Chuyên đề tốt nghiệp nhà văn hóa thể thao năm 2024

  • 1. VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN HÀ LINH QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM VĂN HÓA - THỂ THAO THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA Khóa 3 (2015 - 2017) Hà Nội, 2017
  • 2. VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN HÀ LINH QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM VĂN HÓA - THỂ THAO THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Quản lý Văn hóa Mã số: 60.31.06.42 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Phương Thảo Hà Nội, 2017
  • 3. xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, trích dẫn trong luận văn là đầy đủ, chính xác và trung thực. Những ý kiến khoa học được đề cập trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ nơi nào khác. Nếu có điều gì trái với lời cam đoan tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày tháng năm 2017 Tác giả luận văn Nguyễn Hà Linh
  • 4. CHỮ VIẾT TẮT CLB Câu lạc bộ CN-TTCN Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp GS Giáo sư HCB Huy chương bạc HCĐ Huy chương đồng HCV Huy chương vàng HĐND Hội đồng nhân dân HLV Huấn luyện viên KCN Khu công nghiệp NĐ Nghị định NQ Nghị quyết NVH Nhà văn hóa Nxb Nhà xuất bản PGS.TS Phó giáo sư, tiến sĩ TDTT Thể dục thể thao Tr Trang Ths Thạc sĩ TS Tiến sĩ TTVH Trung tâm văn hóa TTVHTT Trung tâm văn hóa thể thao TW Trung ương UBND Ủy ban nhân dân UNESCO UnitedNationEducation,ScienceandCultureOrganization (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc) VĐV Vận động viên VHTT Văn hóa thể thao VHTT&DL Văn hóa, thể thao và du lịch
  • 5. 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM VĂN HÓA VÀ TỔNG QUAN ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU .....7 1.1. Các khái niệm..............................................................................................7 1.1.1. Quản lý văn hóa .......................................................................................7 1.1.2. Trung tâm văn hóa thể thao....................................................................10 1.2. Khái quát về Trung tâm Văn hóa – Thể thao thành phố Bắc Ninh...........16 1.2.1. Tổng quan về thành phố Bắc Ninh.........................................................16 1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Trung tâm Văn hóa – Thể thao thành phố Bắc Ninh..........................................................................................25 1.2.3. Vai trò, ý nghĩa của Trung tâm Văn hóa – Thể thao thành phố Bắc Ninh trong đời sống của người dân thành phố .........................................31 Tiểu kết.............................................................................................................33 Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM VĂN HÓA - THỂ THAO THÀNH PHỐ BẮC NINH...........34 2.1. Các hoạt động của Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh..34 2.1.1. Tuyên truyền cổ động.............................................................................34 2.1.2. Nhà trưng bày về thân thế và sự nghiệp của đồng chí Hoàng Quốc Việt..37 2.1.3. Hoạt động văn hóa văn nghệ..................................................................39 2.1.4. Thư viện trung tâm.................................................................................42 2.1.5. Thể dục thể thao.....................................................................................46 2.2. Công tác quản lý các hoạt động của Trung tâm Văn hóa – Thể thao thành phố Bắc Ninh..........................................................................................50 2.2.1. Công tác triển khai các văn bản chỉ đạo của cấp trên............................50 2.2.2. Đội ngũ cán bộ và trình độ chuyên môn................................................55 2.2.3. Công đoàn và hội phụ nữ .......................................................................58 2.3. Đánh giá chung .........................................................................................61
  • 6. chính sách và tài chính...............................................................61 2.3.2. Cơ sở hạ tầng và hình thức hoạt động....................................................64 2.3.3. Ảnh hưởng của cơ chế thị trường...........................................................67 Tiểu kết.............................................................................................................70 Chương 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM VĂN HÓA - THỂ THAO THÀNH PHỐ BẮC NINH...........72 3.1. Định hướng của Đảng và Nhà nước..........................................................72 3.2. Các nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng quản lý hoạt động của Trung tâm Văn hóa – Thể thao thành phố Bắc Ninh.......................................77 3.2.1. Xây dựng đề án để hoàn thiện các văn bản quản lý...............................77 3.2.2. Kiện toàn bộ máy hoạt động và nâng cao chất lượng cán bộ ................80 3.2.3. Đổi mới các hoạt động văn hóa và đề xuất đầu tư trang thiết bị ...........82 3.2.4. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, đánh giá và phát huy vai trò của đoàn thể ....... 89 Tiều kết.............................................................................................................91 KẾT LUẬN......................................................................................................92 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................95
  • 7. do chọn đề tài Ngày nay, khi kinh tế - xã hội phát triển, đời sống và dân trí của người dân ngày càng được nâng cao, sinh hoạt văn hóa trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa nhằm xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, trong đó có nhiệm vụ chỉ đạo phát triển thiết chế văn hóa cấp thành phố trực thuộc tỉnh. Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thành ủy - UBND thành phố và Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Với chức năng phát triển sự nghiệp văn hóa và thể thao của thành phố; tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của địa phương. Ngoài ra, trung tâm cũng là nơi tổ chức, cung ứng dịch vụ công; đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao cũng như nhu cầu tiếp nhận thông tin, nâng cao dân trí, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của nhân dân trên địa bàn. Trong nhiều năm hoạt động, cán bộ công nhân viên của trung tâm đã bám sát định hướng, chức năng, nhiệm vụ mà UBND giao cho, vì vậy mọi hoạt động của trung tâm đều đi vào chiều sâu và gắn với thực tiễn. Các hoạt động của trung tâm đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia đặc biệt là thanh thiếu niên, thiếu nhi tạo ra tính quần chúng và xã hội hóa ngày càng cao. Tuy nhiên, trong thời kỳ mới, Bắc Ninh là một thành phố trẻ với tốc độ đô thị hóa nhanh cũng không tránh khỏi những khó khăn và thách thức trong việc giao lưu tiếp biến văn hóa. Trung tâm Văn hóa – Thể thao thành phố Bắc Ninh là một thiết chế văn hóa có vai trò quan trọng trong việc kết nối những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước với người dân trên địa bàn
  • 8. vậy, trung tâm cần nâng cao chất lượng quản lý để bắt kịp sự phát triển của thành phố trong thời kỳ mới. Để đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc, cụ thể về hoạt động quản lý văn hóa tại trung tâm cần có những nghiên cứu, đánh giá một cách khách quan thông qua cách quản lý các hoạt động văn hóa tại đây; so sánh, đối chiếu với các trung tâm văn hóa khác để thấy được ưu, nhược điểm, cơ hội và thách thức. Từ đó, đưa ra những giải pháp để nâng cao chất lượng quản lý cũng như hiệu quả của các hoạt động tại Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay. Bản thân là một cán bộ tại Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh, tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Quản lý hoạt động của Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh” làm luận văn Thạc sĩ quản lý văn hóa, với mục đích góp một phần công sức trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý văn hóa tại cơ quan mình, đồng thời có thể làm tư liệu cho các sinh viên, học viên khóa sau tham khảo, ứng dụng trong những nghiên cứu khác có liên quan. 2. Lịch sử nghiên cứu Mô hình thiết chế “Trung tâm văn hóa” (Nhà văn hóa) được xây dựng ở Liên Xô (cũ) và Việt Nam chưa được bao lâu so với lịch sử của các ngành khoa học và lĩnh vực nghiên cứu khác. Một số tác giả trong nước cũng đã bàn tới lý thuyết và thực tiễn về quản lý hoạt động trung tâm văn hóa trong bối cảnh và điều kiện nước ta. Đáng kể, là các tác giả cùng sách và tài liệu như: Nguyễn Văn Hy (1985) với Mấy vấn đề về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hiện nay [21]; Trần Hữu Tòng (1997) với Sổ tay công tác Văn hóa - Thông tin [38]; Trần Văn Ánh (2002) với Đại cương công tác Nhà văn hóa [4]. Đặc biệt, giáo trình Đại cương về khoa học quản lý của tác giả Phan Văn Tú (1999) [39] đã trình bày khá sâu sắc về các phương pháp quản lý nói chung và quản lý văn hóa nói riêng trong đó có các vấn đề về quản lý nhà văn hóa... Một số bài viết trên các tạp chí có tính tài liệu nghiệp vụ của nhà văn hóa
  • 9. đây và của Cục Văn hóa - Thông tin cơ sở hiện nay có đề cập tới một số khía cạnh của công tác quản lý hoạt động nhà văn hóa dưới dạng quan điểm hay hướng dẫn nghiệp vụ như: Lê Thị Bích Thuận (2017), Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa hiện nay [36]; Bùi Quang Thanh (2016), Quản lý văn hóa và văn hóa quản lý đối với lễ hội cổ truyền ở Việt Nam hiện nay [31]... Trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu, tác giả đã tìm thấy một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài “ Quản lý hoạt động của Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh” như: Nghiêm Nam Hùng (2012) với Quản lý hoạt động văn hóa của Trung tâm văn hóa thông tin quận Hà Đông thành phố Hà Nội [19]. Đây là một trong số những luận văn tiêu biểu, được khá nhiều các tác giả sau này tham khảo. Luận văn không chỉ tập trung nghiên cứu TTVH thông tin quận Hà Đông, mà còn mở rộng phạm vi nghiên cứu hoạt động của một số TTVH thông tin khác thuộc một số quận trên địa bàn Hà Nội. Từ những đánh giá, so sánh khách quan, thực tế, tác giả không chỉ tìm ra những mặt mạnh và hạn chế của TTVH thông tin quận Hà Đông, mà còn học hỏi, tiếp thu được những cách thức quản lý hiệu quả của một số trung tâm khác. Nhờ đó, tác giả đã đưa ra những giải pháp thực tế và mang tính khả thi cao, góp phần đưa TTVH thông tin quận Hà Đông trở thành một điểm mạnh trong hệ thống TTVH thành phố Hà Nội. Nguyễn Thế Song (2016) với đề tài: Quản lý các hoạt động tại Trung tâm Văn hóa – Thể thao huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình [29]. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và qua khảo sát thực tế công tác quản lý của các hoạt động văn hóa của TTVHTT huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, luận văn đã bước đầu nêu ra và góp phần tích cực vào phát triển sự nghiệp văn hóa của địa phương. Bùi Thị Thu Phương (2016) với đề tài: Quản lý hoạt động văn hóa của Trung tâm Văn hóa tỉnh Sơn La [27]. Luận văn đã có cái nhìn toàn diện về
  • 10. lý văn hóa tại Trung tâm Văn hóa tỉnh Sơn La bao gồm cả mặt mạnh và những hạn chế tồn đọng, từ đó đưa ra những giải pháp mang tính khả thi, phần nào khắc phục được những khó khăn mà Trung tâm Văn hóa tỉnh Sơn La đang gặp phải. Các công trình trên đều là những nguồn tư liệu quý, khái quát được những vấn đề cơ bản liên quan đến công tác quản lý các hoạt động của các trung tâm văn hóa, nhà văn hóa, là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn của mình. Tuy nhiên, hệ thống TTVH mỗi nơi lại mang những đặc điểm riêng biệt. Để nghiên cứu cụ thể hơn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh, tác giả đã trực tiếp tìm hiểu, khảo sát, phỏng vấn. Từ đó, có cái nhìn toàn diện và khách quan nhất về công tác quản lý các hoạt động của trung tâm. Đây cũng là một đề tài mới, chưa có một đề tài nào đi trước đã nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn đi sâu khảo sát các hoạt động của Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh. Tìm hiểu thực trạng, đánh giá những kết quả đạt được cũng như những hạn chế trong công tác quản lý hoạt động của Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số giải pháp cụ thể góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý các hoạt động của trung tâm trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tìm hiểu những vấn đề lý luận về quản lý, đặc biệt là quản lý về hoạt động văn hóa. Từ đó, hệ thống hóa cơ sở lý luận và các vấn đề có liên quan đến công tác quản lý các hoạt động của trung tâm văn hóa thể thao. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động quản lý của trung tâm. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng quản lý của Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh.
  • 11. và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác quản lý của Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về phạm vi không gian: Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh. Về phạm vi thời gian: Để đánh giá chính xác thực trạng việc quản lý hoạt động của Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh, tác giả đã thu thâp tài liệu về trung tâm từ năm 2010 đến nay. Từ đó, sẽ thể hiện rõ nhất những chuyển biến về cơ cấu tổ chức cũng như công tác quản lý các hoạt động tại trung tâm. 5. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu chính được tác giả sử dụng trong luận văn: - Phương pháp phân tích, tổng hợp tư liệu: Trên cơ sở các tài liệu thu thập được, tác giả phân tích đánh giá và tổng hợp, sắp xếp lại theo một hệ thống đưa vào luận văn. - Phương pháp khảo sát, điền dã (quan sát, thống kê, phỏng vấn): Tác giả tìm hiểu thực tế nhu cầu sinh hoạt văn hóa của cư dân trên địa bàn thành phố Bắc Ninh. Bản thân là cán bộ TTVHTT thành phố Bắc Ninh, tác giả có điều kiện quan sát thực tế thực trạng các hoạt động của trung tâm, đặc biệt trong công tác quản lý. Từ đó có thể có những đánh giá sát thực tế nhất. Tác giả cũng phỏng vấn một vài cán bộ lãnh đạo của trung tâm để có cái nhìn khách quan nhất về công tác quản lý các hoạt động tại đây. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về công tác quản lý của các trung tâm văn hóa thể thao trong điều kiện hiện nay. Các kết quả khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động của trung tâm và một số giải pháp đề xuất trong luận văn sẽ là cơ sở cho việc đổi mới công tác quản lý tại
  • 12. hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh. Từ những giải pháp được đưa ra, luận văn sẽ góp phần nâng cao chất lượng quản lý các hoạt động tại TTVHTT thành phố Bắc Ninh. Những kết quả luận văn đạt được, có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy hoặc làm bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý các hoạt động văn hóa, nhất là ở cấp thành phố trực thuộc tỉnh. Luận văn cũng sẽ trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên ngành Quản lý văn hóa ở các trường Đại học, Cao đẳng. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm: Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động của Trung tâm Văn hóa và tổng quan địa bàn nghiên cứu Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động của Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh. Chương 3: Nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động của Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh.
  • 13. LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM VĂN HÓA VÀ TỔNG QUAN ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Các khái niệm 1.1.1. Quản lý văn hóa Nguồn gốc phát triển loài người là lao động của cá nhân và lao động chung. C. Mác đã khẳng định: Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất... Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng [10]. Từ đó cho thấy, C. Mác đã đề cao vai trò của người đứng đầu, đó là người chỉ đạo mọi hoạt động của các cá nhân để tạo nên môt tập thể chung. Lao động chung cần có tổ chức và thống nhất nhằm tạo ra sức mạnh để đạt được mục đích chung. Trong lịch sử phát triển loài người xuất hiện một dạng lao động mang tính đặc thù là tổ chức - điều khiển con người với các hoạt động theo những yêu cầu nhất định; dạng lao động đó được gọi là quản lý. Như vậy, quản lý là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa trên sự phân công và hợp tác để làm một công việc nhằm đạt được mục tiêu chung đề ra. Mặc dù, quản lý là một thuộc tính tất yếu gắn liền với xã hội nhưng chỉ khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định thì quản lý mới được tách ra thành một 2 chức năng riêng của lao động xã hội; dần dần hình thành những tập thể, những tổ chức và cơ quan chuyên hoạt động quản lý - hệ thống quản lý (chủ thể quản lý). Theo Henry Fayol (1886 - 1925), ông là người đầu tiên nghiên cứu, tiếp cận quản lý theo quy trình, cũng là người có tầm nhìn, có sự ảnh hưởng lớn từ thời cận hiện đại cho đến nay, ông đã định
  • 14. lý như sau: “Lập kế hoạch, tổ chức, phân công điều khiển và kiểm soát các nỗ lực của cá nhân, bộ phận và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất khác của tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra” [23, tr.18]. Còn Harol Koontz từng nhận định: “Quản lý là một nghệ thuật nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, chỉ huy, phối hợp, hướng dẫn hoạt động của những người khác” [17]. Ở nước ta thời gian gần đây, cũng đã xuất bản nhiều công trình nghiên cứu và giáo trình về Khoa học quản lý, trong đó đã giải thích rõ khái niệm quản lý. Trong Từ điển Giáo dục học đã định nghĩa quản lý như sau: “Quản lý là hoạt động hay tác động có định hướng , có chủ định của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [42]. Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến đổi của môi trường và quy luật phát triển của xã hội. Hay, như tác giả Nguyễn Minh Đạo nhận định: "Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục tiêu đã đề ra” [16]. Từ những quan niệm này cho thấy, quản lý là một hoạt động liên tục và cần thiết khi con người kết hợp với nhau trong tổ chức. Đó là quá trình tạo nên sức mạnh gắn liền các hoạt động của các cá nhân với nhau trong một tổ chức nhằm đạt được mục tiêu chung. Đối tượng chủ yếu và trực tiếp của quản lý là những mối quan hệ con người bên trong và bên ngoài tổ chức. Chủ thể tác động lên con người, thông qua đó mà tác động đến các yếu tố vật chất và phi vật chất khác như tài chính, cơ sở vật chất, công nghệ, thông tin, hệ thống... để tạo ra kết quả cuối cùng của toàn bộ hoạt động. Một nhà quản lý muốn quản lý tốt cần phải nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Ngoài ra, người quản lý cần có cái nhìn tổng thể và khách quan, từ đó vận dụng khéo léo, linh hoạt những kinh nghiệm đã quan sát được, những tri thức đã được đúc kết.
  • 15. văn hóa là gì? Theo PGS.TS Bùi Quang Thanh: Khái niệm quản lý văn hóa trong xã hội hiện đại được hiểu là công việc của nhà nước, được thực hiện thông qua việc ban hành quy chế, chính sách, tổ chức triển khai, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, đồng thời nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và cả nước [31]. Nhìn vào thực tiễn, không khó để nhận thấy, quản lý văn hóa còn được hiểu là sự tác động chủ quan bằng nhiều hình thức, phương pháp của chủ thể quản lý (các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, các cơ cấu dân sự, các cá nhân được trao quyền và trách nhiệm quản lý) đối với khách thể (mọi thành phần/thành tố tham gia và làm nên đời sống văn hóa) nhằm đạt được mục tiêu mong muốn (bảo đảm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nâng cao vị thế quốc gia, cải thiện chất lượng sống của người dân...). Quản lý văn hóa là tác động có định hướng của hệ thống các cơ quan, tổ chức đến hoạt động văn hóa nhằm xây dựng một nền văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa, sản xuất những sản phẩm văn hóa, dịch vụ văn hóa đáp ứng nhu cầu của con người. Như vậy, quản lý văn hóa thực chất là quản lý phát triển văn hóa, lấy đời sống văn hóa, hoạt động văn hóa cùng với sự vận hành của giá trị văn hóa làm đối tượng quản lý, hướng đến mục tiêu cao nhất là xây dựng văn hóa, phát triển con người. Ngược lại, quản lý văn hóa yếu kém sẽ đưa đến những phức tạp cho việc quản lý phát triển xã hội nói chung. Vì thế, công tác định hướng quản lý văn hóa ngày càng phải được coi như một công việc có tầm quan trọng đặc biệt, lâu dài trong quá trình phát triển đất nước. Trong quản lý văn hóa ở nước ta hiện nay, quản lý nhà nước về văn hóa là một bộ phận cơ bản, quan trọng, đóng vai trò định hướng, định chuẩn và có tác động cực kỳ quan trọng tới sự nghiệp phát triển văn hóa, xây dựng con người. Bởi, quản lý nhà nước về văn hóa là sự quản lý của nhà nước đối với
  • 16. văn hóa, toàn bộ hoạt động văn hóa của quốc gia thông qua quyền lực của nhà nước, thể hiện bằng hiến pháp, cơ chế, chính sách.... nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của nền văn hóa dân tộc. Trong các Văn kiện của Đảng đã chỉ rõ mọi hoạt động văn hóa đều phải nhằm vào việc xây dựng con người Việt Nam mới phát triền toàn diện. Như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX cũng đã khẳng định: “ Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình” [13]. Để thực hiện mục đích cao cả đó, mọi hoạt động văn hóa trong xã hội phải biết tận dụng, phát huy tất cả giá trị văn hóa. Vì vậy, đòi hỏi chủ thể quản lý phải có những chủ trương, chính sách, giải pháp hợp lý để thúc đẩy các hoạt động văn hóa phát triển đúng hướng và đạt hiệu quả tối đa mục đích đã đặt ra. 1.1.2. Trung tâm văn hóa thể thao Thuật ngữ Nhà văn hóa có thể hiểu như sau: “Nhà văn hóa là những thiết chế trung tâm của lĩnh vực công tác văn hóa quần chúng, là nơi diễn ra tổng hợp mọi loại hoạt động văn hóa quần chúng, tùy theo chu kỳ thời gian và theo nhu cầu sở thích văn hóa, nghệ thuật, thể thao, vui chơi giải trí của quần chúng trên từng địa bàn” [28, tr.55-59]. Nhà văn hóa như một tên gọi chung, đại diện cho lĩnh vực hoạt động văn hóa mang tính quần chúng, trực tiếp quần chúng. Từ những năm 1960 - 1993, TTVHTT được quan niệm là một thiết chế thuộc công tác văn hóa quần chúng nên được định danh là NVH. Tuy nhiên sau năm 1993, sau khi kiểm nghiệm một vài mô hình TTVHTT, Bộ VHTT đã ra văn bản về việc thành lập các TTVHTT với quan niệm, công tác NVH là một bộ phận của công tác VHTT cơ sở. Từ đây, các NVH quận huyện bắt đầu phân hóa tên gọi. Có nơi xây mới sẽ gọi theo tên mới, có nơi chuyển đổi thiết kế cũ thành tên mới, có nơi không thay đổi dẫn tới sự khác nhau hiện nay. Không có quy định chuẩn về tiêu chuẩn mặt bằng và thiết bị
  • 17. khiến các NVH có thể được hiểu là thiết chế lớn hơn hoặc nhỏ hơn TTVHTT, do vậy phần lớn các TTVHTT cấp quận huyện hiện nay được định danh theo hướng là một thiết chế không trùng với NVH. TTVHTT như một tên gọi chung, đại diện cho lĩnh vực hoạt động văn hóa mang tính quần chúng, trực tiếp quần chúng. Tên gọi “trung tâm văn hóa thể thao” có thể và đã được biến thể thành nhiều dạng danh xưng khác nhau như: Nhà văn hóa, câu lạc bộ, trung tâm văn hóa, trung tâm văn hóa thông tin thể thao, trung tâm thể thao... Hiểu đơn giản, trung tâm (center) là một địa điểm chính, một điểm tập trung các sinh hoạt văn hóa, vui chơi giải trí, mọi người giao lưu tiếp xúc với nhau vì một nhu cầu sở thích nào đó. Nhưng trong trường hợp là một loại của thiết chế Nhà văn hóa, từ “trung tâm” thường được hiểu là lớn hơn “Nhà”. Trung tâm có nội dung hoạt động lớn hơn, bao gồm nhiều ngành, có cả hoạt động trong nhà và ngoài trời. Chẳng hạn, coi Trung tâm Văn hóa - Thông tin, Trung tâm Văn Hóa - Thể thao, Trung tâm Văn hóa - Du lịch... lớn hơn các Nhà văn hóa truyền thống vốn có ở nước ta trước đây. Dù đặt nhiều tên gọi khác nhau, và dù mỗi mô hình đó đều có nội dung, phương pháp hoạt động chuyên môn khác nhau nhưng chúng vẫn cùng nằm chung phạm trù của lĩnh vực công tác văn hóa đại chúng, văn hóa - giáo dục cộng đồng. Trong điều kiện xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, tất cả các mô hình thiết chế văn hóa đại chúng đó (không riêng TTVHTT) đều có thể mang chung một định nghĩa: “Là những cơ quan giáo dục xã hội chủ nghĩa ngoài nhà trường và tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí” (Bộ VHTT, 2003, tr. 12). Nó sử dụng một hệ thống những biện pháp tổ chức, hướng dẫn và dịch vụ, để đáp ứng nhu cầu hoạt động trong thời gian rỗi (giải trí, học tập và sáng tạo văn hóa phong phú, lành mạnh, khỏe khoắn) cho quần chúng, trên cơ sở đó mà nhằm bồi dưỡng, nâng cao, hoàn thiện nhân cách con người cả về đức, trí, thể, mỹ và năng lực hành động thực tế.
  • 18. nước ta chỉ xây dựng NVH ở xã, phường, còn ở huyện, tỉnh thì xây dựng TTVH, TTVHTT... Theo quy định của Chính phủ thì ở cấp tỉnh xây dựng mô hình TTVH; ở cấp quận, huyện thì lựa chọn xây dựng theo ba mô hình: TTVHTT, trung tâm thể thao hoặc trung tâm văn hóa thông tin; ở cấp xã, phường thì xây dựng NVH. Cụ thể như: Theo Thông tư số 03/2009/TT-BVHTTDL ngày 28/08/2009 của Bộ trưởng Bộ VHTT&DL Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của TTVH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Thông tư số 01 - BVHTT&DL ngày 26/02/2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về quy chế tổ chức các hoạt động văn hóa của tổ chức hoạt động văn hóa sự nghiệp, hoạt động văn hóa trong lĩnh vực VHTT&DL quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc TW. Quy chế này quy định về tổ chức và hoạt động của tổ chức sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là tổ chức sự nghiệp). Quy chế này áp dụng đối với Trung tâm Văn hóa, Trung tâm TDTT, TTVHTT quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Về tên gọi được quy định chung là Trung tâm ... + tên quận, huyện, thị xã, thành phố. Đây là tổ chức sự nghiệp có tư cách pháp nhân, có con dấu, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng theo quy định của pháp luật. Các tổ chuyên môn, nghiệp vụ gồm: Tổ hành chính - tổng hợp thực hiện nhiệm vụ về hành chính - quản trị, tổng hợp; xây dựng kế hoạch, tài chính, kế toán; khai thác, tổ chức các dịch vụ văn hóa, thể thao và du lịch theo chức năng, nhiệm vụ trên cơ sở phát huy hiệu quả năng lực cán bộ, cộng tác viên và cơ sở vật chất của tổ chức sự nghiêp. Tổ văn hóa - văn nghệ thực hiện nhiệm vụ tổ chức các hoạt động văn hóa - văn nghệ, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ về văn hóa -văn nghệ cho cơ sở. Tổ thể dục - thể thao thực hiện nhiệm vụ tổ chức các hoạt động tập luyện, thi đấu thể dục - thể thao, hướng dẫn phong trào thể dục-thể thao cho
  • 19. tuyên truyền lưu động thực hiện nhiệm vụ tổ chức các hoạt động tại chỗ và lưu động về tuyên truyền cổ động, triển lãm; phục vụ các nhiệm vụ chính trị đột xuất, cấp bách, các phong trào, cuộc vận động lớn tại địa phương. Biên chế của tổ chức sự nghiệp do Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định theo định mức biên chế sự nghiệp, căn cứ chức danh và tiêu chuẩn ngạch viên chức chuyên môn. Thông tư số 11 - Bộ VHTTDL ngày 22/12/2010 về Quy định tiêu chí TTVHTT quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh. Về tên gọi được quy định chung là Trung tâm Văn hóa - Thể thao. Diện tích đất được quy hoạch (không kể diện tích của các công trình thể dục thể thao trong nhà và ngoài trời) được áp dụng cho từng vùng miền: Đối với đô thị, đồng bằng diện tích tối thiểu là 5000m2; đối với miền núi, hải đảo diện tích tối thiểu 2500m2. Về quy mô xây dựng: Hội trường tối thiểu 350 chỗ ngồi; phòng làm việc lãnh đạo tối thiểu 10 m2 ; diện tích phòng bộ phận chuyên môn từ 20 – 60 m2 (tùy mục đích sử dụng); công trình thể dục thể thao có ít nhất hai trong số các công trình gồm sân vận động, bể bơi, nhà tập luyện thể thao; Công trình phụ trợ như sân khấu phục vụ tập luyện và biểu diễn nghệ thuật trong nhà tối thiểu 12m x 8m, khu triển lãm, biểu diễn ngoài trời tối thiểu 500m2 , khu dịch vụ, vui chơi giải trí, vườn hoa tối thiểu 800m2 . Về trang thiết bị: Hội trường đa năng phải có đủ bàn ghế tối thiểu cho 350 chỗ ngồi, trang bị âm thanh ánh sáng đủ công suất phục vụ tối thiểu 350 người, đạo cụ trang phục đáp ứng tốt yêu cầu tập luyện và biểu diễn; Dụng cụ tập luyện và thi đấu thể dục thể thao cần đảm bảo theo công trình thể dục thể thao; Phương tiện vận chuyển được trang bị xe ô tô chuyên dùng. Về tổ chức biên chế, lãnh đạo trung tâm gồm 01 giám đốc và không quá 02 phó giám đốc, bộ phận nghiệp vụ có 04 bộ phận là hành chính – tổng hợp, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, đội tuyên truyền lưu động. Biên chế thực hiện theo khoản 3, Điều 4 của Thông tư 01/2010/TT- BVHTTDL ngày 26/02/2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Đối với
  • 20. bộ, cán bộ quản lý phải có bằng Đại học hoặc sau Đại học chuyên ngành Văn hóa, Thể dục thể thao, từ Trung cấp lý luận chính trị trở lên và có thâm niên công tác 03 năm trở lên; cán bộ chuyên môn nghiệp vụ phải được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về Văn hóa; Thể dục thể thao (80% có trình độ Đại học 20% có trình độ Cao đẳng, Trung cấp). Các TTVHTT phải hoạt động theo đúng chức năng nhiệm vụ; Số chương trình hoạt động tại chỗ tối thiểu 20 chương trình trong một năm; Số chương trình hoạt động lưu động tối thiểu 10 chương trình trong một năm; Số buổi hoạt động của Đội Tuyên truyền lưu động tối thiểu 100 buổi trong một năm, số chương trình hoạt động phối hợp, liên kết tối thiểu 06 chương trình trong một năm; Số lớp năng khiếu, ngành nghề chuyên môn được tổ chức trong năm tối thiểu 12 lớp năng khiếu trong một năm; Tối thiểu có 06 cuộc liên hoan, hội thi, hội diễn, hội chợ triển lãm tổ chức trong năm; Số cuộc thi đấu thể thao trong năm tối thiểu 08 cuộc; Các hoạt động hướng dẫn nghiệp vụ cho các TTVHTT cơ sở trong địa bàn như tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ về Văn hóa - Thể thao cho cơ sở tối thiểu 06 lớp một năm và ấn hành tài liệu nghiệp vụ tối thiểu 12 loại tài liệu với 1.800 bản trong một năm; Tổ chức các hoạt động văn hóa, vui chơi giải trí phục vụ trẻ em đạt 30% thời gian hoạt động của trung tâm; Tổng số lượt người đến tham gia, sinh hoạt tại trung tâm tối thiểu 10.000 lượt người/năm. Kinh phí chi theo quy định của pháp luật về đơn vị sự nghiệp do UBND cấp huyện cấp từ ngân sách địa phương hàng năm cho sự nghiệp văn hóa, thể thao và du lịch (thực hiện theo Điều 6 của Thông tư số 01/2010/TT- BVHTTDL ngày 26/02/2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Ở mỗi mục đều có quy định rõ tiêu chí cụ thể và thông tư này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 3 năm 2011. Thông tư số 01 - BVHTT&DL ngày 26/02/2010 Bộ VHTT&DL đi kèm bộ quy chế cụ thể với chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của một TTVHTT huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Còn Thông tư số 11 ngày 22/12/2010 Bộ VHTT&DL chỉ bổ sung thêm tiêu chí cơ sở vật chất và trình độ chuyên môn cán bộ.
  • 21. 271/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống thiết chế văn hóa thông tin cơ sở đến năm 2010. Đối tượng của quy hoạch là các Trung tâm văn hóa – Thông tin hoặc Nhà Văn hóa trung tâm, Trung tâm Thông tin - Triễn lãm cấp tỉnh; Trung tâm văn hóa, Trung tâm Văn hóa - Thể thao cấp huyện; Nhà Văn hóa cấp xã, Nhà Văn hóa thôn, làng, ấp, bản; Cung Văn hoá, Nhà Văn hóa thuộc các Bộ, ngành, lực lượng vũ trang. Hệ thống thiết chế văn hóa thông tin cơ sở là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống thiết chế văn hóa thông tin của cả nước, là công cụ tuyên truyền, vận động sắc bén, sâu rộng tại cơ sở của Đảng, Nhà nước, đồng thời là nơi hưởng thụ, sáng tạo và bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam. Việc củng cố, xây dựng và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa thông tin cơ sở phải đồng bộ; các nhà văn hóa phải bền, đẹp, có kiến trúc phù hợp với từng địa phương và được xây dựng ở vị trí trung tâm, thuận lợi cho sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phải đi đôi với tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ và đổi mới cơ chế quản lý, đảm bảo nội dung hoạt động phong phú, đa dạng, có hiệu quả theo đúng định hướng của Nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để thực hiện xã hội hóa đối với việc xây dựng và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa thông tin cơ sở. Các thiết chế do Nhà nước trực tiếp quản lý phải được tăng cường đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và thực hiện chế độ tự chủ tài chính để thực hiện tốt chức năng hướng dẫn, chỉ đạo. Mục tiêu tổng quát của Quy hoạch là xây dựng và phát triển đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa thông tin cơ sở, khắc phục tình trạng chênh lệch về mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân ở các vùng, miền, khu vực trong cả nước. Tạo sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa thông tin qua việc tổ chức hoạt động, nâng cao chất lượng đời sống văn hoá ở cơ sở. Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa, huy động các nguồn lực nhằm tăng cường cơ sở vật chất, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào thực hiện mục tiêu “Xây dựng và phát triển nền văn
  • 22. tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Phát huy hiệu quả của sự nghiệp văn hoá thông tin cơ sở trong việc xây dựng con người mới có tư tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh, có ý thức đấu tranh chống tư tưởng và hành động phản văn hóa dân tộc. Trong nhiều năm qua, hệ thống các NVH, TTVHTT trong cả nước đã được chú trọng đầu tư. Cơ sở vật chất ngày càng đầy đủ, đồng bộ. Phong trào xây dựng các NVH, nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa thể thao cơ sở ngày càng được tiến hành rộng khắp. Điều này cho thấy, các thiết chế văn hóa này đang từng bước đáp ứng được những nhu cầu ngày một cao của người dân trong thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin hiện nay. 1.2. Khái quát về Trung tâm Văn hóa – Thể thao thành phố Bắc Ninh 1.2.1. Tổng quan về thành phố Bắc Ninh Bắc Ninh là một tỉnh cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, trung tâm xứ Kinh Bắc cổ xưa, mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi có truyền thống khoa bảng và nền văn hóa lâu đời. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Tây và Tây Nam giáp thủ đô Hà Nội, phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía Đông giáp tỉnh Hải Dương. Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có các hệ thống giao thông thuận lợi kết nối với các tỉnh trong vùng như quốc lộ 1A nối Hà Nội - Bắc Ninh - Lạng Sơn; Đường cao tốc 18 nối sân bay Quốc tế Nội Bài - Bắc Ninh - Hạ Long; Quốc lộ 38 nối Bắc Ninh - Hải Dương - Hải Phòng; Trục đường sắt xuyên Việt chạy qua Bắc Ninh đi Lạng Sơn và Trung Quốc; Mạng đường thủy sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình rất thuận lợi nối Bắc Ninh với hệ thống cảng sông và cảng biển của vùng tạo cho Bắc Ninh là địa bàn mở gắn với phát triển của thủ đô Hà Nội, theo định hướng xây dựng các thành phố vệ tinh và sự phân bố công nghiệp của Hà Nội. Đây là những yếu tố rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và giao lưu của Bắc Ninh với bên ngoài. Tỉnh Bắc Ninh có 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện lỵ.
  • 23. Ninh trực thuộc tỉnh Bắc Ninh chỉ cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 30 km, cách sân bay Quốc tế Nội Bài 45 km, cách Hải Phòng 110 km. Thành phố Bắc Ninh gồm 19 đơn vị hành chính.. Vị trí địa kinh tế liền kề với thủ đô Hà Nội, thành phố Bắc Ninh có sức cuốn hút toàn diện về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, giá trị lịch sử văn hoá. Đồng thời, đây cũng là nơi cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ và tiếp thị thuận lợi đối với mọi miền đất nước. Là một thành phố trẻ đang phát triển nhưng giàu truyền thống văn hóa, thành phố Bắc Ninh có điều kiện quy hoạch, xây dựng đô thị bài bản theo hướng hiện đại, phát triển tiềm năng về thương mại dịch vụ, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Những năm gần đây, thành phố Bắc Ninh đã có những bước phát triển vượt bậc, hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị hiện đại, đời sống nhân dân, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao. Vùng đất Kinh Bắc - Bắc Ninh được biết đến là nơi có bề dày truyền thống, lịch sử cách mạng và văn hiến, có nhiều di sản văn hóa nổi tiếng, đặc biệt Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại. Ngay sau khi Dân ca Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã tham mưu cho Tỉnh uỷ, UBND tỉnh tổ chức Festival Bắc Ninh năm 2010. Tại chương trình khai mạc Festival, Bắc Ninh trọng thể tổ chức đón Bằng công nhận dân ca Quan họ Bắc Ninh là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại; Chương trình nghệ thuật “Văn hiến Bắc Ninh - Hội tụ và toả sáng” được dàn dựng công phu, hoành tráng với sự tham gia của hơn 3000 nghệ nhân, nghệ sĩ, diễn viên, học sinh, sinh viên và các liền anh, liền chị Quan họ. Chương trình được truyền hình trực tiếp trên kênh VTV1, VTV4 Đài Truyền hình Việt Nam và đã thu hút hơn 10 vạn khán giả đến trực tiếp xem chương trình [48]. Các năm tiếp theo: 2011, 2012 và 2013, Bắc Ninh tiếp tục tổ chức các Chương trình nghệ thuật “Về miền Quan họ”; năm 2014 tổ chức Chương trình khai mạc Festival, với chủ đề “Hào khí Kinh Bắc - Bắc
  • 24. chất liệu chủ đạo Dân ca Quan họ Bắc Ninh, các chương trình nghệ thuật đã chuyển tải thông tin về vùng đất, lịch sử, văn hóa, con người Bắc Ninh trong quá khứ, hiện tại và tương lai; đồng thời quảng bá, giới thiệu văn hoá Quan họ và dân ca Quan họ Bắc Ninh với bạn bè trong nước và quốc tế. Cùng với đó, ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh đã xây dựng và đưa website (trang mạng) “Dân ca Quan họ Bắc Ninh” vào hoạt động. Đây là một kênh thông tin để tuyên truyền, quảng bá về dân ca Quan họ Bắc Ninh giúp mọi người cập nhật, khai thác, tìm hiểu sâu hơn về văn hoá Quan họ, dân ca Quan họ Bắc Ninh, về truyền thống lịch sử văn hiến của quê hương. Mặt khác, Sở đã phối hợp với Đài Phát thanh & Truyền hình tỉnh tổ chức sản xuất và phát sóng định kỳ hàng tháng chương trình thi giọng hát hay dân ca Quan họ “Đậm đà khúc hát dân ca”. Tổ chức đưa các nghệ sĩ Nhà hát dân ca Quan họ Bắc Ninh, nghệ nhân dân ca Quan họ Bắc Ninh tham gia các chương trình Festival, giao lưu, giới thiệu và quảng bá Dân ca Quan họ Bắc Ninh ở các tỉnh, thành phố trong cả nước; giới thiệu quảng bá dân ca Quan họ Bắc Ninh ở nhiều quốc gia như: Lào, Hàn Quốc, Trung Quốc, Cộng hoà Séc, Pháp... Thực hiện các nội dung cam kết với UNESCO về bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại, tỉnh Bắc Ninh đã có nhiều động thái tích cực trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hoá phi vật thể. Đặc biệt, thực hiện Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị của Di sản văn hoá dân ca Quan họ Bắc Ninh giai đoạn 1 (2010 - 2012)”, Bắc Ninh đã đầu tư gần 37 tỷ đồng, trong đó Trung ương hỗ trợ 13,5 tỷ đồng cho công tác bảo tồn dân ca Quan họ Bắc Ninh [48]. Chính vì vậy, Di sản dân ca Quan họ Bắc Ninh được lan tỏa không còn chỉ ở 44 làng quan họ gốc mà đã mở rộng ra 329 làng Quan họ thực hành với 8.000 người tham gia. Nhiều CLB Quan họ được thành lập và hoạt động có hiệu quả. Hàng năm, diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của tỉnh và thành phố, thu hút một lượng lớn người dân ở các địa phương khác đến tham gia. Thành phố Bắc Ninh hiện có hơn 192 di tích, trong đó có 88 di tích được công nhận là di
  • 25. văn hóa (41 di tích cấp quốc gia, 47 di tích cấp tỉnh) bình quân hàng năm có đến 57 lễ hội tổ chức [48]. Công tác quản lý và tổ chức lễ hội luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền từ thành phố đến cơ sở quan tâm chỉ đạo. Trong đó chú trọng vào một số lễ hội lớn thu hút đông người, có tầm ảnh hưởng tới cộng đồng dân cư và nhiều nét văn hóa đặc sắc như lễ hội khu Ném Thượng (phường Khắc Niệm), lễ hội làng Viêm Xá (xã Hòa Long), lễ hội Đền Bà Chúa Kho (phường Vũ Ninh). Nhìn chung các lễ hội tổ chức chấp hành nghiêm chỉnh theo quy định của Nhà nước, các hoạt động trong lễ hội đảm bảo tiết kiệm, trang trọng và văn minh, cơ bản khắc phục được những tồn tại; xử lý nhiều đối tượng lang thang, ăn xin ăn mày. Công tác xã hội hóa được phát huy, nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ, TDTT, các trò chơi dân gian được tổ chức tại lễ hội. Với quyết tâm cao trong công tác quản lý Nhà nước về di tích và lễ hội nên đến nay lễ hội trên địa bàn thành phố Bắc Ninh thật sự đã có những chuyển biến căn bản trong công tác tổ chức và quản lý lễ hội, đáp ứng nhu cầu không thể thiếu trong sinh hoạt đời sống của nhân dân. Sau khi được nâng cấp lên đô thị loại II, thành phố Bắc Ninh đã không ngừng phát triển và đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên hiện nay văn hóa Bắc Ninh đang chịu tác động mạnh của kinh tế thị trường. Vừa là trung tâm hành chính, vừa là trung tâm kinh tế của tỉnh, thành phố Bắc Ninh thu hút người dân ở mọi thành phần kinh tế về sinh sống. Cơ hội tăng cao thu nhập từ các ngành công nghiệp và dịch vụ đã tạo khoảng cách ngày một rõ rệt so với sản xuất nông nghiệp. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp hiện là hướng đi trọng tâm đưa kinh tế thành phố Bắc Ninh phát triển nhanh, mạnh và vững chắc. Từ những chủ trương và định hướng đúng đắn, thời gian qua bằng sự tập trung lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền thành phố Bắc Ninh và trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển CN-TTCN; thực hiện các cơ chế, chính sách, cải tiến thủ tục hành chính, khuyến khích
  • 26. đãi sau đầu tư, nhờ đó sản xuất CN-TTCN của thành phố Bắc Ninh có những bước phát triển đáng ghi nhận. Thành phố Bắc Ninh đẩy mạnh thu hút đầu tư, xây dựng và phát triển các khu công nghiệp lớn như: KCN Quế Võ (650 ha), KCN Hạp Lĩnh - Nam Sơn (300ha) và 05 cụm công nghiệp làng nghề, thu hút gần 2.000 doanh nghiệp và hàng trăm cơ sở, hợp tác xã sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp đang hoạt động hiệu quả [45]. Công tác quy hoạch và đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị- nông thôn được triển khai tích cực, bộ mặt đô thị ngày càng được đổi mới, nhiều tuyến đường giao thông kết nối nội ngoại thành, các tuyến đường trung tâm được xây dựng mới và nâng cấp; nhiều dự án khu đô thị với quy mô lớn được đầu tư và đưa vào sử dụng như: Vũ Ninh - Kinh Bắc, Hòa Long - Kinh Bắc, Hồ Ngọc Lân III; Khu đô thị mới đường Lê Thái Tổ (khu HUD); Khu đô thị mới Bắc đường Kinh Dương Vương (phường Vũ Ninh); Khu đô thị mới Nam Võ Cường (phường Võ Cường)... Theo đánh giá của các ngành chức năng, mặc dù đứng trước hoàn cảnh khó khăn, thách thức nhưng với nền tảng kinh tế - xã hội cơ bản vững chắc, cùng với nhận thức, đổi mới tư duy, quyết tâm chính trị mạnh mẽ, nỗ lực quyết liệt của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp thành phố, tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Bắc Ninh trong năm 2016 đã đạt được những kết quả tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 11,87%, vượt 0,87% so với kế hoạch. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước tính tăng 13,1% so với năm 2015; giá trị sản xuất CN-TTCN tăng 15,4% so với năm 2015. Thu ngân sách địa phương đạt 1.444,8 tỷ đồng, tăng 19,8% so với năm 2015. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 2,22%, giải quyết việc làm cho 5.315 lao động [2]. Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp dựa trên nền tảng cải thiện môi trường kinh doanh, cơ chế chính sách hỗ trợ, tạo bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực, giải quyết kiến nghị, bảo vệ doanh nghiệp, khuyến khích đổi mới sáng tạo
  • 27. mọi loại hình doanh nghiệp trên địa bàn, nâng cao năng lực cạnh tranh, thích ứng với các hiệp định thương mại và đầu tư thế hệ mới, phát huy vai trò động lực của doanh nghiệp trong phát triển kinh tế. Điểm nổi bật phải kể đến là hoạt động thương mại-dịch vụ, trong thời gian qua mặc dù lượng hàng hóa cung ứng ra thị trường khá đa dạng và phong phú song chỉ số giá (CPI) của tỉnh nói chung và thành phố Bắc Ninh nói riêng khá ổn định và có mức tăng trưởng thấp. Điều đó cho thấy, các doanh nghiệp đã chú trọng hơn tới hiệu quả đầu tư và nguồn tiền Nhà nước kích thích kinh tế cũng đã được sử dụng khá hiệu quả trong các dự án vì vậy hàng loạt các siêu thị hiện đại đã được kinh tế thành phố hấp thụ như: Siêu thị Trần Anh, siêu thị Đabaco, siêu thị Mediamart, siêu thị FPT, siêu thị Viễn Thông A... Công tác an sinh xã hội được quan tâm chú trọng, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm còn 10%, tỷ lệ hộ nghèo còn 2,22% [48]. Hàng năm, giải quyết việc làm cho trên 5000 lao động. Sự nghiệp giáo dục-đào tạo của thành phố Bắc Ninh phát triển toàn diện, ổn định và luôn dẫn đầu phong trào giáo dục-đào tạo toàn tỉnh. Công tác xây dựng nếp sống văn hóa ở thành phố Bắc Ninh trong những năm qua luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể quan tâm chỉ đạo, triển khai thực hiện. Ban chỉ đạo phong trào các cấp từ thành phố đến cơ sở đã tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của mọi người trong việc xây dựng phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; tích cực chỉ đạo, hướng dẫn việc tổ chức thực hiện xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đặc biệt quan tâm đến vấn đề nâng cao chất lượng các danh hiệu văn hóa trong phong trào. Phong trào đã góp phần thúc đẩy phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội của thành phố. Công tác quản lý đô thị đi vào nề nếp, kết cấu kinh tế hạ tầng được tập trung đầu tư xây dựng, đô thị được chỉnh trang. Chương trình chăm lo sức khoẻ cộng đồng, người cao tuổi, các đối tượng chính sách, kế
  • 28. đình, bảo vệ chăm sóc bà mẹ trẻ em được thực hiện tốt. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao. Hệ thống chính trị ở cơ sở được xây dựng và củng cố, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, nhân dân làm chủ, chính quyền điều hành, mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân được tăng cường và ngày càng gắn bó, khối đại đoàn kết được củng cố, quy chế dân chủ ở cơ sở được tổ chức thực hiện tốt. Công tác quốc phòng thường xuyên được tăng cường và củng cố. Tình hình an ninh chính trị trên địa bàn được giữ vững. Các cấp ủy, chính quyền vận động nhân dân chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua các cuộc vận động do Mặt trân Tổ quốc các cấp và các ngành tổ chức như: Tinh thần đoàn kết tương thân, tương tái; giúp nhau phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, giảm nghèo; xây dựng nếp sống văn minh đô thị, môi trường văn hóa lành mạnh, xóa bỏ hủ tục lạc hậu... Hàng năm, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ thành phố căn cứ chương trình của Ủy ban MTTQ tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, triển khai tới Ủy ban MTTQ các xã, phường để thực hiện theo tình hình thực tế của địa phương; kịp thời đề xuất với cấp ủy và phối hợp với chính quyền cùng cấp có các chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo cuộc vận động, phân công nghiệm vụ cụ thể cho các thành viên ban vận động và đôn đốc thực hiện, tập trung chỉ đạo Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ở khu dân cư. 100% khu dân cư của thành phố đều tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó cả 114/114 khu đạt tiêu chí cả phần lễ và phần hội. Qua bình xét năm 2016, toàn thành phố có 39.806 hộ đạt danh hiệu gia đình văn hóa, bằng 92,5%; 100/114 làng, khu phố đạt danh hiệu văn hóa; 15/19 phường, xã đạt danh hiệu “Xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới”, “Phường đạt chuẩn văn minh đô thị”; 180 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa [48].
  • 29. thành phố tập trung lãnh đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đẩy nhanh tốc độ phát triển thương mại, dịch vụ gắn với phục vụ sản xuất tại các khu, cụm công nghiệp, thực hiện tốt công tác chỉnh trang đô thị. Lĩnh vực văn hóa xã hội được đẩy mạnh theo hướng xã hội hóa và chuẩn hóa, chất lượng giáo dục toàn diện ở mức cao, giữ vững là đơn vị trong tốp đầu của tỉnh; công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động được quan tâm, chính sách an sinh xã hội được đảm bảo. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể từ thành phố đến cơ sở bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả; số tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh đạt trên 85%, 05 năm liền Đảng bộ thành phố đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu. Thành phố có 14 tập thể, 07 cá nhân được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Nhất, Nhì, Ba. Thủ tướng Chính phủ tặng Cờ thi đua xuất sắc cho 02 đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua; tặng 14 Bằng khen cho 06 tập thể, 08 cá nhân đạt thành tích tiêu biểu. Chủ tịch UBND tỉnh tặng Cờ thi đua xuất sắc cho 12 đơn vị, danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc” cho 83 tập thể, danh hiệu “Chiến sỹ thi đua cơ sở” cho 09 cá nhân... [47]. Công tác xã hội hóa về hoạt động TDTT ngày càng phát triển, nhiều cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp tích cực đầu tư xây dựng các công trình TDTT hiện đại. Hiện trên địa bàn thành phố có 2 nhà thi đấu, 6 bể bơi, 30 sân quần vợt, 10 sân bóng đá mini thảm cỏ nhân tạo, 14 cơ sở tư nhân mở phòng tập thể dục thể hình có trang bị đầy đủ máy móc, dụng cụ thể thao. Đặc biệt, thành phố còn triển khai lắp đặt nhiều thiết bị luyện tập TDTT tại 43 vườn hoa, công viên, các khu vui chơi giải trí công cộng, phục vụ nhu cầu luyện tập của nhân dân. Nhờ nguồn vốn xã hội hóa, thành phố cũng đưa vào hoạt động hai khu vui chơi giải trí dành cho thiếu nhi tại công viên Nguyễn Văn Cừ và công viên Hoàng Quốc Việt… Thực tế cho thấy, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao trên địa bàn thành phố đã và đang phát huy một cách tích cực vai trò
  • 30. đời sống văn hóa ở khu dân cư, góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, nhất là trong công tác tuyên truyền cổ động trực quan. Mặc dù vậy, phần lớn thiết chế văn hóa, thể thao hiện có của thành phố được xây dựng từ nhiều năm trước đến nay đã lạc hậu, chưa đạt chuẩn theo tiêu chí của Bộ VHTT&DL. Việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho thiết chế văn hóa, thể thao chưa đồng bộ. Sân chơi, bãi tập TDTT cho người dân, nhất là thanh, thiếu niên, nhi đồng còn thiếu… Để tiếp tục đáp ứng nhu cầu thực tiễn của người dân, thời gian tới, thành phố tập trung tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của thiết chế văn hóa trong đời sống xã hội. Trong đó, tăng cường công tác xã hội hóa về phát triển các thiết chế, khu vui chơi giải trí cơ sở; tranh thủ nguồn lực, xây dựng cơ chế chính sách thu hút các nhà đầu tư xây dựng thiết chế văn hóa thể thao cho công nhân ở các khu công nghiệp. Thành phố còn tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện quy hoạch quỹ đất cho các thiết chế như: TTVHTT xã, phường, sân vận động, vườn hoa, công viên, nhà thiếu nhi; tiếp tục rà soát lại các thiết chế văn hóa thôn, khu phố có quy mô nhỏ, chưa đạt chuẩn để có kế hoạch hoán đổi, đầu tư xây dựng địa điểm mới, bảo đảm chuẩn theo tiêu chí, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa và rèn luyện sức khỏe của nhân dân. Đến năm 2020, phấn đấu 100% xã, phường có TTVHTT cấp xã và 100% thôn, khu phố có nhà văn hóa. Một nhiệm vụ quan trọng khác cũng được thành phố chú trọng là tiếp tục lắp đặt các thiết bị thể thao tại vườn hoa, công viên của xã, phường, quy hoạch nhà thiếu nhi thành phố và đầu tư các thiết bị vui chơi cho trẻ em. Song song với việc quan tâm đầu tư về số lượng và quy mô các công trình, thành phố còn có nhiều chính sách nhằm phát huy hiệu quả hoạt động của thiết chế như: Khuyến khích phát triển các CLB để đẩy mạnh phong trào văn hóa, thể thao quần chúng; tăng cường giám sát, kiểm tra việc sử dụng, phát huy tính chủ động, tích cực của người dân và vai trò tự quản của cộng đồng đối với việc bảo quản, gìn giữ các thiết chế văn hóa, thể thao. Thành phố
  • 31. có 3 CLB văn nghệ, 157 CLB Quan họ - đội văn nghệ quần chúng; 8 CLB thể thao cấp thành phố và 209 CLB thể thao cấp cơ sở, thu hút hơn 10 nghìn hội viên tham gia. Tỷ lệ người thường xuyên luyện tập TDTT của thành phố đạt 41% và gia đình thể thao đạt 29,7% [48]. Bên cạnh đó, tiếp tục đổi mới công tác quản lý, đa dạng hóa hình thức tổ chức hoạt động, tăng tính hấp dẫn của các thiết chế. Hàng năm, TTVHTT thành phố đều đặn tổ chức các chương trình văn hóa nghệ thuật phục vụ nhân dân như: Canh hát Quan họ đêm Rằm, chương trình biểu diễn nghệ thuật chèo, cải lương, kịch nói; tổ chức các đợt chiếu phim, liên hoan tiếng hát cán bộ, chiến sỹ, người lao động; liên hoan tiếng hát người cao tuổi, khiêu vũ thể thao… Với sự quan tâm chỉ đạo sát sao cùng quyết tâm của các cấp, ngành, hệ thống thiết chế văn hóa-thể thao trên địa bàn thành phố Bắc Ninh ngày càng hoàn thiện, bảo đảm tiêu chuẩn, đáp ứng cao nhất nhu cầu vui chơi, giải trí, luyện tập TDTT và thưởng thức văn hóa nghệ thuật của đông đảo tầng lớp nhân dân. 1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Trung tâm Văn hóa – Thể thao thành phố Bắc Ninh Cùng với sự phát triển của thành phố Bắc Ninh, các thiết chế văn hóa, thể thao trên địa bàn cũng ngày càng phát triển, hoàn thiện, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân… Từ năm 2004, Thành ủy Bắc Ninh đã ban hành Nghị quyết chuyên đề số 37-NQ/TU về Dành quỹ đất và đầu tư kinh phí xây dựng các công trình văn hóa, thể thao, các điểm vui chơi giải trí. Tính đến hết năm 2016, thành phố có 112/114 nhà văn hóa làng, khu phố được hoàn thành và đưa vào sử dụng; 05 TTVHTT cấp xã, phường. C ông tác đầu tư theo chương trình mục tiêu cho cơ sở về văn hóa hàng năm luôn được quan tâm, có 59 nhà văn hóa được đầu tư với gần 1,5 tỷ đồng [48]. Căn cứ Nghị định số 10/2002/ND - CP, ngày 16/01/2002 của Chính phủ về Chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu; Thông tư Liên
  • 32. - VHTT - TDTT - TCCP, ngày 13/01/1998 của Bộ Văn hóa và Thông tin - Uỷ ban Thể dục thể thao - Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) hướng dẫn về tổ chức văn hóa, thông tin, thể thao ở địa phương; Xét đề nghị của UBND thị xã Bắc Ninh và Ban Tổ chức chính quyền tỉnh tại Tờ trình số 416/TTr - TCCQ, ngày 26/8/2003, quyết định thành lập TTVHTT thị xã Bắc Ninh (nay là TTVHTT thành phố Bắc Ninh), thuộc UBND thị xã Bắc Ninh (nay là UBND thành phố Bắc Ninh). TTVHTT thành phố Bắc Ninh là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc UBND thành phố Bắc Ninh; có tư cách pháp nhân, được sử dụng con dấu và mở tài khoản riêng theo quy định hiện hành của Nhà nước. Trung tâm chịu sự lãnh đạo trực tiếp của UBND thành phố Bắc Ninh, đồng thời chịu sự chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch thành phố Bắc Ninh và các ngành chức năng của tỉnh Bắc Ninh. Trung tâm có tính chất đặc thù của đơn vị sự nghiệp, với nhiệm vụ của cơ quan tham mưu giúp UBND thành phố tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, thư viện và tuyên truyền trên địa bàn thành phố, phục vụ các nhiệm vụ chính trị của địa phương và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trên địa bàn. Trung tâm Văn hóa – Thể thao thành phố Bắc Ninh là đơn vị trực tiếp thực hiện các chỉ thị được đưa ra từ UBND thành phố. Trung tâm với vai trò kết nối giữa chính quyền và địa phương, phổ biến các thông tin, văn bản đường lối của Đảng và Nhà nước đến người dân một cách nhanh nhất và chính xác nhất. Đồng thời trung tâm cũng đóng vai trò hướng dẫn, hỗ trợ các NVH, CLB hoạt động theo đúng chủ trương của lãnh đạo thành phố giao cho. Công tác quản lý các hoạt động tại TTVHTT thành phố Bắc Ninh trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự phối hợp các ban ngành, đoàn thể đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần to lớn trong việc xây dựng, phát triển văn hóa cơ sở tại địa phương.
  • 33. số 807/CV-UBND ngày 22/04/2015 của UBND thành phố Bắc Ninh, TTVHTT thành phố Bắc Ninh được chuyển sang trụ sở mới khang trang hơn tại số 1, Ngô Sỹ Liên, phường Kinh Bắc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Đồng thời trung tâm cũng tiếp quản Nhà trưng bày thân thế và sự nghiệp đồng chí Hoàng Quốc Việt, nằm trong khuôn viên Công viên và đài tưởng niệm đồng chí Hoàng Quốc Việt, đặt tại dốc Suối Hoa, phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Đây là một công trình lớn và có ý nghĩa quan trọng của thành phố. Theo công văn số 807/CV-UBND ngày 22/04/2015 của UBND thành phố Bắc Ninh, công trình TTVHTT thành phố Bắc Ninh (số 01, đường Ngô Sỹ Liên, phường Kinh Bắc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh) được bàn giao cho TTVHTT thành phố Bắc Ninh quản lý, vận hành, sử dụng và lập quy chế. Công trình TTVHTT thành phố Bắc Ninh được thực hiện xây dựng từ năm 2009 trên diện tích đất 38.900m2 , tổng kinh phí 109 tỷ đồng với thiết kế khu nhà 3 tầng, 1 tầng hầm. Trung tâm có 01 hội trường đa năng sức chứa 300 chỗ ngồi được trang bị đầy đủ thiết bị, bàn ghế, máy chiếu, âm thanh, ánh sáng… Các hạng mục quan trọng của công trình như hệ thống điện, nước, âm thanh, ánh sáng, cơ sở vật chất… đều được Sở Xây dựng kiểm định và đánh giá đảm bảo chất lượng. Công trình TTVHTT thành phố Bắc Ninh là công trình có giá trị kinh tế lớn, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần Đảng bộ và nhân dân thành phố Bắc Ninh. Đây cũng là công trình trọng điểm của thành phố được khai thác, vận hành, sử dụng vào dịp: Chào mừng 40 năm Giải phóng hoàn toàn miền Nam - Thống nhất đất nước; Kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; Kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Hoàng Quốc Việt người cộng sản trung kiên, mẫu mực, người con ưu tú của quê hương Bắc Ninh... Đặc biệt công trình chào mừng Đại hội Đảng các cấp - nơi diễn ra đại hội Đảng bộ thành phố Bắc Ninh lần thứ XXI (nhiệm kỳ 2015
  • 34. TTVHTT thành phố trực tiếp quản lý và sử dụng, công trình cũng được giao cho một số phòng ban khác đồng sử dụng. TTVHTT thành phố Bắc Ninh có chức năng phát triển sự nghiệp văn hóa, thể thao của thành phố. Trung tâm thường xuyên tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới người dân thành phố, đảm bảo những nội dung đó được tuyên truyền chính xác và thực hiện có hiệu quả. Trung tâm không chỉ thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của địa phương mà còn có trách nhiệm hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác văn hóa, thể thao ở cơ sở. Đồng thời, là đơn vị tổ chức, cung ứng dịch vụ công; đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao cũng như nhu cầu tiếp nhận thông tin, nâng cao dân trí, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của nhân dân trên địa bàn. Căn cứ chương trình phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của thành phố, trung tâm sẽ xây dựng kế hoạch hoạt động trình Chủ tịch UBND thành phố và tổ chức thực hiện kế hoạch sau khi được phê duyệt. Trung tâm có trách nhiệm tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, tuyên truyền cổ động, đọc sách báo, giải trí, thành lập câu lạc bộ, nhóm sở thích, lớp năng khiếu nghệ thuật, tổ chức các hoạt động TDTT, hướng dẫn kỹ thuật, phương pháp và điều kiện tập luyện cho các tổ chức và cá nhân. Hàng năm, trung tâm đều tổ chức các cuộc liên hoan, hội thi, hội diễn, thi đấu và hướng dẫn phong trào văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao ở cơ sở. Bên cạnh đó, trung tâm cũng tổ chức các hoạt động tác nghiệp chuyên môn, các hoạt động dịch vụ văn hóa, thể thao và các hoạt động dịch vụ khác, nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân địa phương đảm bảo đúng quy định của pháp luật và phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của tổ chức sự nghiệp. Trung tâm cũng tổ chức hợp tác, giao lưu, trao đổi chuyên môn nghiệp vụ và các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao với các đơn vị, tổ chức trong và ngoài tỉnh. TTVHTT
  • 35. nghiêm túc việc quản lý công chức, viên chức, tài chính và tài sản theo quy định của pháp luật, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do UBND thành phố giao. Đối với công tác xây dựng Đảng, cấp ủy cùng với trung tâm đều chỉ đạo tốt về công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên. Luôn chú trọng công tác phát triển đảng viên mới, quy hoạch cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Cấp ủy luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng là then chốt, luôn quán triệt cho cán bộ đảng viên thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các Nghị quyết của TW đều quán triệt cho tất cả cán bộ Đảng viên hiểu rõ, đặc biệt là Nghị quyết TW 4 khóa XI về công tác xây dựng Đảng, Chỉ thị số 03 của Bộ chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Bộ máy tổ chức của TTVHTT thành phố Bắc Ninh hiện nay gồm: 01 Giám đốc, 01 Phó Giám đốc, 01 kế toán và 04 bộ phận chuyên môn nghiệp vụ là: Bộ phận tuyên truyền, bộ phận văn nghệ, bộ phận thể thao và thư viện. Ngoài ra còn có 4 nhân viên bảo vệ và 02 nhân viên lao công. Cho đến thời điểm hiện tại, số lượng công chức, viên chức của TTVHTT thành phố Bắc Ninh gồm 18 người (trong đó có 14 biên chế và 04 hợp đồng dài hạn). Trong đó, có 14 cán bộ là đảng viên. Về trình độ lý luận chính trị, có 02 cán bộ cao cấp, 05 cán bộ trung cấp và 03 cán bộ sơ cấp. Về trình độ học vấn, trung tâm hiện có 01 thạc sĩ, 14 cử nhân, 01 cao đẳng và 02 trung cấp. Nhìn chung đội ngũ công nhân viên chức của trung tâm có kiến thức, trình độ chuyên môn, có bản lĩnh chính trị, có sức khỏe và giàu kinh nghiệm để đáp ứng mọi yêu cầu nhiệm vụ được giao về các hoạt động văn hóa, thể thao trên địa bàn thành phố Bắc Ninh. Trước đây, trung tâm có 02 Phó Giám đốc phụ trách 02 mảng riêng là văn hóa và thể thao. Tuy nhiên, đầu năm 2017, cả 02 Phó Giám đốc đều đã nghỉ hưu. Hiện tại, mới chỉ có 01 Phó Giám đốc được cử về thay thế bên bộ phận Văn hóa, còn bộ phận thể thao hiện vẫn đang trống vị trí này.
  • 36. máy tổ chức của TTVHTT thành phố Bắc Ninh (Nguồn: TTVHTT thành phố Bắc Ninh) Ban lãnh đạo Văn nghệ Thư việnTuyên truyền Thư viện thiếu nhi Thư viện người lớn Nhà trưng bày Hoàng Quốc Việt Văn hóa Thể thao Văn thư Kế toán
  • 37. ý nghĩa của Trung tâm Văn hóa – Thể thao thành phố Bắc Ninh trong đời sống của người dân thành phố Trong những năm qua, ban lãnh đạo trung tâm cùng các ban ngành liên quan luôn tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hóa. Trung tâm đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban ngành làm tốt công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, nhân dân sống và làm việc theo đúng pháp luật, thực hiện theo chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng nếp sống văn minh trong địa bàn thành phố. Cán bộ TTVHTT thành phố Bắc Ninh luôn đảm bảo hoàn thành tốt nhất những nhiệm vụ được giao. Công tác quản lý của trung tâm không ngừng được nâng cao để đảm phù hợp với thực tiễn và yêu cầu công việc. Ban giám đốc trung tâm thường xuyên tổ chức hội ý, lấy ý kiến của các cán bộ trong trung tâm. Sau đó, tổng hợp lại và tham mưu cho cấp trên để hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật, cơ chế chính sách một cách toàn diện và đồng bộ, đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của các cán bộ và người dân. Thực hiện tốt vai trò quản lý các hoạt động của TTVHTT thành phố Bắc Ninh, sẽ góp phần không nhỏ thúc đẩy phong trào văn hóa, văn nghệ trên địa bàn thành phố phát triển sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Trung tâm thường xuyên tổ chức các chương trình nghệ thuật lớn, nhỏ có chất lượng cao với sự tham gia đông đảo của các cơ quan ban ngành, khối đoàn thể và quần chúng nhân dân. Từ đó, tạo phong trào văn nghệ sôi nổi trên địa bàn thành phố, đặc biệt là góp phần gìn giữ làn điệu dân ca quan họ truyền thống, một trong những di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Bên cạnh đó, trung tâm cũng cử những cán bộ có chuyên môn về các cơ sở để hướng dẫn cho từng đơn vị địa phương thực hiện tốt nhất các hoạt động của mình. Trung tâm đã hỗ trợ tối đa cho công tác phát triển văn hóa cơ sở trên địa bàn thành phố Bắc Ninh. Góp phần đa dạng hóa các loại hình hoạt động văn hóa và làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần cho người dân thành phố. TTVHTT thành phố Bắc Ninh đã đáp ứng phần nào nhu cầu sáng tạo, học tập, trao đổi và hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân thành phố. Tạo điều kiện
  • 38. người dân được thường xuyên sinh hoạt, trao dổi thông tin, rèn luyện thân thể, từ đó có sức khỏe để lao động và làm việc, trao đổi học tập kinh nghiệm, thắt chặt thêm tình đoàn kết. Góp phần đưa văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần, vừa là động lực, vừa là mục tiêu phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Trong bối cảnh khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền thông đang có những bước phát triển vũ bão và chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; xu thế hội nhập, toàn cầu hóa, hiện đại hóa đang trở thành xu thế phát triển tất yếu của mọi quốc gia; để giúp cho dân tộc Việt Nam có đủ bản lĩnh, năng lực tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới, thích ứng với sự đa dạng, thay đổi nhanh chóng, thì việc duy trì, phát triển thành quả của “Văn hóa Đọc” đã đạt được ở giai đoạn 2011 – 2020 là hết sức cần thiết để đến năm 2030, Việt Nam sẽ hình thành một “Xã hội Đọc”, một thế hệ đọc mới, với xu hướng đọc lành mạnh, bổ ích, biết giữ gìn, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa, tinh tuý của các dân tộc khác trên thế giới, của thời đại để làm giàu thêm cho cuộc sống của chính bản thân mình và của quốc gia, dân tộc. Thư viện TTVHTT thành phố Bắc Ninh cũng đang đóng một vai trò không nhỏ trong việc đưa “Văn hóa Đọc” phát triển sâu rộng trong cộng đồng dân cư. Thư viện trung tâm hiện đang thu hút một số lượng đông đảo người đọc tại thành phố, đặc biệt là lứa tuổi thanh thiếu niên. Mỗi tháng, trung bình thư viện cấp phát hơn 100 thẻ đọc mới và đón khoảng 15 đến 20 bạn đọc mỗi tuần. Số lượng thẻ được cấp mới đang ngày một tặng lên, chứng tỏ sự quan tâm của người dân thành phố đối với văn hóa đọc đang ngày một lớn mạnh. Với sự nỗ lực không ngừng nghỉ, cán bộ TTVHTT thành phố Bắc Ninh đang từng bước làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội. Vừa nâng cao dân trí, vừa tạo ra đời sống tinh thần lành mạnh trong cộng đồng dân cư thành phố, TTVHTT thành phố Bắc Ninh đã và đang hoàn
  • 39. trò của mình, đúng với mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đặc biệt, trung tâm cũng làm tốt vai trò kết nối giữa Đảng, Nhà nước với người dân trên địa bàn thành phố, định hướng cho người dân hiểu và làm đúng theo những chủ trương mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Tiểu kết Trong chương 1, tác giả chủ yếu làm rõ một số khái niệm liên quan đến quản lý hoạt động văn hóa thể thao, đưa ra một số văn bản pháp lý có liên quan. Từ đó tìm ra chiến lược xây dựng và phát triển văn hóa đồng thời cho thấy cơ sở lý luận là tiền đề để thấy rõ nội dung và phương diện chính của quản lý ở góc độ khoa học. Tác giả đã đi sâu tìm hiểu về đời sống kinh tế văn hóa của người dân thành phố Bắc Ninh, để từ đó làm căn cứ cho những phương hướng sau này. Tác giả cũng đã nêu được vai trò và ý nghĩa của TTVHTT thành phố Bắc Ninh, từ đó thấy được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng quản lý tại trung tâm, nhằm phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày một cao của đại bộ phận người dân thành phố. Tuy nhiên, hầu hết mới chỉ là những nghiên cứu về mặt lý thuyết và những góc nhìn bên ngoài trung tâm. Tác giả vẫn cần những nghiên cứu chuyên sâu hơn về thực trạng hoạt động và cách quản lý của TTVHTT thành phố Bắc Ninh. Để từ đó, đưa ra những giải pháp thiết thực, phù hợp với thực tiễn tại trung tâm.
  • 40. CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM VĂN HÓA - THỂ THAO THÀNH PHỐ BẮC NINH 2.1. Các hoạt động của Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh 2.1.1. Tuyên truyền cổ động Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân cũng từng bước được nâng cao. Bởi vậy, công tác xây dựng văn hóa cơ sở đang được đặc biệt quan tâm và chú trọng. Trong đó, hoạt động tuyên truyền đóng một vai trò không nhỏ, góp phần thực hiện hiệu quả và phát huy cao nhất tính tích cực, chủ động trong quá trình quản lý và triển khai các chính sách xây dựng văn hóa. Trong những năm qua, công tác tuyên tuyền, vận động luôn được Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh quan tâm và triển khai thực hiện thường xuyên trên cả chiều rộng lẫn chiều sâu, nhằm mục tiêu làm cho cán bộ, nhân dân hiểu rõ về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức như: tuyên truyền thông qua các buổi giao lưu văn hóa, văn nghệ, họp tổ dân phố, sinh hoạt của các chi hội, tuyên truyền miệng, qua hệ thống truyền thanh cơ sở, hệ thống panô, áp phích, hội thi tìm hiểu kiến thức pháp luật, các buổi tọa đàm, tuyên truyền lưu động... Trung tâm cũng không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng chương trình nghệ thuật tổng hợp ca, múa, nhạc kịch, tuyên truyền miệng, cổ động trực quan, tuyên truyền Nghị quyết đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các sự kiện chính trị của tỉnh và đất nước trong đó tập trung tuyên truyền: Thực hiện pháp luật, an toàn giao thông, phòng chống ma túy, dân số, môi trường, chủ quyền biển đảo, chống diễn biến hòa bình, thông tin đối ngoại... Trung tâm VHTT còn thường xuyên tham mưu với UBND thành phố xây dựng kế hoạch chỉ đạo, hướng dẫn công tác tuyên truyền, cổ
  • 41. những sự kiện chính trị, các ngày lễ lớn, những hoạt động của tỉnh cũng như của thành phố. Công tác tuyên truyền được chỉ đạo, triển khai thông suốt từ thành phố đến cơ sở, hình thức tuyên truyền ngày càng được mở rộng từ các hội nghị triển khai quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến các phương tiện thông tin đại chúng, cổ động trực quan bằng pa nô, khẩu hiệu... Nội dung tuyên truyền khá toàn diện và phong phú, tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm như: “Kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam”, “Chào mừng xuân mới”, “Tuyên truyền kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam và Quốc tế lao động 1/5”, “Kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh”, “Tuyên truyền công tác đền ơn đáp nghĩa kỷ niệm ngày thương binh liệt sỹ 27/07”, “Tuyên truyền kỷ niệm ngày giải phóng thành phố Bắc Ninh”, “Kỷ niệm Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2/9”, Tuyên truyền kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam”, “Kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11” và nhiều ngày lễ lớn khác trong năm. Các hoạt động khác của tỉnh và thành phố cũng được trung tâm hoàn thành tốt như: “Tuyên truyền trật tự an toàn giao thông”, “Tổ chức trang trí tuyên truyền phục vụ Đại hội Đảng các cấp”, “Tuyên truyền vệ sinh môi trường”, “Tuyên truyền vệ sinh môi trường phòng chống tệ nạn xã hội”, “Tuyên truyền phục vụ Đại hội Đảng các cấp”, “Trang trí tuyên truyền phục vụ bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp”, “Tuyên truyền Liên hoan ca múa nhạc thành phố Bắc Ninh”, “Trang trí tuyên truyền giải Bóng bàn các nhóm tuổi thành phố Bắc Ninh”, “Tuyên truyền công tác Tuyển quân - lễ giao nhận quân”.... và các hoạt động tuyên truyền khác. Mặc dù đạt được khá nhiều những thành tích đáng kể trong công tác tuyên truyền tại thành phố, nhưng bộ phận tuyên truyền của TTVHTT thành phố Bắc Ninh hiện nay vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn. Trong đó phải kể đến đầu tiên là vấn đề hạn chế về kinh phí hoạt động. Mỗi năm trung tâm phải
  • 42. 20 - 25 chương trình chủ đề (trong đó có 3 - 5 chương trình lớn), phải cắt dán từ 200 - 300 khẩu hiệu qua đường, cắt treo từ 700 - 800m2 pano… trong khi đó máy cắt của cơ quan mua từ năm 2004 quá cũ, không có phụ kiện thay thế, máy in chưa có nên phải đi thuê rất tốn kém. Công tác tuyên truyền là công tác chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong trung tâm nhưng số lượng cán bộ còn ít, thậm chí còn phải kiêm nhiệm thêm các công việc khác như văn thư, quản lý nhà trưng bày, gây ảnh hưởng không nhỏ tới công tác tuyên truyền nói chung. Công tác tuyên truyền là một trong những yếu tố quan trọng trong việc định hướng thông tin cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tiếp nhận chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Bởi vậy, phải nâng cao hơn nữa nhận thức của cấp ủy các cấp, đội ngũ cán bộ về vị trí, vai trò của công tác chính trị tư tưởng, công tác tuyên truyền, vận động. Đưa công tác tuyên truyền vào nghị quyết, chương trình, kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng, các cấp, các ngành, các tổ chức quần chúng để hiện thực hóa quan điểm “tuyên truyền là một bộ phận rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng và cả hệ thống chính trị”. Củng cố, tăng cường lực lượng tuyên truyền viên cơ sở theo hướng lựa chọn những người có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực thực sự với số lượng hợp lý thay thế những người không đủ chuẩn, năng lực hạn chế yếu kém trong hoạt động tuyên truyền miệng. Phối hợp chặt chẽ với Mặt trận và các tổ chức đoàn thể, gắn tuyên truyền với các phong trào thi đua ở đơn vị, cơ sở. Nhất là chủ động tuyên truyền gương điển hình trong “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời động viên, khen thưởng, nhân rộng những cách làm, mô hình hay trong công tác tuyên truyền; chủ động đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, các tin đồn thất thiệt, gây hoang mang dư luận, làm mất an ninh trật tự ở địa phương. Cải tiến phương thức hoạt động của Đội thông tin Lưu động tạo sự linh động, hấp dẫn nhằm
  • 43. truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân kịp thời; tổ chức phục vụ có hiệu quả các ngày lễ kỷ niệm lớn của đất nước. Trung tâm vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, tuyên truyền vận động nhân dân tích cực tập luyện TDTT, phát triển các Câu lạc bộ Thể dục – Thể thao thế mạnh của địa phương. 2.1.2. Nhà trưng bày về thân thế và sự nghiệp của đồng chí Hoàng Quốc Việt Tháng 5 năm 2015, UBND thành phố Bắc Ninh giao cho Trung tâm Văn hóa - Thể thao thành phố Bắc Ninh tiếp nhận và quản lý “Nhà trưng bày thân thế, sự nghiệp đồng chí Hoàng Quốc Việt”, công trình nằm trong khuôn viên Công viên và tượng đài Hoàng Quốc Việt. Tượng đài và Công viên Hoàng Quốc Việt được UBND tỉnh Bắc Ninh phê duyệt dự án từ tháng 10 năm 2003 với tổng giá trị xây lắp gần 20 tỷ đồng trên diện tích hơn 30.000 m2 thuộc đồi Ông Sáu, thành phố Bắc Ninh. Nhà trưng bày thân thế và sự nghiệp đồng chí Hoàng Quốc Việt được xây dựng trong khu vực công viên, tượng đài Hoàng Quốc Việt với vị trí địa lý đắc địa, được xây dựng khang trang và bắt đầu đưa vào sử dụng từ năm 2015. Bên trong nhà trưng bày là khối tư liệu, hiện vật quý bao gồm 100 bức ảnh gia đình, hơn 400 bức ảnh sưu tầm, 30 trang tài liệu bằng tiếng Pháp, 18 hiện vật thể khối và 70 cuốn sách liên quan đến đồng chí Hoàng Quốc Việt do dòng họ Hạ Việt Nam, con cháu trong gia đình, cơ quan Việt Nam Thông tấn xã, Bảo tàng lịch sử Quốc gia, Bảo tàng Hồ Chí Minh và Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh bàn giao cho UBND thành phố Bắc Ninh. Trong số này, đáng chú ý có nhiều kỷ vật quý đã gắn bó mật thiết với đồng chí Hoàng Quốc Việt lúc sinh thời cũng như trong quá trình hoạt động cách mạng như: Gia phả dòng họ, quần, áo, khăn tay, đài rađiô, đồng hồ, hộp mực, bút viết, nồi đồng, bát ăn cơm, chén uống nước, đèn dầu hỏa… Ban giám đốc đã cử 01 đồng chí cán bộ thuộc bộ phận tuyên truyền của trung tâm