Đặc điểm học tập của học sinh THPT

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. ĐẶC ĐIỂM HỨNG THÚ ĐỐI VỚI CÁC MÔN HỌC  CỦA HỌC SINH THPT  Sinh viên: Đinh Thị Sao, Phùng Thị Sơn, Trịnh Thị Hồng Thúy  Lớp: QH­2009­ S  Sư  phạm Vật lý  Giảng  viên hướng dẫn: PGS.TS. Đinh Thị Kim Thoa 1. Lý do lựa chọn đề tài Các nhà tâm lí học nghiên cứu và chỉ  ra rằng hứng thú có một vai trò quan trọng trong  quá trình hoạt động của con người. Nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực vào  hoạt động đó. Khi được làm việc phù hợp với hứng thú dù phải khó khăn con người cũng vẫn  cảm thấy thoải mái và đạt được hiệu quả cao. Trong hoạt động học tập, hứng thú có vai trò   hết sức quan trọng, thực tế cho thấy hứng thú đối với các bộ  môn của học sinh tỉ  lệ  thuận   với kết quả học tập của các em.  Bàn về  thực trạng học tập của học sinh Trung học phổ  thông (THPT) hiện nay, bên  cạnh những học sinh vui thích, đam mê với việc học tập thì cũng có một bộ phận không nhỏ  các em không thích học, chán học, nguyên nhân là do mất hứng thú học tập. Tình trạng chán  học, không thích học do mất hứng thú học này đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập   của các em nói riêng và chất lượng giáo dục ở bậc THPT nói chung. Và đặc biết đối với lứa   tuổi THPT –lứa tuổi đang chuẩn bị bước vào bước ngoặt lớn nhất của cuộc đời là thi đại học   thì việc mất hứng thú học tập làm cho các em mất động lực học tập, điều này có có  ảnh   hưởng lớn tới tương lai của các em. Với tất cả những lí do trên chúng tôi lựa chọn   đề tài nghiên cứu khoa học “Hứng thú   học tập đối với các môn học của học sinh THPT”. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng hứng thú học tập của học sinh THPT đối với các môn học. Từ  đó, tìm ra mối quan hệ giữa hứng thú, động cơ, thái độ  học tập và kết quả  học tập của học   sinh THPT; góp phần xây dựng những phương pháp gây hứng thú học tập đối với các môn  học cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh THPT. 3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của đề tài ­ Đối tượng nghiên cứu: Đặc điểm hứng thú học tập đối với các môn học của học sinh   THPT. ­ Khách thể  nghiên cứu: Học sinh trong trường THPT chuyên   ở  Hà Nội và trường THPT  không chuyên ở Nam Định.
  2. ­ Phạm vi nghiên cứu: Học sinh trường THPT Phạm Văn Nghị (Yên Cường ­ Ý Yên ­ Nam   Định) và học sinh trường THPT Chuyên Khoa học Tự  Nhiên (182 Lương Thế  Vinh ­   Thanh Xuân ­ Hà Nội). 4. Khái niệm cơ bản 4.1. Khái niệm hứng thú và hứng thú học tập Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, nó có ý nghĩa đối với  cuộc sống và có khả năng mang lại khoái cảm trong quá trình hoạt động.  Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội dung hoạt động,  ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức,  tăng sức làm việc. [1] Từ  khái niệm về  hứng thú ta có thể  suy ra được định nghĩa của hứng thú học tập: hứng   thú học tập là thái độ  đặc biệt của chủ  thể  đối với đối tượng của hoạt động học tập, vì sự  cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống cá nhân. 4.2. Tầm quan trọng của hứng thú đối với các hoạt động sống và hoạt động học Sự hứng thú thể hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê của chủ  thể hoạt   động. Sự  hứng thú gắn liền với tình cảm của con người, nó là động cơ  thúc đẩy con người  tham gia tích cực vào hoạt động đó. Trong bất cứ công việc gì, nếu có hứng thú làm việc con   người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích   cực và sáng tạo hơn vào hành động đó. Ngược lại nếu không có hứng thú, dù là hành động gì   cũng sẽ  không đem lại kết quả  cao. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt động   học tập, khi không có hứng thú sẽ  làm mất đi động cơ  học, kết quả  học tập sẽ  không cao,   thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực[2]. 4.3. Khái niệm động cơ Trong tâm lý học có nhiều cách lý giải khác nhau về động cơ. ­ Theo thuyết phân tâm học: Động lực thúc đẩy hoạt động của con người là vô thức. Nguồn   gốc vô thức là những bản năng nguyên thủy mang tính sinh vật và nhấn mạnh vai trò của   các xung năng tính dục. ­ Theo thuyết hành vi: Đưa ra mô hình “kính thích ­ phản ứng”, coi kích thích là nguồn gốc   tạo ra phản ứng ­ là động cơ. ­ Theo J. Piaget: Động cơ là tất cả các yếu tố thúc đẩy cá thể hoạt động nhằm đáp ứng nhu  cầu và định hướng cho hoạt động đó. ­ Theo thuyết tâm lý hoạt động: Những đối tượng nào được phản ánh vào óc ta mà có tác  dụng thúc đẩy hoạt động, xác định phương hướng hoạt động để  thỏa mãn nhu cầu nhất   định thì được gọi là động cơ hoạt động. Một hoạt động của con người có thể  chịu sự chi phối của nhiều động cơ  khác nhau,   trong đó có những động cơ  chủ  đạo và những động cơ  thứ  yếu. Những động cơ  này nằm  trong những mối quan hệ  chặt chẽ  với nhau trong một hoàn cảnh hoạt động cụ  thể  tạo  thành một hệ thống gọi là hệ thống động cơ. Động cơ có thể được phân thành nhiều nhóm 
  3. theo các tiêu chí khác nhau là phân theo nhu cầu, phân ra động cơ  tự  nhiên và động cơ  cao   cấp, phân chia theo chức năng: động cơ tạo ý, động cơ kích thích… 4.4. Khái niệm động cơ học tập Khi con người có nhu cầu học tập, xác định được đối tượng cần đạt thì xuất hiện động   cơ học tập. Động cơ học tập được thể hiện ở đối tượng của hoạt động học, tức là những tri   thức, kỹ năng, kỹ xảo…mà giáo dục đem lại. Nghiên cứu về động cơ học tập, ta tìm thấy các lý luận nghiên cứu từ các nhà tâm lý học Nga   như L.I.Bozovik, A.N.Leonchiep, A.K.Markova…Nhiều nhà tâm lý học đều khẳng định: hoạt  động học tập của học sinh được thúc đẩy bởi nhiều động cơ. Các động cơ này tạo thành cấu   trúc xác định có thứ  bậc của các kích thích, trong đó có một số động cơ  là chủ  đạo, cơ  bản,   một số động cơ khác là phụ, là thứ yếu. Động cơ học tập của học sinh theo L.I.Bozovick có một số biểu hiện: trẻ học vì cái gì, cái gì   thúc đẩy trẻ học tập và tất cả  những kích thích đối với hoạt động học tập của các em. Theo  A.N.Leonchiev hiểu động cơ học tập của trẻ như là sự  định hướng của các em đối với việc   lĩnh hội tri thức, với việc dành điểm tốt và sự ngợi khen của cha mẹ, giáo viên… 5. Thực trạng động cơ học tập của học sinh THPT hiện nay ở một số trường 5.1. Tầm quan trọng của việc học đối với học sinh THPT Để  điều tra tầm quan trọng của việc học đối với học sinh THPT, chúng tôi đã đưa ra 2  câu hỏi: “Bạn có thích học không?” và “Theo bạn mức độ  quan trọng của việc học tập đối  với học sinh?” và thu được kết quả như sau:  Với câu hỏi “ Bạn có thích học không?” thu được 95 câu trả lời: Rất thích Thích Bình thường Không thích THPT Chuyên KHTN  10/44 14/44 20/44 0/44 THPT Phạm Văn Nghị 11/51 20/51 14/51 6/51 Tổng số 21/95 34/95 34/95 6/95 (22,11%) (35,79%) (35,79%) (6,31%) Nhận xét: Nhìn chung,  ở  cả  2 trường,  tỷ  lệ  học sinh thích học gấp khoảng 15 lần tỷ  lệ  học sinh   không thích học nhưng có sự  khác biệt giữa 2 trường. Ở trường THPT Chuyên KHTN, tổng  tỷ  lệ  học sinh rất thích, thích, thích học bình thường cao hơn THPT PVN, còn tỷ  lệ  không  thích học là 0% (không có học sinh nào chọn câu trả lời ấy), khác với THPT PVN, tỷ lệ không  thích học chiếm 11,76%. 5.2. Mục đích học tập của học sinh THPT Qua tìm hiểu mục đích và nguyên nhân thúc đẩy học tập của học sinh THPT dưới dạng   câu hỏi: “Mục đích học tập của bạn là gì?”, chúng tôi thu được 108 câu trả lời: Tiếp thu kiến  Làm vui lòng  Vì tương lai Để được kính  thức gia đình trọng, không muốn  thua kém ai THPT 12/55 2/55 38/55 3/55
  4. Chuyên KHTN THPT 8/53 4/53 37/53 4/53 Phạm Văn Nghị Tổng số 20/108 6/108 75/108 7/108 (18,52%) (5,56%) (69,44%) (6,48%) Nhận xét ­ Nhìn chung,  ở  cả  2 trường, mục đích học tập vì tương lai có tỷ  lệ  cao nhất, tỷ  lệ  mục đích làm vui lòng gia đình, được mọi người kính trọng, không thua kém ai thấp hơn. ­  Ở cả 2 trường THPT, tỷ lệ học sinh chọn mục đích học tập vì tương lai tương đối  bằng nhau, tỷ  lệ  mục đích học tập là làm vui lòng gia đình và được mọi người kính trọng,   không thua kém ai xấp xỷ bằng nhau, sai khác giữa 2 trường là không nhiều. Ở THPT Chuyên   KHTN, tỷ lệ mục đích học vì tiếp thu kiến thức cao hơn 6,73% so với trường THPT PVN. Qua đó chứng tỏ  thấy đa số  các em nhận thức được mục đích học tập chủ  yếu của   học sinh THPT hiện nay là để chuẩn bị cho tương lai của chính các em học để thi đỗ  ĐH, có   việc làm tốt, thỏa mãn ước muốn bản thân, để giúp đỡ gia đình…Ở trường THPT chuyên, tỷ  lệ  học sinh nhận thấy mục đích thực sự  của việc học là tiếp thu kiến thức cao hơn so với   trường THPT không chuyên.  5. 3. Những nguyên nhân khiến học sinh THPT chán, lười học và nguyên nhân thúc  đẩy các em học tốt hơn THPT  THPT Phạm  Tổng số Chuyên  Văn Nghị KHTN Do ham chơi 21/59 20/72 41/131 (31,3%) Do kết quả học tập 14/59 25/72 39/131 không như mong đợi (29,77%) Do cảm thấy các môn học 68/59 13/72 81/131 quá khó (16,03%) Do hoàn cảnh gia đình 3/59 6/72 9/131 tác động (6,87%)           Do môi trường xã hội 7/59 7/72 14/131 tác động (10,69%) Ý kiến khác 6/59 1/72 7/131 (5,34%) Nhận xét ­ Nhìn chung, nguyên nhân chủ yếu của sự chán, lười học của học sinh THPT  ở cả 2   trường là do ham chơi (31,3%), kết quả học tập không như mong đợi (29,77%), rồi đến lý do 
  5. cảm thấy môn học khó và hoàn cảnh tác động. Điều đó chứng tỏ: hiện tượng chán học, lười  học nhìn chung xuất phát từ chính bản thân các em (dễ bị lôi kéo, dụ dỗ; chưa quyết tâm, kiên  trì và chưa quan tâm thực sự đến học tập). ­ Tỷ  lệ  nguyên nhân do cảm thấy môn học quá khó, hoàn cảnh tác động  ở  2 trường  tương đối như  nhau, sai khác không nhiều. Tỷ  lệ  do ham chơi, kết quả  học tập không như  mong đợi  ở  2 trường sai khác nhiều (tỷ  lệ   ở  trường THPT chuyên cao hơn 7,81% đối với   nguyên nhân do ham chơi; trong khi đó, tỷ  lệ   ở trường THPT không chuyên cao hơn 10,99%   đối với nguyên nhân do kết quả học tập không như mong đợi). * Ngoài ra, rất nhiều học sinh THPT Chuyên KHTN đưa ra ý kiến khác về  nguyên  nhân gây chán, lười học. Dưới đây là thống kê số ý kiến khác: + Do không có khả năng đối với môn học. + Do gia đình, thầy cô đặt quá nhiều hy vọng tạo áp lực lớn cho học sinh. + Do không giữ được ý chí quyết tâm học tập. + Khó tập trung học tập do nhiều yếu tố bên ngoài tác động. + Do môn học không đủ sức hấp dẫn với học sinh…  Với câu hỏi “Những nguyên nhân thúc đẩy bạn học tốt hơn”, chúng tôi thu được  kết quả sau: Ngoài những nguyên nhân gắn liền với mục đích học tập, còn có một số nguyên  nhân khác như: + Giáo viên tạo không khí học tập vui vẻ. + Do có niềm đam mê với môn học. + Học để tìm tòi những điều mới mẻ, tư duy logic, sáng tạo hơn. + Do ý thức bản thân thấy được tầm quan trọng của việc học… Dưới đây là bảng số liệu và biểu đồ về mức độ  ảnh hưởng của các nguyên nhân này   đối với việc học tập của học sinh: Ảnh hưởng Ảnh hưởng Ảnh hưởng nhiều bình thường ít THPT 31/41 10/41 0/41 Chuyên KHTN THPT 25/44 16/44 3/44 Phạm Văn Nghị Tổng số 56/85 26/85 3/85 (65,88%) (30,59%) (3,53%) Nhận xét
  6. ­ Nhìn chung, mức độ ảnh hưởng của những nguyên nhân trên ở cả 2 trường qua điều   tra của chúng tôi: phần lớn là  ảnh hưởng nhiều (65,88%),  ảnh hưởng bình thường chiếm  (30,59%), ảnh hưởng ít chỉ chiếm 1 phần nhỏ (3,53%). ­  Ở  trường THPT chuyên, các nguyên nhân có mức độ   ảnh hưởng nhiều cao hơn   18,79% so với trường THPT không chuyên. Tỷ  lệ  mức độ   ảnh hưởng bình thường và ít  ở  THPT chuyên thấp hơn ở trường THPT không chuyên. Tóm lại, dựa vào kết quả điều tra những nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng chán,   lười học và mức độ   ảnh hưởng ít hay nhiều của các nguyên do thúc đẩy việc học tập mà  chúng ta có thể  đề  ra được những biện pháp phù hợp hơn nhằm khuyến khích học sinh học   tập tốt hơn. 5.4. Thái độ của học sinh THPT đối với việc học Phát biểu Có phát biểu nhưng Không nhiều không nhiều phát biểu THPT 5/41 24/41 12/41 Chuyên KHTN THPT 2/51 27/51 22/51 Phạm Văn Nghị Tổng số 7/92 51/92 34/92 (7,61%) (55,43%) (36,96%)
  7. Biểu đồ 8a: Mức độ phát biểu của học sinh THPT Phát biểu nhiều 7.61 36.96 Có nhưng 55.43 không nhiều Không phát biểu Biểu đồ 8b: THPT Chuyên KHTN 58.54 60 50 40 29.27 30 20 12.19 10 0 Phát biểu nhiều Có phát biểu Không phát biểu nhưng không nhiều Biểu đồ 8c: THPT Phạm Văn Nghị 60 52.94 50 43.14 40 30 20 10 3.92 0 Phát biểu nhiều Có phát biểu Không phát biểu nhưng không nhiều ­ Tình trạng lớp học tương đối trầm  ở  các trường lớp THPT khá phổ  biến hiện nay.   Khi khảo sát ngẫu nhiên 2 lớp THPT, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ phát biểu ít chiếm quá 50%  nửa, rồi đến tỷ lệ những học sinh chưa bao giờ phát biểu khá cao (xấp xỉ 37%), còn lại lượng   học sinh hăng hái phát biểu không đáng kể.
  8. ­ Tỷ  lệ có phát biểu nhưng không nhiều  ở cả  2 trường xấp xỷ bằng nhau, tỷ lệ phát  biểu nhiều ở THPT chuyên cao hơn 8,27% so với trường không chuyên, còn tỷ lệ  không phát  biểu ở THPT không chuyên cao hơn 13,92% so với trường THPT chuyên. Nguyên nhân gây nên hiện tượng này khá phức tạp, bắt nguồn từ  tâm lý chung của  học sinh (sợ bị chê cười khi phát biểu sai, chưa tự tin vào năng lực của mình, chưa hiểu rõ tác   dụng của việc phát biểu xây dựng bài), do cá nhân chưa chuẩn bị  bài kỹ, đến phương pháp  giảng dạy của giáo viên chưa gây hứng thú tới học sinh…  Với câu hỏi “Bạn có chuẩn bị bài đầy đủ trước khi đến lớp không?”, chúng tôi thu   được 91 câu trả lời: Có Không THPT Chuyên KHTN 28/41 13/41 THPT Phạm Văn Nghị 25/50 25/50 Tổng số 53/91 38/91 (58,24%) (41,76%) Biểu đồ 9a: Tỷ lệ học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp Có 41,76% 58,24% Không Biểu đồ 9b: THPT Chuyên KHTN 80 68.29 60 40 31.71 20 0 Có Không
  9. Biểu đồ 9c: THPT Phạm Văn Nghị 80 60 50 50 40 20 0 Có Không Từ biểu đồ trên cho thấy ­ Tình trạng không chuẩn bị  bài trước khi đến lớp vẫn tồn tại khá phổ  biến (chiếm  42%) ở 2 lớp THPT này. Kết quả khảo sát này khá phù hợp với thực tế hiện nay. Ở hầu hết   các trường lớp, học sinh thường khá bị động trong việc tự chuẩn bị bài ở nhà, kể cả khi giáo  viên kiểm tra, các em vẫn có xu hướng làm chống đối. Nguyên nhân sâu xa của thực trạng  phổ biến này là: học sinh có rất ít thời gian học ở nhà trong khi lượng kiến thức học quá lớn,  học sinh chưa chú tâm tới môn học hay chưa hiểu rõ tác dụng của phương pháp học này… ­ Tỷ  lệ  học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp ở  trường chuyên cao hơn 18,29% so  với trường không chuyên. Tỷ lệ học sinh không và có chuẩn bị bài trước khi đến lớp ở trường   THPT Phạm Văn Nghị là bằng nhau. Điều  ấy chứng tỏ, tỷ  lệ  các em học sinh THPT chuyên nhận thức được tầm quan  trọng và hiệu quả của việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp nhiều hơn ở trường THPT không  chuyên. Với câu hỏi “Bạn chỉ học tập trung các môn cần phải thi hay học đều các môn?”, có   91 câu trả lời: Chỉ học tập trung Học đều các môn các môn cần phải thi THPT 22/41 19/41 Chuyên KHTN THPT 39/50 11/50 Phạm Văn Nghị Tổng số 61/91 30/91 (67,03%) (32,97%)
  10. Biểu đồ 10a: Tỷ lệ học sinh tập trung học các môn cần thi hay học đều các môn Chỉ học các m ôn cần phải 32,97% thi 67,03% Học đều các m ôn Biểu đồ 10b: THPT Chuyên KHTN 80 53.66 60 46.34 40 20 0 Chỉ học các Học đều các môn cần phải môn thi Biểu đồ 10b: THPT Phạm Văn Nghị 78 80 60 40 22 20 0 Chỉ học các Học đều các môn cần phải môn thi Từ biểu đồ ta thấy: ­ Kết quả điều tra của câu hỏi này khá thực tế. Hầu hết các em học sinh đều có tâm lý  chung học lệch, chỉ tập trung học các môn sắp kiểm tra, thi hay các môn chuyên ngành (chiếm   67%). ­ Tỷ lệ học sinh chỉ tập trung học các môn phải thi ở trường Phạm Văn Nghị cao hơn   24,34% so với trường Chuyên KHTN. Ở trường THPT chuyên, tỷ lệ học đều các môn và học   tập trung các môn phải thi xấp xỷ bằng nhau. Điều đó chứng tỏ  các em THPT chuyên đã có   nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và hiệu quả của việc học đều các môn học hơn các em  THPT không chuyên.
  11. 5.5. Những đề xuất nhằm tạo động lực cho học sinh THPT tích cực học tập đạt kết quả tốt Sau đây là một số ý kiến của học sinh 2 trường THPT đã được tổng hợp: Về phía nhà trường, giáo viên: ­ Tạo điều kiện học tập tốt nhất, nâng cao trang thiết bị, dụng cụ học tập. ­ Tăng cường các loại học bổng khuyến khích. ­ Mở rộng các lớp giao lưu với học sinh các khóa. ­ Tăng cường trao đổi học sinh sang nước ngoài học hỏi. ­ Tổ chức các hoạt động ngoại khóa. ­ Giáo viên chuyên môn giỏi, có phương pháp giảng dạy chất lượng, lôi cuốn (đưa vào bài  giảng những ví dụ thực tế, dễ hiểu; tạo tâm lý học thoải mái, không gây áp lực cho học  sinh; gây không khí học tập; kết hợp học + chơi; dạy sát chương trình học, dạy những   điều cơ bản, cần thiết…); giáo viên cần quan tâm đến học sinh; định hướng tương lại cho  học sinh… ­ Bài tập, kỳ thi cần được giảm tải, đưa ra một cách phù hợp…  Về phía gia đình, xã hội: ­ Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy đủ. ­ Có sự đầu tư về vật chất , sự quan tâm về tinh thần từ gia đình, bạn bè, xã hội… Về bản thân: ­ Chăm chỉ, tự giác, có lòng quyết tâm cao, có lòng tin vào bản thân. ­ Phân bố thời gian học tập, vui chơi, nghỉ ngơi khoa học, hợp lý. ­ Tham gia tích cực các phong trào ngoại khóa. ­ Tích cực chuẩn bị bài, phát biểu xây dựng bài. 6. Một số phương pháp giúp học sinh THPT có hứng thú học tập Từ  việc nghiên cứu, điều tra về  lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi xin đề  xuất một số  phương pháp giúp học sinh THPT có hứng thú học tập đối với các môn học, tạo tiền đề cho   việc đạt kết quả học tập tốt: Muốn nâng cao hứng thú trước hết phải hình thành, giáo dục động cơ  học tập, nhu cầu   học tập đúng đắn. Động cơ  học tập tốt không tự  dưng có mà cần phải được xây dựng, hình  thành trong quá trình học sinh đi sâu chiếm lĩnh tri thức với sự hướng dẫn của thầy cô giáo.   Động cơ học tập là muôn hình muôn vẻ, muốn phát động động cơ học tập đúng đắn, động cơ  chiếm lĩnh tri thức thì trước hết cần phải khơi dậy  ở  các em nhu cầu nhận thức, nhu cầu   chiếm lĩnh đối tượng học tập vì nhu cầu chính là nơi khơi nguồn của tính tự  giác, tính tích   cực học tập. Mặt khác, hành vi của con người phụ  thuộc vào nhiều khả  năng khách quan, nhất là  ở  những học sinh có nhân cách chưa hình thành  ổn định, chưa có mục đích sống chủ  đạo, cho   nên môi trường khách quan cần có những điều kiện thuận lợi, là mảnh đất màu mỡ để ươm  
  12. mầm cho hứng thú phát triển: thư viện phong phú các đầu sách, phòng thí nghiệm, thực hành  đầy đủ, những kỳ vọng, sự động viên của thầy cô và gia đình. Hứng thú học tập của học sinh được tăng cường phần lớn chịu sự   ảnh hưởng bởi giáo   viên. Do đó, giáo viên cần không ngừng trau dồi kỹ năng, phẩm chất đạo đức, nghề  nghiệp,  cải tiến phương pháp giảng dạy, đảm bảo việc truyền thụ tri thức ngày càng chính xác, hấp   dẫn, có chất lượng. Giáo viên cần giúp cho học sinh thấy được ý nghĩa và vai trò của các kiến   thức môn học đối với cuộc sống; giúp học sinh biết cách học thích hợp đối với mỗi bộ môn,  tăng cường thời lượng, chất lượng thực hành cho mỗi bộ  môn, nắm vững lý thuyết, luôn có  sự vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống và giải quyết các tình huống trong đời sống   theo các khía cạnh khác nhau. Cần có những bài giảng nêu vấn đề, những giờ thảo luận trên   lớp, những trò chơi mang tính chất giáo dục để  kích thích hứng thú học tập cho các em. Quá   trình kích thích hứng thú không chỉ  diễn ra  ở  bài giảng này hay bài giảng khác mà cần phải   diễn ra trong suốt quá trình. Do đó, trong quá trình giảng dạy, người giáo viên cần tạo ra các  hoàn cảnh nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh, tăng tính tích cực của trí tuệ. Trong giảng dạy, giáo viên cần chỉ ra được cái mới, cái phong phú, nhiều hình nhiều vẻ,  tính chất sáng tạo và triển vọng trong hoạt động học tập để  tạo ra hứng thú vững chắc cho   học sinh trong quá trình học tập. Về  phía nhà trường, thường xuyên tổ  chức các hoạt động học tập, sinh hoạt mang tính   tập thể. Điều đó sẽ  kích thích sự  hăng hái thi đua, cạnh tranh lành mạnh. Tổ  chức các buổi   ngoại khóa, trò chuyện, giao lưu giữa thầy cô – học sinh, học sinh – học sinh nhằm khắc   phục những khó khăn gặp phải trong quá trình học tập. Từ  đó, tìm thấy tiếng nói chung, sự  đồng thuận giữa các học sinh để các em cùng giúp nhau học tốt hơn. KẾT LUẬN Việc thực hiện đề tài, một mặt giúp nắm bắt được mức độ  hứng thú đối với các môn  học của học sinh THPT. Đó là cơ sở để đề xuất các biện pháp phù hợp để hình thành và nâng  cao hứng thú học tập của học sinh nhằm giúp các em đạt kết quả học tập tốt hơn. Thực tế  điều tra cho thấy, phần lớn học sinh đã nhận thức được tầm quan trọng của  học tập. Tuy nhiên, giữa nhận thức và hành động lại có sự mâu thuẫn. Nguyên nhân căn bản  là do chưa có động cơ học tập đúng đắn. Kinh nghiệm dạy và học cho thấy: học sinh chỉ có   kết quả học tập cao khi họ hứng thú thật sự đối với môn học. Việc tạo hứng thú học tập cho  học sinh là điều kiện tiên quyết, là cách tối  ưu giúp các em lĩnh hội tri thức cũng như  đảm  bảo cho sự thành công trong cuộc đời của mỗi cá nhân. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết cho hoạt động giáo dục là phải tổ chức dạy và học   như thế nào để hình thành và nâng cao hứng thú cho học sinh. Những kết quả thu được từ đề  tài hy vọng sẽ cung cấp một phần nào đó những cơ sở để thực hiện nhiệm vụ vô cùng phức  tạp và khó khăn đó.


Page 2

YOMEDIA

Nhằm mục đích nghiên cứu thực trạng hứng thú học tập của học sinh trung học phổ thông đối với các môn học. Từ đó, tìm ra mối quan hệ giữa hứng thú, động cơ, thái độ học tập và kết quả học tập của học sinh trung học phổ thông, góp phần xây dựng những phương pháp gây hứng thú học tập đối với các môn học cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh trung học phổ thông. Tham khảo nội dung đề tài "Đặc điểm hứng thú đối với các môn học của học sinh trung học phổ thông" để hiểu hơn về vấn đề này.

22-09-2015 270 16

Download

Đặc điểm học tập của học sinh THPT

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.