Cổ phiếu giữ được bao lâu

Khi nào nên bán ra cổ phiếu?

Cách đây không lâu, những cổ phiếu được xem là an toàn nhất, có tốc độ tăng trưởng ổn định nhất trên thị trường chứng khoán như Intel, Procter & Gamble hay IBM đã liên tục… mất giá làm người ta phải đặt câu hỏi:“Vậy thì có loại cổ phiếu nào an toàn không?”.

Câu trả lời có lẽ là không tồn tại một loại cổ phiếu nào thực sự an toàn. Điều cốt yếu là các nhà đầu tư cần nhận biết được thời điểm thích hợp để bán ra cổ phiếu.
Trong “trò chơi” chứng khoán, nhiều nhà đầu tư đã “mất cả chì lẫn chài” chỉ vì bỏ qua thời điểm nên bán ra cổ phiếu, để rồi khi giá cổ phiếu sụt giảm thì muốn bán cũng không thể nào bán được. Lúc đó, cổ phiếu này không khác nào những tờ giấy lộn. Thật ra, đó là một bài học bổ ích cho nhiều nhà đầu tư. Trong điều kiện các “cổ phiếu an toàn” không còn nữa, mà thay vào đó là các “cổ phiếu rủi ro”, thành công hay thất bại lúc này tùy thuộc vào sự suy đoán và phân tích của các nhà đầu tư. Vậy phải xử lý tình huống này như thế nào?
Việc xác định thời điểm tốt nhất để bán ra cổ phiếu được xem là khá khó khăn đối với các nhà đầu tư, cho dù đó là những nhà đầu tư nghiệp dư hay Soros hoặc John Neff . Bất kỳ nhà đầu tư chứng khoán nào cũng mong muốn đầu tư vào những công ty mà cổ phiếu có khả năng sinh lợi cao, giá cổ phiếu có xu hướng tăng mạnh, hoặc ít nhất cũng phải ổn định. Tuy nhiên, sự thật không bao giờ như vậy, giá các cổ phiếu trên thị trường chứng khoán liên tục biến động, các chỉ số quan trọng cũng lên xuống thất thường, lúc quá cao, lúc lại quá thấp khiến các nhà đầu tư luôn ở trong trạng thái bất an. Những thành công trong đầu tư chứng khoán luôn đòi hỏi các nhà đầu tư phải nắm vững kiến thức về chứng khoán, cũng như có kinh nghiệm trong đầu tư để tìm hiểu rõ cổ phiếu mình đang giữ có ổn định không và liệu khi thị trường chứng khoán tụt dốc thì nó bị ảnh hưởng xấu không. Đặc biệt, các nhà đầu tư cần biết rõ lúc nào không nên nắm giữ cổ phiếu nữa. Sau đây là một số dấu hiệu giúp nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán có thể nhận biết được thời điểm nào nên bán ra cổ phiếu.

1. Cơ cấu tổ chức điều hành công ty có sự xáo trộn

Nếu những nhà quản lý cấp cao, những người chịu trách nhiệm về sự thành công của doanh nghiệp, bắt đầu rời bỏ công ty thì có thể xem đó là dấu hiệu bất lợi cho tương lai của công ty. Khi đó, các nhà đầu tư cần phải theo dõi và phát hiện xem tại sao lại có những thay đổi như vậy. Nếu phát hiện ra những dấu hiệu cho thấy công ty đang trở nên suy yếu trong lĩnh vực kinh doanh chính, thì tốt nhất nên bán cổ phiếu của công ty đó đi và thay vào đó là tìm mua cổ phiếu của công ty khác trong cùng lĩnh vực nhưng mạnh hơn và có ban điều hành ổn định hơn.

2. Lợi nhuận và cổ tức giảm sút

Trong trường hợp này, các nhà đầu tư nên điều tra cẩn thận trước khi quyết định có nên bán cổ phiếu hay không. Nếu là do ban quản trị công ty quyết định không chia cổ tức để tập trung vốn cho việc phát triển và mở rộng quy mô công ty, thì đó lại là điều tốt và cổ phiếu sẽ tăng giá trong tương lai. Nhưng thông thường thì sự sụt giảm về lợi nhuận và cổ tức là dấu hiệu xấu cho thấy tương lai của công ty gặp nhiều khó khăn, khi đó đa số nhà môi giới đều khuyên khách hàng bán cổ phiếu đi.Các công ty niêm yết có xu hướng chi trả cổ tức khá cao (trên 10%/năm) nên nhiều nhà đầu tư cho rằng đây là dấu hiệu tốt để tiếp tục nắm giữ cổ phiếu, nhưng không nên coi đây là căn cứ duy nhất để quyết định mua hay bán chứng khoán. Cổ tức chỉ thể hiện những kết quả trong quá khứ, không có gì bảo đảm việc đó sẽ tiếp diễn trong tương lai. Aiko Musaki, một nhà đầu tư cá nhân đang công tác tại bộ phận cổ phiếu và thị trường chứng khoán của hãng điện tử Matsushita, cho biết: “Theo tôi, các nhà đầu tư chứng khoán chỉ nên nắm giữ cổ phiếu của những công ty có cổ tức cao và ổn định, với điều kiện công ty đó có kế hoạch sử dụng vốn phát triển đúng hướng”.


3. Thị giá cổ phiếu lớn hơn nhiều lần so với giá trị thực

Thomas Calvin, một nhà đầu tư chiến lược của công ty chứng khoán Lufkin & Jenrette, cho rằng: “Những tranh cãi về giá cổ phiếu của các công ty niêm yết đều chỉ mang tính một chiều, điều quan trọng là bản thân nhà đầu tư phải tự mình xác định được giá trị thực của chúng. Hãy cẩn trọng với những cổ phiếu có thị giá cao vọt. Bong bóng cổ phiếu có thể vỡ bất cứ lúc nào”. Đúng là có một số nhà đầu tư dù biết rằng cổ phiếu của mình đã vượt quá giá trị thực hàng chục lần nhưng họ vẫn chưa bán đi vì muốn trì hoãn việc chịu thuế thu nhập cũng như hy vọng giá sẽ còn tăng nữa. Tuy nhiên, nếu cảm thấy thị giá đã vượt qua giá trị thực chất của cổ phiếu nhiều lần thì nên bán cổ phiếu đi, bởi vì nếu giữ lại những cổ phiếu này bạn sẽ phải chịu rủi ro rất cao và chỉ có thể trì hoãn việc chịu thuế chứ không thể không nộp thuế. Ngoài ra, khi bán ra cổ phiếu này thì sẽ có cơ hội đầu tư vào cổ phiếu khác để đa dạng hóa danh mục và giảm thiểu rủi ro đầu tư của mình.

4. Không còn lý do để lựa chọn cổ phiếu đó

Có thể lý do để các nhà đầu tư quyết định mua cổ phiếu của Merck là bởi công ty này đã công bố một loạt các phát minh ra những loại thuốc mới có hiệu quả cao. Đột nhiên, một thời gian sau người ta phát hiện ra một trong số các loại thuốc đó của Merck có những tác dụng phụ bất lợi cho sức khỏe. Thế là thị phần của công ty bị sụt giảm và lợi nhuận của công ty trong tương lai cũng sẽ sụt giảm. Khi đó, các nhà đầu tư nên bán cổ phiếu của Merck đi vì cổ phiếu này không còn tính hấp dẫn, cũng như không còn những lý do ban đầu để lựa chọn cổ phiếu nữa. Mỗi nhà đầu tư trước những quyết định đều có các phân tích, tính toán kỹ lưỡng để tìm ra các lý do mua cổ phiếu. Tuy nhiên, thời gian trôi qua, nếu những lý do đó không còn phù hợp nữa, mặc dù giá cổ phiếu vẫn ổn định thì các nhà đầu tư cũng nên bán cổ phiếu đó đi, bởi sự ổn định này chỉ là nhất thời và tiềm ẩn một đà tụt dốc trong tương lai.

5. Sự hài lòng đối với danh mục đầu tư hiện tại không còn nữa

Có thể trong danh mục đầu tư sẽ có các cổ phiếu không phù hợp với các mục tiêu tài chính đặt ra trước đó (mua sắm tài sản, chuẩn bị cho kế hoạch nghỉ hưu...), khi đó tốt nhất nên bán các cổ phiếu đang có đi và tổ chức lại danh mục đầu tư mới phù hợp hơn với mong muốn của mình.Một danh mục đầu tư đa dạng sẽ ít rủi ro hơn một danh mục đầu tư tập trung vào một hay một ít loại đầu tư. Đa dạng hoá - nghĩa là dàn trải tiền của bạn ra các loại đầu tư khác nhau - làm giảm rủi ro, bởi vì nếu một số khoản đầu tư của bạn đi xuống thì số khác lại đi lên. Hãy làm tính toán một cách đơn giản: nếu bạn muốn nắm giữ số lượng cổ phiếu trị giá 100.000 USD, bạn nên nắm giữ năm loại cổ phiếu, mỗi loại trị giá 20.000 USD. Bạn không nên cố gắng nắm giữ một số lượng cổ phiếu nhất định nào đó, bạn hãy đầu tư một số tiền đã định cho mỗi loại cổ phiếu.

Cách đây không lâu, Warren Buffet, một cây đại thụ trong giới đầu tư phố Wall, đã từng nói: “Đầu tư chứng khoán là hình thức kinh doanh đòi hỏi sự nhanh nhạy và óc phán đoán cao”. Quả thật, khi tham gia vào thị trường này, ngoài việc phải nắm bắt đầy đủ những thông tin từ thị trường, nhà đầu tư còn cần có khả năng phân tích và dự báo triển vọng phát triển của công ty, cũng như phải thực sự tỉnh táo nắm bắt được sự thay đổi nhanh nhạy của bất cứ thông tin nào có liên quan đến giao dịch trên thị trường, để từ đó kịp thời biết được lúc nào nên bán ra cổ phiếu.


Các nhà đầu tư đang ngày càng trở nên tinh thông hơn nhưng không vì thế mà các rủi ro trong đầu tư chứng khoán sẽ giảm bớt. Trong một bài phát biểu của mình, John Markese, chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư cá nhân của Mỹ nói: “Chất lượng, tính thời điểm và độ sâu rộng của thông tin trên thị trường chứng khoán đạt tới mức độ chưa từng có, nhưng nó vẫn không cho phép bạn dự đoán chính xác được tương lai. Hãy tỉnh táo, phân tích kỹ thị trường để từ đó đề ra được những quyết định cần thiết và hợp lý”.
 

 (Theo Bwportal /Finance Times )

Chia cổ tức bằng cổ phiếu tức là doanh nghiệp sẽ phát hành thêm cổ phiếu thường và chuyển vào tài khoản của cổ đông. Ưu nhược điểm của hình thức chia cổ tức này là gì?

Nội dung chính

  • Hình thức chia cổ phiếu bắng cổ tức
  • Đặc điểm của hình thức chi cổ phiếu bẳng cổ tức
  • Lợi ích mà nhà đầu tư nhận được khi được chi cổ tức bằng cổ phiếu

Nhiều doanh nghiệp chia cổ tức bằng cổ phiếu cho cổ đông thay vì trả bằng tiền. Hình thức chia cổ tức này có những ưu nhược điểm riêng. TOPI sẽ giúp bạn so sánh hình thức trả cổ tức bằng tiền với trả cổ tức bằng cổ phiếu cái nào có lợi hơn nhé.

1. Chia cổ tức bằng cổ phiếu

Ngày càng có nhiều doanh nghiệp chia cổ tức bằng cổ phiếu thay vì dùng tiền mặt. Một số nhà đầu tư chưa hiểu rõ bản chất của việc chia cổ tức này lợi hại ra sao, giá trị cổ phiếu sau khi chia tăng lên hay giảm đi và khi nào thì được bán, chuyển nhượng.

Chia cổ tức bằng cổ phiếu là hình thức doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu thông thường và chuyển vào tài khoản cho cổ đông. Đây là một trong số nhiều hình thức trả cổ tức. Các hình thức khác bao gồm trả cổ tức bằng tiền mặt, bằng cách mua lại cổ phiếu…

Chia cổ tức bằng cổ phiếu chỉ gia tăng số lượng, không tăng tài sàn

Về bản chất, trả cổ tức bằng cổ phiếu (hoặc thưởng bằng cổ phiếu) là nghiệp vụ chia tách cổ phiếu và nó không phát sinh thêm bất kỳ dòng tiền mới nào giúp doanh nghiệp gia tăng nội lực.

Chia cổ tức bằng cổ phiếu không giúp tài sản tăng lên, mặc dù nhà đầu tư được sở hữu nhiều cổ phiếu hơn nhưng giá của mỗi cổ phiếu bị pha loãng nên vì thế tài sản của nhà đầu tư vẫn giữ nguyên như cũ.

Đối với doanh nghiệp, hình thức này giúp doanh nghiệp tăng vốn điều lệ trong sổ sách nhưng bản chất tổng tài sản không đổi.

2. Ưu và nhược điểm của hình thức chia cổ tức bằng cổ phiếu

Ưu điểm

Nhà đầu tư không bị đánh thuế 2 lần nếu nhận cổ tức bằng cổ phiếu vì vậy tăng tính thanh khoản cho thị trường.

Chia cổ tức bằng cổ phiếu giúp doanh nghiệp giữ lại được nguồn vốn để vượt qua giai đoạn khó khăn, mở rộng kinh doanh hoặc đầu tư vào những dự án mang lại lợi nhuận lâu dài.

Trả cổ tức bằng cổ phiếu giúp số lượng cổ phiếu được lưu hành tăng lên, gián tiếp tăng tính thanh khoản của cổ phiếu đó.

Hình thức trả cổ tức này làm giảm thị giá cổ phiếu, thu hút nhà đầu tư khác mua vào, đặc biệt là sau khi có tin được chia cổ tức.

Nếu doanh nghiệp đang mở rộng đầu tư thì hình thức chia cổ tức bằng cổ phiếu giúp vốn đầu tư giảm nhanh hơn nhiều so với chia tiền mặt.

Nhà đầu tư không bị đánh thuế khi nhận cổ phiếu cổ tức

Nhược điểm

Nếu sau khi trả cổ tức bằng cổ phiếu, công Tỉ hoạt động không hiệu quả thì giá cổ phiếu có thể bị giảm xuống.

Nhà đầu tư phải chờ vài tháng để cổ phiếu mới phát hành được chuyển vào tài khoản, sau đó mới có thể bán.

Nhà đầu tư cũng cần phân tích kĩ và đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp sử dụng thủ thuật tài chính, báo cáo kinh doanh tích cực nhưng thực chất không tạo ra dòng tiền, lợi nhuận cao nhưng nằm nhiều ở khoản phải thu, tài sản dở dang... 

Trả cổ tức bằng cổ phiếu khiến cho giá cổ phiếu bị pha loãng, khó tăng trở lại, khó trả cổ tức cao cho năm tiếp theo.

Xem thêm:

Quy định và những lưu ý cho nhà đầu tư về cổ tức

3. Cách tính giá cổ phiếu sau khi chia cổ tức bằng cổ phiếu

Cách tính giá cổ phiếu sau khi chia cổ tức bằng cổ phiếu hoặc thưởng bằng cổ phiếu như sau:

Công thức tính giá cổ phiếu sau khi trả cổ tức bằng cổ phiếu

Ví dụ:

Giá tham chiếu của doanh nghiệp X tại ngày 23/8 sau khi điều chỉnh do chia cổ tức cổ phiếu và cổ phiếu thưởng là:

39.550 / (1 + 7% + 13%) = 32.958 (đồng/cổ phiếu)

Ngày 23/08/2021 là ngày Doanh nghiệp trả cổ tức cổ phiếu và cổ phiếu thưởng cho nhà đầu tư. Tỉ lệ trả cổ tức cổ phiếu là hay 7%. Tỉ lệ cổ phiếu thưởng là hay 13%.

Ngày 20/8/2021 (phiên giao dịch liền trước phiên ngày 23/08) giá đóng cửa là 39.550 đồng/cổ phiếu.

Tỉ lệ chi trả cổ tức được tính theo công thức:

Tỉ lệ chi trả cổ tức = Cổ tức / Thu nhập ròng = Cổ tức hàng năm trên mỗi cổ phiếu / Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu 

4. Những câu hỏi thường gặp khi chia cổ tức bằng cổ phiếu

4.1. Trả cổ tức bằng cổ phiếu bao lâu thì được bán

Thời gian chia cổ tức do Hội đồng quản trị quyết định và trả cho cổ đông chậm nhất là 6 tháng kể từ ngày kết thúc Đại hội cổ đông thường niên. Có doanh nghiệp trả cổ tức 1 năm khoảng 2 lần, có doanh nghiệp chi trả đến 3, 4 lần mỗi năm.

Nếu nhà đầu tư mua cổ phiếu thì chỉ sau 3 ngày, cổ phiếu sẽ vào tài khoản. Nhưng cổ phiếu nhận được từ chi trả cổ tức thì mất từ 30 đến 60 ngày sau khi doanh nghiệp hoàn thành các thủ tục niêm yết. Như vậy, nhà đầu tư phải đợi ít nhất từ 1 đến 2 tháng sau khi doanh nghiệp chia cổ tức thì cổ phiếu mới về tài khoản và khi đó mới giao dịch, mua bán được.

Nhà đầu tư cần đợi từ 1 đến 2 tháng để cổ phiếu về tài khoản

4.2. So sánh trả cổ tức bằng tiền và trả cổ tức bằng cổ phiếu

Với hình thức trả cổ tức bằng tiền mặt, cổ đông được nhận tiền, bị đánh thuế  2 lần (thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân) nhưng việc được chia cổ tức bằng tiền tạo tâm lý tin tưởng của cổ đông đối với doanh nghiệp.

Trong khi đó, khi trả cổ tức bằng cổ phiếu, nhà đầu tư không phải chịu thuế khi nhận cổ tức được chia, nhưng do bị pha loãng, giá cổ phiếu giảm đi nên thực chất tài sản của nhà đầu tư không nhiều thêm. Nhiều cổ đông không thực sự thích hình thức trả cổ tức này.

Đối với doanh nghiệp, trả cổ tức bằng tiền mặt đồng nghĩa với việc dòng tiền lưu thông đi ra khỏi doanh nghiệp còn trả bằng cổ phiếu thì doanh nghiệp vẫn giữ nguyên vốn chủ sở hữu, dòng tiền vẫn ở trong doanh nghiệp nên có thể tiếp tục đầu tư.

Từ những thông tin trên, hy vọng bạn đã có thể phân biệt được hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu và bằng tiền mặt, cái nào có lợi hơn. Hãy theo dõi TOPI hàng ngày để cập nhật các kiến thức đầu tư tài chính từ chuyên gia nhé!

Video liên quan

Chủ đề