lấy điểm TB để xác định mức độ khó hay dễ của bài TrN là vì điểm TB bị chi phối hoàn toàn bởi độ khó TB của các câu hỏi tạo thành bài TrN ấy. - Cách thứ hai : Quan sát sự phân phối điểm số của bài TrN ấy. Nếu TB của bài TrN nằm xấp xỉ hay ngay ở trung điểm của tầm hạn (tức hiệu số giữa điểm cao nhất và điểm thấp nhất) và nếu không có điểm 0 hoặc điểm tối đa (hoàn toàn) thì ta có thể chắc chắn rằng bài TrN thích hợp cho nhóm HS mà ta khảo sát.
  16. VD : với một bài TrN 80 câu hỏi, ta có điểm TB là 42 và tầm hạn là từ 10 điểm (thấp nhất) đến 75 điểm (cao nhất) ; các dữ kiện ấy cho ta biết rằng bài TrN có độ khó vừa phải cho HS lớp ấy. Mặt khác, nếu cùng bài TrN ấy, HS lớp khác làm, điểm TB là 69 và tầm hạn là từ 50 đến 80, thì như vậy bài TrN quá dễ đối với HS lớp này. Ngược lại, nếu ta có TB là 15 và tầm hạn là từ 0 đến 40 thì ta có thể tin rằng bài TN này là quá khó đối với chúng. c) Vấn đề mục tiêu khảo sát trong bài trắc nghiệm Trước khi soạn thảo TrN, ta cần phải biết rõ những điều ta sẽ phải khảo sát và những mục tiêu nào ta đòi hỏi HS phải đạt được. Muốn vậy, ta phải phác hoạ sẵn một dàn bài TrN, trong đó có dự trù những phần thuộc về nội dung của môn hay bài học và những mục tiêu giảng dạy mà ta mong mỏi HS phải đạt được. Có như vậy mới tránh được khuynh hướng đặt nặng tầm quan trọng vào một phần nào đó của chương trình giảng dạy mà xem nhẹ các phần khác, hay chỉ chú ý đến những tiểu tiết mà quên các phạm trù cơ bản. Nội dung bài khảo sát gồm những tiết mục hay đề mục đã được giảng dạy. Mục tiêu giảng dạy là những thành quả xác định rõ rệt và có thể đo lường được mà HS phải đạt tới và biểu lộ qua hành vi có liên quan đến các lĩnh vực tri thức, kĩ năng và kĩ xảo tương ứng. Có nhiều cách phân loại mục tiêu giảng dạy, song theo Benjamin Bloom và các cộng sự, các mục tiêu giảng dạy được phân tích căn cứ vào 6 chức năng trí tuệ cơ bản, từ thấp lên cao : - Kiến thức (Nhận biết) : được xem như là sự nhận lại, ghi nhớ và nhớ lại thông tin. - Thông hiểu : được xem là loại tri thức cho phép giao tiếp và sử dụng các thông tin đã có.
  17. - Vận dụng : được xem là kĩ năng vận dụng thông tin (quy tắc, phương pháp, khái niệm chung) vào tình huống mới mà không có sự gợi ý. - Phân tích : được xem là loại tri thức cho phép chia thông tin thành các bộ phận và thiết lập sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng. - Tổng hợp : được xem là loại tri thức cho phép cải biến thông tin từ những nguồn khác nhau và trên cơ sở đó tạo nên mẫu mới. - Đánh giá : cho phép phán đoán về giá trị của một tư tưởng, phương pháp, tài liệu nào đó. Ở cấp Tiểu học, tiêu chí đề kiểm tra định kì tập trung đánh giá ở 3 mức độ theo tỉ lệ như sau : Nhận biết 50% - Thông hiểu 30% - Vận dụng 20% (theo tài liệu Đề kiểm tra học kì cấp Tiểu học, NXB Giáo dục, 2008).

Bàn về dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học theo hướng tiếp cận năng lực

Cỡ chữ Màu chữ:

Ngôn ngữ là công cụ của lời nói và tư duy. Dạy học tiếng Việt ở trường tiểu học trước hết là dạy cho học sinh có khả năng sử dụng công cụ ấy một cách hiệu quả nhất trong học tập và đời sống.

Để chuẩn bị cho học sinh học lên trung học cơ sở, mục tiêu trọng tâm trong dạy học Tiếng Việt ở cấp tiểu học là phát triển kỹ năng, trong đó, điểm nhấn là các kỹ năng đọc- hiểu và kỹ năng viết (bao gồm viết chính tả và làm văn). Vậy, mục tiêu phát triển kỹ năng nghe, nói, đọc, viết trong dạy học tiếng Việt ở nhà trường tiểu học có phải là dạy học phát triển năng lực không?

1.Năng lực tiếng Việt được hiểu là năng lực tiếp nhận văn bản và năng lực sản sinh văn bản(bao gồm văn bản nói và văn bản viết). Năng lực tiếp nhận văn bản bao gồm nghe - hiểu và đọc - hiểu.

Tuy nhiên, vì quan niệm cho rằng học sinh học tiếng Việt với tư cách là tiếng mẹ đẻ nên chúng ta thường nặng về phát triển khả năng đọc - hiểu văn bản của học sinh; trong khi năng lực nghe - hiểu (như nghe để có ý kiến phản hồi hay nghe người khác đọc, kể câu chuyện và kể lại hoặc tìm hiểu nội dung câu chuyện chẳng hạn) nhiều khi xuất hiện với tần suất khá lớn trong cuộc sống mỗi người nhưng lại chưa được chú ý, kể cả trong dạy học và đánh giá.

Năng lực sản sinh văn bản bao gồm năng lực nói, trình bày một vấn đề trước người khác hay thuyết trình trước đông người và năng lực viết (viết đúng chính tả, đúng ngữ pháp và trình bày được một văn bản viết có nội dung đúng mục đích hoặc theo yêu cầu của người khác như một đề tập làm văn chẳng hạn). Năng lực tiếp nhận văn bản và sản sinh văn bản thường có quan hệ nhân quả: người hay chú ý lắng nghe người khác nói hay tập trung đọc văn bản viết thường có khả năng nói, viết tốt hơn và ngược lại.

2. Dạy tiếng Việt theo hướng tiếp cận năng lực là dạy những gì?

Môn Tiếng Việt ở tiểu học (trừ phần học vần lớp 1) được phân chia thành các phân môn: Tập đọc, Tập viết- Chính tả, Luyện từ và câu và Tập làm văn. Mỗi phân môn bên cạnh chức năng chung của môn học thường đảm nhận một mục đích chính. Phân môn Tập đọc nhằm phát triển kỹ năng đọc - hiểu; phân môn Tập viết - Chính tả hình thành kỹ năng viết chính tả (viết đúng chính tả, đúng tốc độ); phân môn Luyện từ và câu trên cơ sở cung cấp kiến thức sơ giản về từ và câu nhằm giúp học sinh dùng từ, viết câu, đoạn văn đúng quy tắc ngữ pháp tiếng Việt; phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp nhằm rèn luyện kỹ năng tạo văn bản nói và viết cho học sinh.

Đối với các phân môn, mục tiêu kỹ năng trên suy đến cùng là hướng tới phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt cho người học - năng lực tiếp nhận lời nói và năng lực sản sinh lời nói. Dạy tiếng Việt theo hướng phát triển năng lực chính là quá trình dạy học hướng tới hình thành và phát triển các năng lực sử dụng tiếng Việt cho người học trong môi trường học tập và đời sống theo lứa tuổi.

“Lời nói” trong ngôn ngữ bao gồm 2 dạng thức cơ bản, lời nói trực tiếp (nghe người khác nói trực tiếp) và lời nói gián tiếp (lời nói thông qua văn bản viết). Ngoài ra, còn có các yếu tố bổ sung như ngôn ngữ cơ thể, phục trang, hóa trang, tranh minh họa,… cũng có thể ảnh hưởng tới chất lượng thông tin của lời nói.

Từ nhận thức trên, chúng ta cần có định hướng về tổ chức dạy học các phân môn Tiếng Việt sao cho môn học này hướng tới phát triển tốt nhất các năng lực sử dụng tiếng Việt đối với học sinh tiểu học.

Trước hết, bàn về dạy học sinh phát triển năng lực tiếp nhận lời nói, bao gồm năng lực nghe - hiểu và năng lực đọc - hiểu.

Dạy học sinh nghe - hiểu thông qua quá trình dạy học: nghe - nhắc lại lời giảng của giáo viên hoặc nghe - nhắc lại hoặc nhận xét về lời nói của bạn hoặc nghe người khác kể một câu chuyên rồi kể lại hoặc giới thiệu cho người khác,… Dạy kỹ năng nghe hiểu được thực hiện thông qua các phân môn đặc trưng như Kể chuyện và có thể thực hiện qua tất cả các hoạt động dạy học môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác.

Các yêu cầu cơ bản về kỹ năng nghe hiểu bao gồm từ rèn luyện học sinh thói quen tập trung lắng nghe khi người khác nói và có phản hồi chính xác. Tập cho học sinh có thói quen tập trung nghe, lĩnh hội thông tin từ lời nói của người khác và có phản hồi tích cực là yêu cầu quan trọng trong dạy kỹ năng nghe ở trường tiểu học. Điều này giúp cho học sinh có thói quen lĩnh hội tích cực từ lời nói để bồi đắp thêm kiến thức cho bản thân mình.

Dạy đọc - hiểu trong môn Tiếng Việt là dạy kỹ năng tiếp nhận văn bản, một trong những kỹ năng cơ bản và quan trong bậc nhất trong dạy học Tiếng Việt. Vì nó ảnh hưởng tới chất lượng học tập môn Tiếng Việt và các môn học khác; ảnh hưởng tích cực tới cuộc sống sau này trong một xã hội mà việc “học suốt đời” được xem là cứu cánh cho sự thành công của mỗi con người.

Dạy đọc - hiểu là dạy học sinh kỹ năng tiếp nhận, lĩnh hội thông tin qua văn bản (văn bản giấy và văn bản điện tử). Trong thời đại thông tin bùng nổ, vốn tri thức, vốn sống của con người được tích lũy chủ yếu từ hoạt động đọc. Vì vậy, dạy học sinh có thói quen đọc, có phương pháp lĩnh hội thông tin qua hoạt động đọc trở nên thiết yếu trong dạy Tập đọc. Từ đó, hướng tới văn hóa đọc cho mỗi cá nhân và cộng đồng.

3. Phải dạy Tập đọc thế nào để phát triển được năng lực đọc hiểu cho học sinh?

Muốn phát triển năng lực đọc hiểu, trước hết phải dạy học sinh kỹ năng đọc thành tiếng với các yêu cầu trọng tâm là đọc tròn vành rõ tiếng các âm tiếng Việt, đọc đúng tốc độ để có thể lĩnh hội được nội dung văn bản và biết ngắt nghỉ đúng chỗ. Đối với các văn bản nghệ thuật, lên lớp 4, 5 có thể dạy các em làm quen với cách đọc diễn cảm ở những đoạn giàu cảm xúc. Những yêu cầu cơ bản này phải được thực hiện thuần thục từ các lớp đầu cấp, nhất là lớp Một.

Lên các lớp trên, có thể từ lớp 3, chủ yếu dạy các em đọc thầm và hiểu văn bản theo chỉ dẫn của giáo viên. Như vậy, nhiệm vụ chủ yếu của việc đọc trong dạy Tập đọc ở lớp trên không còn là đọc to, rõ, lưu loát mà tiến dần tới đọc có mục đích: đọc để hiểu được nội dung trong đoạn văn, đoạn thơ. Trong các giờ Tập đọc, giáo viên thường cắt khúc các hoạt động luyện đọc và tìm hiểu bài thành 2 hoạt động tách bạch nhau. Như vậy sẽ lãng phí thời gian mà hiệu quả không cao. Để khắc phục hạn chế này, theo chúng tôi, nên thiết kế lại giờ Tập đọc theo các hoạt động đọc có mục đích. Có thể theo trình tự sau:

Bước 1. Đọc khởi động: mục đích của hoạt động này là giúp học sinh tiếp cận văn bản ban đầu qua giọng đọc của giáo viên. Bằng giọng đọc tryền cảm của giáo viên sẽ truyền được cảm hứng tiếp cận văn bản cho học sinh.

Bước 2. Đọc hiểu: Giáo viên có thể chia đoạn để giao nhiệm vụ đọc hiểu tùy theo khả năng của học sinh từng khối lớp, vùng miền và độ dài của văn bản.Khi đọc đoạn văn bản, giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể để định hướng mục đích đọc hiểu cho học sinh. Nhiệm vụ chuyển đến học sinh có thể bằng vài ba câu hỏi gợi mở hoặc phiếu học tập cho mỗi nhóm học tập để các em vừa đọc, vừa tập trung vào các câu, từ, nhân vật, hình ảnh hoặc ý chính của đoạn để thực hiện nhiệm vụ học tập.

Ví dụ: khi dạy bài “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” (Tiếng Việt 5- Tập 1), sau khi đọc khởi động xong, giáo viên chia bài đọc thành 3 đoạn và yêu cầu học sinh đọc và tìm hiểu từng đoạn bằng các câu hỏi gợi mở: Các em đọc thầm hai đoạn đầu từ đầu bài đến “đỏ chói” và thảo luận theo các câu hỏi sau:

  • Những sự vật nào trong đoạn văn được tác giả nhắc đến?
  • Liệt kê những sự vật được tác giả miêu tả bằng màu vàng: Mặt Trời: có màu vàng hơn mọi khi.
  • Đọc đoạn văn trên, ta có cảm giác bức tranh tác giả vẽ ra vào ngày mùa nổi bật nhất là màu gì?
  • Hãy giới thiệu một cảnh vật ở trường hoặc nơi em ở có màu vàng và đặt câu để miêu tả lại cảnh vật đó.

(Những yêu cầu trên, giáo viên có thể cho vào phiếu học tập cho mỗi nhóm hoặc viết sẵn lên bảng nhóm để cả lớp quan sát)

Các câu hỏi, nhiệm vụ học tập được giao cần biên soạn theo 3 mức độ: Tái hiện - Hiểu - Vận dụng nhằm giúp các đối tượng học sinh đều có thể tham gia bài học theo khả năng của mình.

Bước 3. Đọc hiểu cả bài:

Sau khi kết thúc phần đọc hiểu từng đoạn, giáo viên cho học sinh đọc lại cả bài một hai lần để nắm được nội dung cơ bản hoặc ý nghĩa của văn bản bằng 1 đến 2 câu hỏi.

Ví dụ: Bài “Bài ca về trái đất”, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho học sinh: các em đọc thầm cả bài thơ và trả lời các câu hỏi sau:

  • Vì sao tác giả nói “Trái đất này là của chúng ta”?
  • Hãy kể xem, chúng ta đang làm gì để bảo vệ trái đất của chính mình?

Kết thúc bài, giáo viên có thể cho một số học sinh đọc diễn cảm bài thơ; học sinh hoặc giáo viên và cả lớp hát bài hát “Trái đất này là của chúng mình”

Như vậy, theo cách trên, chúng ta giải được bài toán về dạy Tập đọc hướng tới phát triển năng lực là thế nào.

Đối tượng đánh giá trong môn tiếng việt là gì?
Gửi email
Đối tượng đánh giá trong môn tiếng việt là gì?
In trang

Đáp án Mô đun 4 môn Tiếng Việt Tiểu học đầy đủ

  • Câu hỏi tương tác Module 4 môn Tiếng Việt
    • Vai trò, tầm quan trọng của kế hoạch dạy học môn Tiếng Việt
    • Nguyên tắc xây dựng KHDH môn học
    • Các chủ đề, nội dung được sử dụng để đạt chuẩn
    • Quy trình xây dựng Kế hoạch dạy học môn học
    • Quy trình xây dựng Kế hoạch bài dạy
    • Phân tích kế hoạch và tài liệu dạy học môn Tiếng Việt
  • Đáp án 20 câu trắc nghiệm Mô đun 4 môn Tiếng Việt

SKKN dạy học phân hóa đối tượng trong môn tiếng việt 4 theo mô hình trường học mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.03 KB, 15 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn sáng kiến:
Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất ở bậc
Tiểu học. Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh kiến thức ban đầu về Tiếng Việt,
giúp các em hình thành và phát triển tư duy ngôn ngữ. Học tập môn học này các em
sẽ được học cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình một cách chính
xác, được bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách cho con người Việt Nam.
Làm thế nào để các em nắm vững kiến thức môn học một cách chắc chắn và
có một vốn từ nhất định? Làm thế nào để quan tâm tốt việc hình thành kiến thức
cho học sinh; đến quá trình học sinh sử dụng từ ngữ đã học trong nói, viết và cuộc
sống hàng ngày. Đó chính là sự tích cực đổi mới phương pháp dạy học.
Một trong những phương pháp dạy học đem lại hiệu quả cao trong việc dạy
học các môn học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng là dạy phân hóa đối tượng
- dạy học theo tiến độ học tập của học sinh.
Thực tiễn cho thấy: Quá trình dạy học sẽ đạt hiệu quả mong muốn nếu biết
sử dụng các hứng thú của học sinh vào mục đích dạy học và giáo dục. Phân hoá
dạy học phù hợp với học sinh sẽ tạo ra động lực học tập cho các em, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển tối đa tư chất và năng lực của những học sinh có năng
khiếu. Chỉ có phân hoá dạy học mới có khả năng loại trừ tình trạng quá tải đối với
học sinh. Phát hiện và bù đắp lỗ hổng kiến thức, tạo động lực thúc đẩy học sinh học
tập. Chính vì vậy, việc dạy học theo nhóm đối tượng (phân hóa đối tượng học sinh)
sẽ giúp cho tất cả học sinh đều tích cực học tập. Từ đó đạt được chuẩn kiến thức, kĩ
năng của bài học, đồng thời phát triển năng lực học tập của từng học sinh.
Đặc thù của dạy học phân hóa là dạy sao cho vừa sức với đối tượng: Học
sinh năng khiếu dạy sao cho các em hứng thú, đam mê với việc học; đối với học
sinh chậm tiến thì tạo động lực để các em vươn lên; bù đắp được chỗ hổng về kiến
thức để lĩnh hội được kiến thức cơ bản. Như vậy, dạy học phân hóa xuyên suốt và
chi phối mọi phương pháp dạy học. Một khi giáo viên thực hiện phương pháp đọc
sáng tạo ở trên lớp thì phải phân hóa cho được các đối tượng học sinh, để áp dụng
từng biện pháp đọc - hiểu văn bản ở những mức độ khác nhau.


Ngoài kế hoạch dạy học, thông thường phân hóa để có những kế hoạch dạy
học phù hợp, đưa học sinh chậm tiến đạt chuẩn và giúp các đối tượng đã đạt chuẩn
hoặc năng khiếu phát triển ở mức cao hơn.
Tuy nhiên phải thừa nhận rằng, thực tế hiện nay việc dạy các môn học nói
chung và việc dạy học phân hóa theo đối tượng học sinh còn có rất nhiều hạn chế
và chưa đạt kết quả cao như mong muốn. Giáo viên chưa thực sự chủ động, linh
hoạt và sáng tạo trong đổi mới phương pháp. Đôi lúc, đôi khi còn rập khuôn, máy
1


móc, lệ thuộc vào tài liệu hướng dẫn học. Nhiều giáo viên còn gặp khó khăn trong
việc tổ chức các hoạt động dạy học và đánh giá học sinh. Giáo viên chưa xây dựng
được phương pháp dạy phù hợp với mục đích, nội dung của bài học đề ra. Bên cạnh
đó, ý thức tự giác của học sinh chưa cao, còn ỉ lại, trong chờ vào cô giáo,vào bạn
bè, ý thức tự học còn hạn chế.
Tất cả những vấn đề trên là sự trăn trở của bản thân. Bởi vậy trong quá trình
giảng dạy tôi đã không ngừng tìm tòi, học hỏi để tìm ra các biện pháp dạy học
mang lại hiệu quả tốt nhất. Bản thân tôi đã chọn nội dung "Dạy học phân hóa đối
tượng trong môn Tiếng Việt 4 theo mô hình trường học mới” để làm đề tài cho
sáng kiến kinh nghiệm của mình.
1.2. Điểm mới của sáng kiến:
Dạy học phân hóa đối tượng - dạy theo tiến độ học tập của học sinh không
phải là nội dung mới nhưng đổi mới hình thức, phương pháp tổ chức chắc rằng ở
mỗi giáo viên lại có một sáng kiến, một giải pháp riêng. Bản thân tôi đã trực tiếp
giảng dạy, làm công tác chủ nhiệm lớp, được học tập kinh nghiệm của đồng chí
đồng nghiệp, được trải nghiệm và thấy được sự đổi mới không ngừng về phương
pháp dạy học, tôi rất đam mê, tâm huyết về nội dung này. Trong phạm vi sáng kiến
của mình, tôi mong muốn, mạnh dạn được trình bày một số biện pháp đã thực hiện
có hiệu quả ở lớp bản thân đã và đang giảng dạy và áp dụng tại đơn vị trong việc
dạy học phân hóa đối tượng trong môn Tiếng Việt 4 theo mô hình trường học mới.

Sáng kiến đã mở rộng và đi sâu nghiên cứu các phương pháp dạy học phân hóa đối
tượng trong môn Tiếng việt 4 theo mô hình trường học mới với các quy trình khác
nhau như: Đánh giá, phân loại trình độ, năng lực học tập của học sinh. Xây dựng kế
hoạch, nội dung và lựa chọn hình thức, phương pháp dạy học cho phù hợp với từng
nhóm đối tượng hoặc từng đối tượng đặc biệt. Tổ chức triển khai thực hiện. Kiểm
tra, đánh giá và điều chỉnh, hoàn thiện. Giúp giáo viên chủ động trong từng tiết
dạy; giúp học sinh tiếp cận kiến thức một cách chủ động, tích cực, đặc biệt là học
sinh học đúng năng lực, trình dộ của mình. Sáng kiến hướng tới việc dạy học phát
triển các năng lực cho học sinh, đặc biệt là năng lực Tiếng Việt.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. THỰC TRẠNG
2.1.1. Thuận lợi:
Bản thân tôi đã nhận thức đầy đủ việc đổi mới dạy học và dạy học theo quan
điểm “Dạy học phân hóa” - dạy theo tiến độ học tập của học sinh là tất yếu khách
quan, là việc làm cấp thiết.
Việc quản lý chương trình dạy học ở trường được thực hiện nghiêm túc, có
các biện pháp kiểm tra thường xuyên. Hầu hết các giáo viên đều thực hiện đúng
tiến độ, bám sát phân phối chương trình.
2


Nhà trường luôn tạo điều kiện cho công tác dạy và học, giáo viên đầy đủ
sách giáo khoa, sách hướng dẫn học và được học về sử dụng các phương tiện dạy
học hiện đại. Đội ngũ có nhiều giáo viên yêu nghề, có năng lực sư phạm, có vốn từ
phong phú.
Ngay từ đầu năm học chuyên môn đã đề ra kế hoạch dạy học phù hợp với
thực tế của nhà trường, tổ chức thực hiện kế hoạch tương đối hợp lý, khoa học. Chú
ý coi trọng việc phân công giảng dạy cho giáo viên trên cơ sở năng lực, hoàn cảnh,
nguyện vọng, phù hợp với nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Hàng năm đều tổ
chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên như: việc thực hiện chương

trình, tiêu chuẩn đánh giá giờ lên lớp, đổi mới phương pháp dạy học... Việc dự giờ
thăm lớp, rút kinh nghiệm sau tiết dạy, đánh giá kết quả bài dạy theo quan điểm
phân hóa đã được tổ chức.
Tổ chuyên môn đã phát huy hết vai trò trong việc quản lý hoạt động giảng
dạy của giáo viên. Dự giờ thống nhất nội dung bài giảng theo quan điểm phân hóa,
xây dựng tiêu chí thi đua ngay từ đầu năm học.
Ban đại diện cha mẹ học sinh đã tích cực phối hợp với nhau tạo sự gắn kết
trong công tác giáo dục.
2.1.2. Khó khăn:
Về phía giáo viên:
Trong dạy học phân hóa còn lúng túng, chưa bao quát hết học sinh. Việc
kiểm soát tiến độ học tập từng em, từng nhóm trong từng bài, từng hoạt động còn
gặp khó khăn. Bản thân đôi lúc còn bối rối, chưa tự tin trong việc thiết kế các tiết
dạy theo kiểu phân hóa cho từng đối tượng học sinh. Nếu quan tâm nhiều đến học
sinh chậm tiến không có thời gian định hướng cho học sinh năng khiếu phát huy
năng lực của bản thân vô tình tạo cho các em sự nhàm chán.
Giờ học Tiếng Việt còn diễn ra theo tiến độ chưa đảm bảo. Chưa chú trọng
điều chỉnh một cách hợp lí nhất để phù hợp với đối tượng học sinh. Giáo viên chưa
thực sự chú trọng phát triển các năng lực, đặc biệt là năng lực Tiếng Việt cho học
sinh.
Nhiều tiết dạy, giáo viên chưa đủ khả năng tổ chức nhằm truyền tải đến học
sinh những kiến thức sâu, rộng của từng bài học.
Cách dạy của nhiều giáo viên trong môn Tiếng Việt còn đơn điệu, lệ thuộc
một cách máy móc vào sách giáo viên, nhiều khi ít sáng tạo, chưa đổi mới phương
pháp dạy học theo mô hình trường học mới, nhiều hoạt động còn nói nhiều, làm
thay học sinh dẫn đến các em chiếm lĩnh kiến thức ít, vận dụng kiến thức vào bài
chưa cao.
Bên cạnh đó giáo viên sử dụng các hình thức dạy học chưa linh hoạt, giờ học
còn khô khan chưa gây hứng thú cho học sinh. Trên hết là việc dạy học theo đối
3



tượng học sinh chưa được rõ nét, kiến thức nào cũng dành cho tất cả học sinh nên
gặp phải khó khăn trong quá trình tiếp nhận kiến thức ở các em.…
Việc ra đề kiểm khảo sát chưa thực sự đáp ứng đánh giá các mức độ nhận
thức của học sinh.
Về phía học sinh:
Mặc dù việc đổi mới phương pháp đã được chú trọng triển khai nhưng hiệu
quả và kết quả đạt được sau mỗi tiết Tiếng Việt chưa cao. Mỗi một chủ điểm, mỗi
một bài học các em khắc sâu lại được rất ít nội dung. Việc phân hóa đối tượng học
sinh và vận dụng vào thực tiễn dạy học còn hạn chế và lúng túng.
Học sinh ít hứng thú học môn Tiếng Việt. Một số bài học còn trừu tượng,
khó hiểu, ít gần gũi và quen thuộc với các em. Học sinh trong giờ học còn trầm,
chưa hăng say phát biểu xây dựng bài, nhiều em còn thụ động; một số em chưa
thực sự chủ động trong học tập. Điều này gây tâm lý mệt mỏi, ngại học môn Tiếng
Việt. Các em còn nhiều hạn chế về năng lực giao tiếp, thiếu mạnh dạn tự tin, còn
rụt rè khi bày tỏ ý kiến...
Một phần do học sinh có nhiều đối tượng khác nhau nên mức độ chú ý bài
học cũng khác nhau.
Về phía phụ huynh :
Một số bộ phận phụ huynh chưa quan tâm thích đáng đến việc học của con
em, chưa coi trọng sự tiến bộ của các em (dù là nhỏ nhất); nhiều phụ huynh vẫn
còn tư tưởng so sánh sức học của con mình với bạn, mang nặng về thành tích.
Xuất phát từ thực trạng đó tôi đã tìm nhiều biện pháp để nâng cao hiệu quả
dạy học phân hóa đối tượng trong môn Tiếng Việt lớp 4. Qua các năm thực hiện, tôi
đã gặt hái được những thành công đáng phấn khởi. Trong khuôn khổ sáng kiến kinh
nghiệm, tôi xin đưa ra một số biện pháp mà bản thân thực sự tâm đắc.
2.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC PHÂN HÓA
2.2.1. Điều tra, nắm tình hình, phân hóa đối tượng học sinh.
Dạy học phân hóa là dựa vào đặc điểm riêng biệt trong học tập của học sinh

về phong cách học tập, năng lực học tập, nhu cầu, hứng thú, động cơ học tập, định
hướng giá trị, đặc điểm văn hóa cá nhân. Dựa vào đó để giáo viên lựa chọn mục
tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện… dạy học thích hợp với từng
nhóm đối tượng.
Xác định điều này, cho nên tôi đầu tư cho biện pháp đầu tiên là phân loại đối
tượng, năng lực học sinh.
Trước hết, tôi đã rà soát các năng lực thông qua biên bản bàn giao lớp chủ
nhiệm cùng với các bài kiểm tra của học sinh trong năm học trước để phân hóa đối
tượng.
Khi nhận lớp, tôi đã khảo sát chất lượng và kết quả đó là:
4


Số
Lớp

4B

học sinh
đánh giá
25

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn
thành

Số

lượng

Tỉ lệ %

Số
lượng

Tỉ lệ %

Số
lượng

Tỉ lệ %

5

20

15

60

5

20

Song song với các việc làm trên, tôi đã thực hiện phân loại đặc điểm về
phong cách học tập của học sinh. Bởi lẽ tôi thiết nghĩ, giảng dạy dựa trên phong
cách học tập chính là nhận định đúng khí chất của học sinh (hăng hái, bình thản,
nóng nãy, ưu tư), phân loại đặc điểm trí tuệ nổi bật của học sinh gồm ngôn ngữ,

logic - toán học, không gian, hình thể - động năng, âm nhạc, giao tiếp, nội tâm và
tự nhiên học.
Dù biết chắc rằng xây dựng môi trường dạy học dựa vào phong cách học tập
phát huy được thế mạnh của từng học sinh nhưng đây không phải là công việc dễ
dàng. Do đó tôi đã dùng các phiếu hỏi, bảng kiểm và cả sự quan sát, đánh giá việc
học tập cũng như vui chơi, sinh hoạt của các em để phân loại được học sinh.
Bên cạnh đó, tôi phân loại nhịp độ nhận thức trong học tập từng môn cụ thể của
mỗi học sinh nhanh chậm khác nhau ở từng lĩnh vực trí tuệ.
Khi được phân công giảng dạy, tôi có cơ hội gần các em, tôi đã phải ghi chú
nhịp độ này ở từng học sinh, phân thành từng nhóm nhanh chậm khác nhau để có
thực hiện quá trình dạy học cho vừa sức từng nhóm, tránh tình trạng những học
sinh nhịp độ tiếp nhận nhanh phải chờ đợi, học sinh chậm cảm thấy giáo viên lướt
nhanh vấn đề.
Phân loại năng lực học tập từng môn của học sinh nói chung và môn Tiếng
Việt nói riêng là cách phổ biến nhất trong rà soát đầu vào mà tôi đã và đang thực
hiện. Tôi chia lớp thành ba nhóm: giỏi, khá - trung bình - yếu kém. (Không thông
báo đến học sinh - đây là công cụ giúp tôi trong quá trình dạy học). Dựa vào kết
quả phân loại này tôi mới đầu tư xây dựng mục tiêu chung và riêng cho lớp học, lựa
chọn nội dung, phương pháp, hình thức (bồi dưỡng, phụ đạo) cho từng nhóm.
Không những thế tôi phải phân loại học sinh trên cơ sở đánh giá nhu cầu, hứng thú,
động cơ học tập, thậm chí ở cả đặc điểm văn hóa, tôn giáo, môi trường sống…của
học sinh.
Việc phân hóa đối tượng đã góp phần giúp tôi thành công trong dạy học phân
hóa đối tượng học sinh.
2.2.2. Phân bậc nhiệm vụ trong thiết kế kế hoạch bài dạy
5


Phân bậc nhiệm vụ học tập đối với nội dung mang tính lí thuyết: Kĩ thuật cơ
bản cho việc thiết kế này là chia nhỏ nội dung học tập ra thành nhiều nhiệm vụ.

Học sinh năng khiếu sẽ thực hiện nhiệm vụ khó hơn, nhiều nhiệm vụ hơn hoặc
thực hiện không có sự hướng dẫn. Học sinh chậm tiến sẽ thực hiện ít nhiệm vụ,
đơn giản hơn hoặc được những chỉ dẫn, hỗ trợ nhiều hơn.
Ví dụ: Một số điều chỉnh bổ sung để phân bậc nhiệm vụ trong thiết kế Kế
hoạch dạy học:
Bài 8B: ƯỚC MƠ GIẢN DỊ (Tiết 1)
Mục tiêu: Bổ sung:
Học sinh chậm tiến: Đọc đúng được bài văn “Đôi giày ba ta màu xanh”, ngắt
nghỉ hơi đúng sau các dấu câu.
Học sinh năng khiếu: Đọc diễn cảm dược một đoạn trong bài. Ngắt nghỉ hơi
đúng sau các dấu câu, giữa các cụm từ; nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả, gợi cảm.
Các hoạt động dạy học:
Hoạt động cơ bản:
Hoạt động 1: ( Theo tài liệu )
Đánh giá:
Trả lời đúng nội dung tranh: Cậu bé đeo đôi giày và những người trong
tranh đều rất vui vì: Cậu được tặng một món quà nên rất vui và mọi người cũng
vui theo.( Học sinh toàn lớp)
Mở rộng đối với học sinh năng khiếu: Mọi người chứng kiến cảnh vui sướng
khi cậu bé nghèo lang thang đã có được đôi giày mà mình ao ước bấy lâu.
Hoạt động 2: Luyện đọc ( Theo tài liệu )
Đánh giá:
Đọc to, rõ ràng, trôi chảy toàn bài, ngắt nghỉ đúng sau các dấu câu:
“Tôi tưởng tượng / nếu mang nó vào / chắc bước đi sẽ nhẹ và nhanh hơn, /…
(Học sinh chậm tiến)
Nhấn giọng ở các từ miêu tả vẻ đẹp của đôi giày: đẹp làm sao, ôm sát
chân... (Đối với học sinh năng khiếu)
Đọc toàn bài với giọng chậm rãi, nhẹ nhàng…
Lắng nghe tích cực, sửa sai cho bạn.
Hoạt động 3: Tìm hiểu bài ( Theo tài liệu)

Đánh giá:
Tham gia tích cực, thảo luận cùng bạn để tìm ra các câu trả lời.
Trả lời to, rõ ràng, lưu loát, mạnh dạn.
Đối với học sinh chậm tiến: trả lời đúng nội dung câu hỏi 1,3; học sinh năng
khiếu trả lời đúng nội dung câu hỏi 2,4 và câu hỏi bổ sung.
Câu 1: Cổ giày ôm sát chân, thân giày làm bằng vải cứng, dáng thon thả.
6


Câu 2: Chị thưởng cho Lái đôi giày ba ta màu xanh trong buổi đầu cậu đến
lớp.
Câu 3: Đáp án d
Câu 4: Đáp án a
Câu hỏi bổ sung đối với học sinh năng khiếu:
Bài văn có nội dung gì?
Đánh giá:
Nêu đúng nội dung bài văn: Chị phụ trách Đội có tấm lòng nhân hậu, hiểu trẻ em
nên đã vận động được cậu bé lang thang đi học, làm cậu rất xúc động, vui sướng vì
được tặng đôi giày mơ ước trong buổi đầu đến lớp.
Hoạt động ứng dụng:
Câu 1: Đọc cho người thân nghe bài văn “ Đôi giày ba ta màu xanh” (Học sinh
chậm tiến)
Câu 2: Trao đổi với người thân về ước mơ của nhân vật trong một truyện mà em
thích. (Học sinh năng khiếu)
Đánh giá:
Câu 1: Đọc đúng bài văn
Câu 2: Biết kể lại câu chuyện mình thích và nói về mơ ước của nhân vật vừa
kể.
Hợp tác tích cực với người thân.
Xây dựng kế hoạch dạy học cụ thể, dự kiến các hoạt động, các bài tập phù

hợp với năng lực, điều kiện thực tế sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Việc
làm này sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; hình thành và
phát triển khả năng tự học cho học sinh; đảm bảo tính phù hợp với đối tượng giáo
dục và đặc điểm vùng, miền; đảm bảo tính trực quan; thực hiện dạy học tích hợp
nhằm khơi dậy hứng thú học tập cho các em.
2.2.3. Tổ chức dạy học phân hóa theo các năng lực:
Sự giống và khác nhau về trình độ phát triển nhân cách của mỗi cá thể học
sinh đòi hỏi một quá trình dạy học thống nhất với những biện pháp phân hóa nội
tại. Nhiệm vụ của giáo viên là nghiên cứu tìm hiểu những mặt mạnh và yếu trong
năng lực, trình độ phát triển của học sinh để có biện pháp cụ thể tác động đến đối
tượng. Có như vậy mới giúp cho tất cả học sinh đều tiếp thu được những kiến thức
và kĩ năng tối thiểu. Đồng thời phát hiện và đào tạo nhân tài ngay từ trong lớp của
mình.
Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học. Bồi
dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và
ý chí vươn lên.
a) Tổ chức phân hoá dạy học theo năng lực chung.
7


Các năng lực chung mà tôi hướng tới để hình thành và phát triển ở các em đó
là nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân (năng lực tự học, năng lực giải
quyết vấn đề, năng lực tư duy, năng lực tự quản lí); nhóm năng lực về quan hệ xã
hội (năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác) và nhóm năng lực công cụ (năng lực sử
dụng công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực sử dụng ngôn ngữ).
Tôi luôn xác định: hiệu quả giao tiếp phụ thuộc vào năng lực Tiếng Việt. Vì
thế muốn hình thành và phát triển năng lực giao tiếp tôi đã chú ý nhiều đến sự hình
thành và phát triển năng lực Tiếng Việt. Mặt khác, việc hình thành và phát triển
năng lực Tiếng Việt không thể thực hiện được nếu đặt Tiếng Việt ngoài tư cách là
phương tiện giao tiếp. Nói cách khác, muốn hình thành và phát triển năng lực Tiếng

Việt phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với năng lực giao tiếp.
Việc tổ chức phân hoá dạy học theo năng lực chung có thể căn cứ vào kết quả
học tập của năm học trước mà nhà trường phân học sinh thành các đối tượng có
cùng sức học. Trong môn Tiếng Việt, học sinh tiếp cận nhiều kiến thức, nhiều chủ
điểm và nội dung mới nên sự phân hóa đòi hỏi phải được thể hiện rõ. Tổ chức phân
hoá dạy học theo năng lực chung kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học phát
hiện và giải quyết vấn đề, tình huống…nhằm mục đích giúp học sinh tiếp thu tốt
các kiến thức. Các phương pháp này có ưu điểm là tạo ra tình huống gợi vấn đề,
điều khiển học sinh hoạt động tự đánh giá, tích cực chủ động và sáng tạo. Để thu
hút tất cả các đối tượng học sinh trong lớp tham gia tìm hiểu nội dung bài học.
Tôi đã chú trọng rèn cho các em về cách nghe hiểu trong giao tiếp thông
thường và các chủ đề quen thuộc; nói rõ ràng và mạch lạc, kể các câu chuyện ngắn,
đơn giản; đọc lưu loát và đúng ngữ điệu, đọc hiểu bài đọc ngắn; viết được bài văn
ngắn về các chủ đề quen thuộc, điền được thông tin vào các mẫu văn bản đơn giản.
Không những thế, tôi luôn rèn cho các em về cách phát âm đúng các từ; hiểu
những từ thông dụng và có số lượng từ vựng cần thiết cho giao tiếp hàng ngày; biết
sử dụng các loại câu giao tiếp chủ yếu như câu trần thuật, câu hỏi, câu mệnh lệnh,
câu khẳng định, câu phủ định, các câu đơn, câu phức trong trường hợp cần thiết.
b) Phân hoá dạy học theo năng lực riêng.
Việc tổ chức dạy học phân hóa theo năng lực riêng là sự tập hợp học sinh có
cùng năng lực về một số phân môn.
Nhóm cùng có năng lực về phân môn luyện từ và câu.
Nhóm cùng có năng lực về phân môn tập làm văn.
Nhóm cùng có năng lực về phân môn tập đọc, chính tả.
Hiện nay chúng ta còn có khó khăn lớn là: thiếu công cụ, phương pháp khách
quan để đánh giá chính xác năng lực của từng học sinh. Vì vậy, khi tiến hành phân
hóa dạy học theo đối tượng cần thực hiện hết sức thận trọng và dân chủ.
8



Trong quá trình dạy học theo năng lực riêng của từng học sinh, từng nhóm
học sinh, bản thân tôi đã tập trung vào việc dạy học theo tiến độ. Việc dạy học theo
tiến độ thường tập trung vào 4 bước:
Bước 1: Học sinh làm bài theo năng lực của từng cá nhân. (Thể hiện theo 4
mức độ).
Bước 2: Sản phẩm bài làm của học sinh được lưu lại.
Bước 3: Học sinh rèn luyện việc nhận dạng, áp dụng các kiến thức. (100 %
học sinh phải hoàn thành).
Bước 4: Tiếp tục làm các bài tập với mức độ khó dần lên phù hợp với khả
năng.
Tùy vào từng hoạt động, tôi có thể giao bài tập áp dụng cho cả lớp, cho từng
cá nhân, hoặc theo nhóm, theo cặp đôi, theo bàn, theo tổ học sinh.
Ví dụ: Hoạt động 3 của Bài 34A: Tiếng cười là liều thuốc bổ (Tiết 2).
Phân môn luyện từ và câu: Mở rộng vốn từ: Lạc quan - Yêu đời. Lớp tôi có 7
nhóm, trong mỗi nhóm tôi chia mỗi đối tượng làm hai câu. Học sinh chậm tiến
(gồm học sinh chậm tiến và cần cố gắng) làm câu a,b. Học sinh năng khiếu (trong
đó có học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt) làm câu c,d.
Hoặc: Bài 15C - Quan sát đồ vật (Tiết 1). Ở hoạt động cơ bản 1, để học
sinh hiểu rõ cách quan sát đồ vật trước hết tôi phải chuẩn bị một số vật thật để học
sinh quan sát rõ hơn, từ đó học sinh sẽ dễ dàng hơn khi làm bài miêu tả đồ vật. Tiếp
theo, tôi sử dụng hệ thống câu hỏi ngoài câu hỏi ở tài liệu hướng dẫn học để giúp
các em hình dung kĩ hơn việc miêu tả một đồ vật như: Khi quan sát đồ vật cần chú
ý những gì? Để quan sát đồ vật tốt nhất chúng ta phải sử dụng những giác quan
nào? Cuối cùng để giúp học sinh hiểu sâu sắc và ghi nhớ tốt hơn, đồng thời giúp
bản thân có cơ sở để đánh giá học sinh hiểu được bao nhiêu phần trăm nội dung bài
học, tôi cho từng đối tượng học sinh nói lên kết quả đạt được sau hoạt động. Học
sinh năng khiếu sẽ mô tả đồ vật một cách đa dạng hơn, phức tạp và sinh động hơn.
Còn với học sinh chậm tiến, chỉ yêu cầu các em nêu được đồ vật muốn miêu tả, các
đặc điểm chi tiết bề ngoài của đồ vật đó và nói thêm một số đặc điểm riêng của đồ
vặt đó so với các đồ vật khác.

Ví dụ: Ở bài 25A - Bảo vệ lẽ phải (Tài liệu HDH Tiếng Việt Lớp 4 - Tập
hai - Trang 76)
Trong hoạt động 7: Học sinh cả lớp làm việc theo yêu cầu của tài liệu: Sau
khi đọc yêu cầu, với học sinh chậm tiến tôi yêu cầu các em trả lời được câu hỏi thứ
nhất: Tìm những câu thuộc kiểu câu Ai là gì?
Cũng trong hoạt động này, đối với học sinh năng khiếu, sau khi các em đã
hoàn thành yêu cầu trong tài liệu, các em sẽ chỉ thêm cho các bạn trong nhóm biết
9


xác định chủ ngữ trong mỗi câu vừa tìm được và thảo luận thêm chủ ngữ trong các
câu trên có ý nghĩa gì?
Với cách làm này học sinh luôn cảm thấy thoải mái, không căng thẳng, tạo
cho các em phát huy được năng lực học tập của chính bản thân mình.
2.2.4. Thực hiện dạy học theo tiến độ trong giờ học nhằm phân hóa đối
tượng học sinh.
Trong dạy học, tôi tuyệt đối không để học sinh làm bài xong đợi bạn để chữa
bài.
Nhóm trưởng bao quát để biết dừng lại ở từng thời điểm chữa bài trong nhóm
và kiểm soát được kết quả của các thành viên. (2/3 số thành viên làm xong thì chữa
bài; tất cả cùng chuyển sang làm bài khác... đến lúc có bạn không tiếp tục làm đến
bài khó hơn (Mức 3,4) sẽ quay lại bài trước để làm... Không yêu cầu tất cả học sinh
đều làm số lượng bài giống nhau.
Để học sinh không ngồi chơi trong các hoạt động, khi hoạt động cá nhân xong,
bạn bên cạnh chưa xong, học sinh có thể làm các bài tiếp theo hoặc giúp đỡ các bạn
khác đến khi bạn bên cạnh làm xong, cùng trao đổi cặp đôi.
Khi trao đổi cặp đôi xong, thấy cặp trong nhóm chưa xong, học sinh làm tiếp
các bài tập tiếp theo đến khi các cặp trong nhóm chia sẻ xong, nhóm trưởng cho
trao đổi các cặp trong nhóm.
Trong tiết học, nếu học sinh làm nhanh hơn so với tiến độ chung cả lớp, tôi

hướng dẫn để các em có thói quen tự các em đi lấy bài tập góc hoặc tài liệu tham
khảo ở góc học tập môn học để làm tiếp.
Bài tập góc có thể chia theo các mức độ khác nhau, bài tập dành cho học sinh
giỏi, bài tập dùng cho học sinh khá (các mức độ khác nhau ghi ở các màu giấy khác
nhau để học sinh phân biệt). Bài tập góc chủ yếu để dành cho cá nhân. Nếu bài học
dễ, đa số học sinh hoàn thành sớm nội dung tiết học thì tôi giao thêm bài tập ở phần
hoạt động thực hành hoặc thêm nội dung kiến thức cho tất cả lớp. Đối với nội dung
hoạt động ứng dụng và những bài giáo viên giao cho học sinh về nhà làm bài, giáo
viên có thể giao cho hội đồng tự quản kiểm tra, chữa bài ở phần truy bài đầu giờ.
Trước khi vào tiết học đầu tiên, hội đồng tự quản báo cáo cô giáo, hạn chế việc
kiểm tra bài tập trong tiết học (trừ những kiến thức có liên quan đến bài mới).
2.2.5. Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra để đánh giá, chuẩn đoán, phân
loại đối tượng học sinh theo trình độ.
Thứ nhất: Kết hợp kiểm tra định kì, kiểm tra thường xuyên và quan sát lớp
học đòi hỏi người giáo viên phải thận trọng khi đưa ra kết luận một học sinh nào đó
thuộc nhóm trình độ nào. Do vậy, cần phải kết hợp nhiều hình thức kiểm tra trong
dạy học để có kết quả khách quan và chính xác. Ngoài việc kiểm tra định kì và
kiểm tra thường xuyên, tôi còn có sổ tay ghi chép kết quả quan sát, theo dõi hàng
10


ngày, trong đó lưu ý đến những trường hợp đặc biệt, hoặc quá xuất sắc hoặc quá
yếu để tiến hành dạy học phân hóa phù hợp.
Thứ hai: Kết hợp kiểm tra độ khó và độ nhanh, tăng cường cho học sinh tự
đánh giá. Bản thân đã thiết kế đề kiểm tra kết hợp độ khó và độ nhanh, tức là tăng
số lượng bài tập trong mỗi lần kiểm tra, kết quả đánh giá không theo thang điểm 10
mà là giáo viên ghi nhận trong cùng một khoảng thời gian đó, học sinh làm đúng
được bao nhiêu bài. Cách làm này khuyến khích học sinh phát huy hết khả năng
của mình đồng thời có thể tự đánh giá khả năng của mình so với các bạn.
Ví dụ: Ở bài 3C: Nhân hậu – Đoàn kết (Tiết 2), hoạt động thực hành 3 yêu

cầu học sinh viết một bức thư gửi một bạn ở trường khác để hỏi thăm và kể cho bạn
nghe tình hình lớp và trường em hiện nay. Khi quan sát các nhóm làm việc, tôi thấy
có học sinh rất lúng túng, sau 15 phút nhưng em chưa viết được một câu nào. Điều
ngạc nhiên là em đó không phải đối tượng học sinh chậm tiến. Sau khi tìm hiểu
nguyên nhân tôi mới biết em đó không có bạn bè ở trường khác để viết thư thăm
hỏi. Vấn đề đặt ra là cần dựa vào độ khó dễ của yêu cầu mà giao cho từng đối
tượng học sinh. Phải nắm rõ yêu cầu, nắm rõ từng đối tượng học sinh để hướng dẫn
cho các em. Tôi đã giải quyết tình huống bằng cách gợi ý cho em biết được em nên
tưởng tượng ra mình có một người bạn ở trường khác để viết thư.
Trong kiểm tra, để đánh giá học sinh theo đối tượng, tôi đã thực hiện có hiệu
quả ngay từ khâu ra đề (ma trận, đề kiểm tra). Các đề kiểm tra đã đánh giá được
thực chất năng lực học của học sinh để từ đó, tôi tiếp tục bồi dưỡng, phụ đạo thêm
cho các em những gì mà các em cần.
Trong ra đề tôi đã chú trọng đến 4 mức độ theo thông tư 22/ BGD & ĐT:
Mức 1: Học sinh nhận biết sau đó nhắc lại được kiến thức, kĩ năng đã học.
Mức 2: Học sinh hiểu kiến thức, kĩ năng đã học, trình bày, giải thích được
kiến thức theo cách hiểu của cá nhân.
Mức 3: Học sinh biết vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết những
vấn đề quen thuộc, tương tự trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Mức 4: Học sinh vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết vấn
đề mới hoặc đưa ra những phản hồi hợp lí trong học tập, cuộc sống một cách linh
hoạt. (Vận dụng nâng cao)
2.2.6. Linh hoạt trong tổ chức hoạt động nhóm khi dạy học phân hóa.
Tùy theo mục tiêu dạy học, việc chia nhóm có thể theo nhiều cách: Nhóm
đôi, nhóm ngẫu nhiên, nhóm hỗn hợp và nhóm phân theo trình độ. Trong dạy học
phân hóa, nhóm hỗn hợp được sử dụng khi nhiệm vụ của các nhóm là như nhau,
với mục đích là học sinh năng khiếu sẽ giúp đỡ học sinh chậm tiến. Nhóm theo
trình độ được sử dụng khi mức độ yêu cầu của nhiệm vụ từng nhóm khác nhau, như
11



ví dụ nêu ở trên hoặc trong thực hành giải bài tập để mỗi nhóm được yêu cầu làm
những bài tập với độ khó khác nhau.
Giáo viên có thể định ra yêu cầu khác nhau về mức độ hoạt động độc lập của
học sinh, hướng dẫn nhiều hơn cho đối tượng chậm tiến, ít hoặc không gợi ý cho
học sinh năng khiếu.
Bên cạnh đó, giáo viên cần quan tâm cá biệt: Động viên học sinh nào đó có
phần thiếu tự tin, lưu ý học sinh này hay nhầm dấu, nhắc nhở học sinh kia đừng chủ
quan, hấp tấp, cách trình bày bài,... Với cách làm này, người học được cuốn hút
tham gia vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó
các em tự lực khám phá, tìm tòi kiến thức không thụ động trông chờ vào việc
truyền thụ của giáo viên. Người học được hoạt động, được trực tiếp quan sát, thảo
luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề, vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống
theo khả năng nhận thức, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân.
Ví dụ: Đối với phân môn Tập đọc. Khi các nhóm đều làm chung một hoạt
động là đọc và giải nghĩa các từ cho sẵn trong tài liệu hướng dẫn học thì nhóm hoặc
cá nhân trong nhóm có nhịp độ làm việc nhanh, hoàn thành tốt yêu cầu của hoạt
động đó thì tôi cho các em tìm thêm từ khó khác trong bài để giải nghĩa cho nhau
nghe hoặc tự chọn và đặt câu có hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa với một trong các
từ đó. Với học sinh chậm tiến, tôi cho các em nắm thật chắc kiến thức cơ bản trong
tài liệu hướng dẫn học, làm đầy đủ và đạt yêu cầu các hoạt động với sự gợi ý ở mức
độ hạn chế của giáo viên. Tôi thường xuyên theo dõi, nếu có dấu hiệu bất thường
thì điều chỉnh lại nhân sự trong nhóm khi có hiện tượng tiến bộ hay thụt lùi.
2.2.7. Vai trò của giáo viên trong tiết dạy phân hóa đối tượng học sinh
Nghiên cứu kĩ bài học, hiểu rõ quá trình hình thành kiến thức để tổ chức lớp
học. Dự đoán được các tình huống khó khăn mà học sinh dễ mắc phải trong quá
trình học tập và từ đó có những giải pháp hợp lí nhằm hỗ trợ học sinh kịp thời, dự
kiến ra thêm bài tập bổ sung.
Giáo viên là người tổ chức lớp học; quan sát hoạt động của mỗi cá nhân, của
mỗi nhóm; hỗ trợ học sinh khi cần thiết; chốt lại những điều cơ bản nhất của bài

học; đánh giá quá trình và kết quả học của học sinh.
Giáo viên nói ít, hướng dẫn nhiều; theo dõi, hướng dẫn hoạt động của mỗi
học sinh trong học tập. Trước khi đến các nhóm giáo viên phải quan sát (quan sát
có mục đích), theo dõi, thấy được khó khăn phải trao đổi, kiểm tra kết quả thực
hiện nhiệm vụ của học sinh, nhóm học sinh theo tiến trình dạy học. Vì thế giáo viên
phải di chuyển từ nhóm này sang nhóm khác khi cần thiết nhằm hỗ trợ kịp thời khi
các em có yêu cầu, đặt thêm câu hỏi cho các nhóm để học sâu hoặc giao thêm
việc... Bên cạnh đó, giáo viên đưa ra những đánh giá công tâm giúp học sinh tiến
12


bộ trong mọi hoạt động. Đồng thời phải đánh giá hiệu quả đạt được sau mỗi tiết dạy
để có biện pháp cụ thể khắc phục những tồn tại ở tiết học sau.
Trong các hoạt động, tuyệt đối giáo viên không lạm dụng vai trò của Chủ tịch
Hội đồng tự quản lớp hoặc các nhóm trưởng để “bớt việc” cho mình.
Khi đa số các nhóm giơ thẻ cứu trợ, giáo viên cho học sinh trao đổi chung
trước lớp, có thể bằng các cách: bằng những câu hỏi, giáo viên gợi mở, dẫn dắt để
học sinh giải quyết được nhiệm vụ của bài học; gọi học sinh đã giải quyết được
nhiệm vụ của bài học hướng dẫn các bạn trong lớp.
Mặt khác, lời nói của giáo viên trong dạy học hoặc giao tiếp với học sinh rất
có ý nghĩa vì đặc điểm tâm lí cơ bản của lứa tuổi này là vô tư và hồn nhiên, các em
đặt rất nhiều niềm tin vào giáo viên. Do vậy, giáo viên cần có kĩ thuật nói rõ ràng,
tốc độ vừa phải, dễ nghe, thân thiện nhưng nghiêm túc và luôn khuyến khích.
Không nên gay gắt hay nặng lời với những học sinh chậm tiến. Với mỗi trường
hợp, cần tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ phù hợp.
2.3. HIỆU QUẢ
Với những phương pháp dạy học phân hóa trên, tôi đã vận dụng ngày càng
nhuần nhuyễn, chủ động hơn trong công tác giảng dạy của mình. Nhờ vào kinh
nghiệm qua giảng dạy những lớp trước, tôi dự tính được các khó khăn mà học sinh
có thể, thường mắc phải. Từ đó, ngày càng bổ sung hơn các khiếm khuyết trong

quá trình dạy học và thu được kết quả kiểm tra chất lượng cuối năm học 2017 2018 như sau:
Số
Lớp học sinh
đánh giá
4B

25

Hoàn thành tốt
Số lượng
11

Hoàn thành

Tỉ lệ % Số lượng
44

14

Chưa hoàn thành

Tỉ lệ %

Số lượng

Tỉ lệ %

56

0


100

Nhờ vào việc dạy học phân hóa mà trong các hội thi cấp trường, cấp huyện
học sinh lớp tôi tham gia thi và đạt giải cao. Cụ thể:
Cấp Trường:
Giao lưu Ngày hội học sinh Tiểu học: 03 giải chữ viết đẹp (01 giải Nhất; 02
giải Nhì).
Kể chuyện về Bác Hồ: 01 giải nhất.
Em yêu Tiếng Việt: (Hình thức Rung chuông vàng): 1 giải Nhì; Tập thể xếp
thứ nhất trong khối 4.
Cấp Huyện: Có 01 em đạt bảng Nhản; 01 em đạt giải Ba Viết chữ đẹp (Trong
giao lưu học sinh Tiểu học).
13


Với các biện pháp trên tôi đã áp dụng vào việc dạy và thể hiện trong một số
tiết thao giảng, được các đồng nghiệp có kinh nghiệm đồng tình nhất trí cao.
Giáo viên chủ động, vận dụng linh hoạt các hình thức. Giờ học sôi nổi, học
sinh học tập tích cực tiếp thu kiến thức, nhiều học sinh thuộc đối tượng chậm tiến,
cần cố gắng đã có hứng thú hơn với môn học, phát huy được tính sáng tạo và năng
lực của các em.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến:
Qua quá trình thực hiện tại đơn vị, bản thân tôi nhận thấy rằng: Phân hoá đối
tượng trong dạy học Tiếng Việt 4 là con đường nâng cao chất lượng của quá trình
dạy học môn Tiếng Việt, nó mang lại hiệu quả to lớn trong giảng dạy một môn học.
Tuy nhiên để thực hiện nó không hề dễ dàng một chút nào. Việc làm này đòi hỏi
giáo viên phải mất công, mất sức nhiều hơn và phải có tâm huyết. Nhà trường phải
tỏ rõ quan điểm, phải bằng mọi cách lấp đầy những lỗ hổng kiến thức cho học sinh.

Những bài học ý nghĩa của phạm vi sáng kiến là:
1. Ưu tiên cho phân loại học sinh, xếp theo từng nhóm: nhóm kiến thức tương
đối hoàn chỉnh, nhóm hổng kiến thức nhiều và các năng lực môn Tiếng Việt. Phân
loại đối tượng học sinh trong lớp để có biện pháp giúp đỡ, động viên sự cố gắng
của các đối tượng.
2. Đầu tư về lập kế hoạch dạy học; bổ sung các kiến thức còn thiếu hụt của
học sinh. Xác định rõ mục tiêu của tiết dạy để chuẩn bị bài dạy một cách chu đáo
và đầy đủ các phương tiện dạy học phục vụ cho bài dạy. Ở mỗi bài dạy, giáo viên
phải xác định được: Bài dạy cần những gì? Dạy như thế nào? Để tiết dạy thật nhẹ
nhàng, tự nhiên và hiệu quả từ đó lựa chọn phương pháp và cách tổ chức các trò
chơi phù hợp với nội dung bài học, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh.
3. Cần đặt hiệu quả giáo dục thực chất lên hàng đầu, có như thế các giáo viên
của trường mới không nề hà trong việc bỏ thêm thời gian để phụ đạo học sinh.
Nhưng không vì thế mà người giáo viên được phép bỏ quên đối tượng học sinh
năng khiếu, những em đã nắm chắc kiến thức và sẵn sàng đón nhận những kiến
thức cao hơn.
4. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học từ
“dạy số đông”, áp đặt, nặng lý thuyết sang “dạy phân hóa” gợi mở, hợp tác trong
dạy và học, giảm lý thuyết, tăng thực hành.
5. Giáo viên phải tự trau dồi, tích lũy cho mình vốn kiến thức về Tiếng Việt.
Phải thực sự đổi mới quan điểm sư phạm, quan niệm về quan hệ thầy trò, về trách
nhiệm của giáo viên trong quá trình giáo dục.

14


6. Trách nhiệm của giáo viên là quyết định cho kết quả quá trình dạy học, giáo
viên phải đánh giá được từng học sinh về sở trường, sở đoản để có biện pháp giáo
dục phù hợp trong từng giờ dạy.
7. Coi trọng nguyên tắc dạy học vừa sức nhằm phát huy tiềm lực và năng

khiếu Tiếng Việt ở mỗi học sinh. Đẩy mạnh đánh giá kết quả học tập của học sinh
một cách khéo léo nhằm khích lệ học sinh học tập tiến bộ.
Tóm lại: Trong điều kiện lớp học thông thường học sinh không thể thỏa sức
phát triển tài năng. Sự phân hoá dạy học đặc biệt cần thiết để làm bộc lộ và phát
triển đầy đủ tư chất và năng lực của các em. Vì vậy việc vận dụng vào công tác dạy
học tuỳ thuộc rất lớn vào năng lực sư phạm và khả năng sáng tạo của mỗi giáo
viên.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
Đối với tổ chuyên môn: Tích cự dự giờ, tư vấn, hỗ trợ cho giáo viên và quan
tâm hơn nữa việc dạy học theo năng lực học sinh, dạy học theo tiến độ góp phần
đổi mới phương pháp dạy học.
Đối với nhà trường: Tăng cường tổ chức chuyên đề dạy học phân hóa đối
tượng học sinh trong môn Tiếng Việt 4 nói riêng và các môn học khác nói chung
theo mô hình trường học mới để giáo viên được học hỏi một cách cụ thể, sát thực,
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, hiệu quả trong quá trình dạy học.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng trong các năm giảng dạy, tuy
nhiên trong quá trình lên lớp còn nhiều điều cần phải sữa chữa, bổ sung, tôi kính
mong sự góp ý chân thành của các thầy giáo, cô giáo và tất cả các bạn đồng nghiệp
để bản Sáng kiến kinh nghiệm của tôi được vận dụng ngày càng có hiệu quả hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRÊN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

15