Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho

Từ trước tới nay khi tìm hiểu nghiên cứu tác phẩm Hàn Nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ người ta thường sử dụng bản của Lê Thước trong sách Thân thế và sự nghiệp của Uy Viễn tướng công in năm 1926 và in lại năm 1958(1). Ngoài ra, chúng tôi còn được biết thêm một dị bản mà năm 1943 cụ Hoàng Đức Thi đọc cho học trò của cụ chép để học (mà tôi được may mắn thụ giáo Cụ) trong đó có nhiều chữ nhiều câu khác biệt với bản của Lê Thước(2).

Toàn bộ bản Hoàng Đức Thi (HĐT) có tới 60 chỗ khác biệt với bản Lê Thước (LT). Để tiện cho bạn đọc theo dõi chúng tôi công bố cả 2 bản, đồng thời nêu một vài ý kiến nhận xét của cá nhân.

Sau đây là toàn văn bản HĐT, những chỗ in nghiêng là để so sánh với bản LT cùng số.

HÀN NHO PHONG VỊ PHÚ

(Bản Hoàng Đức Thi)

Ai mua cái khó, ai mua cái khó;

Mắt rẻ cũng đành, tốt lành chi nó.

Lục cực đem vào số,rành rành kinh huấn chẳng sai;

Vạn tội nó là đầu, ấy ấy ngạn ngôn thật có.

Kìa ai: bốn bức tường lau; ba gian nhà cỏ.

Trên kèo mọt trổ vẽ sao; trước cửa nhện chăng màn gió.

Phên tre ngăn nửa bếp nửa buồng;

Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.

Bên giường tre, dế dũi quanh co;

Góc tường đất, trùn ươm lố nhố.

Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô;

Hạt mưa xuyên hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó.

Trong cũi, lợn nằm cắn máng, đói chẳng buồn van;

Đầu giàn chuột đánhnhào niêu chán thôi lại bỏ.

Ngày ba bữa, phổ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no;

Đêm năm canh, yên giấc rệp khò khò, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.

Ấm chè góp lá bàng lá ổi, lạ mùi chát chát chua chua.

Miếng trầu chêm vỏ quạch vỏ sim, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.

Áo vải thô thưa rếch, lạnh làm mền,mực làm gối, nắng mưa thay đổi bấy
nhiêu thôi;

Khăn gai mốc mong manh, trải làm đệm, vận làm quần, nằm đắp, đứng che
chừng nấy đó.

Đỡ mồ hôi vài lá quạt mo;

Chống hơi đất một đôi guốc gỗ.

Miếng ăn sẵn cà non chuối sống, ngon quá là ngon;

Đồ tư cơ chạng nạng quoèo nèo của đâu nên của.

Đồ chuyên trà ấm đất sứt vòi;

Cuộc uống rượu be sành chắp cổ.

Vật cổ khí bức tranh treo bên bếp khói bay lấm láp nét thủy mạc mờ mờ;

Cửa tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhấm dấu thổ châu đo đỏ.

Cỗ bài lá ba đời cửa tướng, hàng văn hàng sách lờ mờ;

Bàn cờ mo, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật nhật chữ điền xiêu xó.

Lộc nhĩ điền khoai thái lưng sàng;

Phương tích cốc thóc dành đầy hũ.

Tiêu dụng lấy đâu, mà phao phỏng, đắn đo ba cọc ba đồng;

Mùa màng gặt hái được bao lăm, lặt lượm, một triêng một bó.

Mó lưng trông đã ngán chiều.

Nhiều miệng lấy chi cho đủ.

Đến bữa chưa sẵn bữa, con trẻ réo dường ong;

Qua kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ rây như ó.

Xoay nghề thuốc toan tìm phương đỡ đói, song tủ không có giao cầu cũng
không có lấy gì cho đáng mặt lương y;

Dọi thầy phù toan kiếm cách làm ăn, mà mõ cũng không, tiu cảnh cũng đều
không lấy chi được nổi danh pháp chủ.

Bói, "Dã hạc" toan nhờ lộc thánh, vỏ rùa kia đang kiếm chưa ra;

Huyệt chân long toan bán đất trời, tróc long nọ tìm đâu chẳng có.

Buôn bán toan theo phương thẳng đỏ, mà không cấy vậy gì ra nước, đành
chậm chân chạy chẳng nên lời.

Bạc cờ toan lẫn mắt con đen, mà khô lưng không lẽ cối chày muốn mở bát
dạm chưa ra thổ.

Gấp khúc lươn nên ít kẻ yêu vì;

Trương mắt ếch biết vào đâu mượn mọ.

Đến lúc niên chung nguyệt quí, biết lấy chi đồng nợ đồng công;

Gặp khi chân sẩy đường cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.

Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đà mỏi cẳng ngồi trì;

Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.

Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu;

Chị em e vất lấm vào lưng, trìa môi nhọn mỏ.

Láng giềng ít kẻ tới nhà;

Thân thích chẳng ai nhìn họ.

Mất việc toan giở nghề "cơ tắc", tủi con nhà mà hổ mặt anh em;

Túng đường nênquyết chí "cùng tư",sợ phép nước chẳng có gan sừng sỏ.

Dạy con cháu nói năng chuyện cũ, thường ngâm câu lạc đạo vong bần;

Gặp anh em bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú.

Tất do thiên, âu phận ấy là thường;

Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.

Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề;

Cần nghiệp nho khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông, chàng Vũ.

Nơi thành hạ, đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài Âm;

Chốn lý trung, xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương Võ.

Đói ai bằng Mãi Thần, Mông Chánh cũng có khi ngựa cưỡi dù che;

Giàu ai bằng Vương Khải, Thạch Sùng cũng có lúc tường xiêu quán đổ.

Nhưng nói thì nói vậy để mà chơi;chứ đói mãi đói hoài thì cũng khổ.

Hàn nho mà vội phụ, nọ kim ngọc mãn đường.

Nọ muôn chung ngàn tứ, gặp thời ra còn lắm lúc phong lưu;

Gẫm trong phong vị mấy người hay, cũng cầm kỳ thi tửu, cũng tuyết
nguyệt, phong, hoa, đành phận ấy hãy ngâm câu hàn tố.

(Đoạn sau này bản Lê Thước không có).

HÀN NHO PHONG VỊ PHÚ

(Bản Lê Thước)

Chém cha cái khó, chém cha cái khó;

Khôn khéo mấy ai, xấu xa một nó.

Lục cực bày hàng sáurành rành kinh huấn chẳng sai;

Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.

Kìa ai, bốn vách tường mo ba gian nhà cỏ;

Đầu kèo mọt tạc vẻ sao, trước cửa nhện giăng màn gió.

Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng;

Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.

Đầu giường tre, mối giũi quanh co;

Góc tường đất, trùn lên lố nhố.

Bóng nắng giọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô;

Hạt mưa xoi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó.

Trong cũi, lợn nằm gặmmáng, đói chẳng muuốn kêu;

Đầu giàn chuột lóckhua niêu, buồn thôi bỏ.

Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no;

Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cổng thường bỏ ngỏ.

Ấm chè góp lá bàng lá gối, pha mùi chát chát chua chua;

Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.

Áo vải thô năng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu;

Khăn lau giắt đỏ lòm, trải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.

Đỡ mồ hôi võng lác quạt mo;

Chống hơi đất dép da guốc gỗ.

Miếng ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon;

Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của.

Đồ chuyên trà ấm đất sứt vòi;

Cuộc uống rượu be sành chắp cổ.

Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách khói bay lem luốc, màuthủy mặc mờ mờ;

Cửa tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhấm dấu thổ châu đo đỏ.

Cỗ bài lá ba đời cửa tướng, hàng văn hàng sách lờ mờ;

Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.

Lộc nhĩ điền lúa chất đầy giường;

Phương tích cốc khoai vừa một giỏ.

Tiêu dụng lấy chi, mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng;

Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ, một triêng (gánh) một bó.

Mỏng lưng xem cũng không giàu.

Nhiều miệng lấy chi cho đủ.

Đến bữa chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong;

Qua kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó.

Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu "ý dã", thế nào cho
đáng giá lương y;

Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ (dũng như), phépchi được
nổi danh pháp chủ.

Quẻ, dã hạc toan nhờ lộc thánh, chút muối bỏ bể ta chẳng bõ bèn;

Huyệt chân - long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chưa chộ.

Buôn bán rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh mập mò
cho hàng chẳng có lời.

Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng làng lại giành nơi, hỏi gạn mãi dạm
không ra thổ.

Gấp khúc lươn nên ít kẻ yêu vì;

Trương mắt ếch biết vào đâu mượn mọ.

Đến lúc niên chung nguyệt quí, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công;

Gặp khi chân sẩy đường cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.

Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đà mỏi cẳng ngồi trì;

Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.

Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu;

Chị em e vất lấm vào lưng, trìa môi nhọn mỏ.

Láng giềng ít kẻ tới nhà;

Thân thích chẳng ai nhìn họ.

Mất việc toan trở nghề "cơ tắc", tủicon nhà mà hổ mặt anh em;

Túng đường mongquyết chí "cùng tư", e phép nước chửa nên gan sừng sỏ.

Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần;

Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú.

Tất do thiên, âu phận ấy là thường;

Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.

Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề;

Cần nghiệp nho khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông, chàng Võ.

Nơi thành hạ gieo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài Âm;

Chốn lý trung, xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương Võ.

Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chánh cũng có khi ngựa cưỡi dù che;

Giàu ai bằng Vương Khải, Thạch Sùng cũng có hội tường xiêu ngói đổ.

Mới biết: khó bởi tại giời; giàu là cái số.

Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền; cũng bất quá thủ tài chi lỗ.

(Hai câu này trong bản Hoàng Đức Thi không có). Rút trong Thơ văn Nguyễn Công Trứ đã dẫn, tr.79.

Chú thích:

(1) Lê Thước, Hoàng Ngọc Phách. Trương Chính: Thơ văn Nguyễn Công Trứ Nxb. Văn hóa, H. 1958, tr.79.

(2) Hoàng Đức Thi người Diễn Châu, Nghệ An, giáo viên môn Việt văn (mà hồi đó gọi là Annamite) trường Thuận An (khoảng 1939-1945), Tp. Vinh tỉnh Nghệ An./.