A. TRUYỆN NGỤ NGÔN
I. KHÁI NIỆM VÀ NGUỒN GỐC TRUYỆN NGỤ NGÔN
1. Khái niệm:
Truyện ngụ ngôn là truyện kể có tính chất thế sự, dùng cách ẩn dụ để thuyết minh cho một chủ đề luân lý, triết lý một quan niệm nhân sinh hay một nhận xét về thực tế xã hội
2. Nguồn gốc truyện ngụ ngôn
Một bộ phận truyện ngụ ngôn bắt nguồn từ truyện loài vật. Trong quá trình sống gần gũi với tự nhiên và chưa hoàn toàn tách mình ra khỏi tự nhiên, người cổ đạị đã từng quan sát, tìm hiểu các con vật(để dễ săn bắt và tự vệ) . Cũng do sự phân biệt giữa con người và tự nhiên chưa rõ ràng nên người ta đã gán cho mọi vật tính cách của con người. Truyện loài vật ra đời trên cơ sở đó. Khi con người có ý thức mượn truyện loài vật để nói về con người thì truyện ngụ ngôn xuất hiện.
Truyện ngụ ngôn có liên quan đến cách nói bằng hình tượng của nhân dân. Trong cách nói của mình, nhân dân thường dùng những sự vật cụ thể, những so sánh, ví von để diễn đạt cái trừu tượng( chẳng hạn cách nói ngu như bò, nhanh như cắt…Khi lối nói tỉ dụ về sự vật, con vật cụ thể nầy chuyển thành tỉ dụ có tính chất thế sự thì truyện ngụ ngôn ra đời.
II NỘI DUNG TRUYỆN NGỤ NGÔN:
1. Truyện ngụ ngôn có nội dung đã kích giai cấp thống trị.
Truyện ngụ ngôn được nhân dân dùng làm vũ khí đấu tranh chống giai cấp thống trị. Bộ phận truyện này nêu lên được những nhận xét sâu sắc về tầng lớp thống trị trong xã hội cũ: đó là thói ngang ngược của kẻ quyền thế (Khi chúa sơn lâm ngả bệnh) tội cướp của hại người (Chèo bẻo và ác là) thói đạo đức giả của chúng (Mèo ăn chay).
2 . Truyện ngụ ngôn phê phán thói hư tật xấu của mọi người.
Truyện ngụ ngôn cũng là tiếng nói giáo dục, phê bình nhắm vào các thói hư tật xấu của con người như: thói huênh hoang đi kèm với bệnh chủ quan (Ếch ngồi đáy giếng) , tính tham lam vô độ (Người nông dân và con lừa , Thả mồi bắt bóng) thói đoán mò của người kém hiểu biết (Cà cuống với người tịt mũi).
3. Triết lý dân gian trong truyện ngụ ngôn.
Truyện ngụ ngôn nêu lên những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn cuộc sống. Những kinh nghiệm nầy tuy chưa là ý niệm triết học đích thực nhưng là những bài học bổ ích. Chẳng hạn, truyện ngụ ngôn khuyên con người nên đứng đúng vị trí của mình (Qụa mặc lông công) , sống cần có lập trường (Ðẽo cày giữa đường) tác hại của óc xa rời thực tế (Chị bán nồi đất) nêu lên sức mạnh của sự đoàn kết (Chuyện bó đũa).
Có những kinh nghiệm sống của nhân dân đã được truyện ngụ ngôn khái quát lên thành những quan niệm triết học. Ðó có thể là quan niệm về tính tương đối của sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội (Mèo lại hoàn mèo) sự vận động và phát triển của thế giới theo qui luật khách quan…Chính vì vậy mà so với cổ tích và truyện cười thì truyện ngụ ngôn thiên về giáo dục hơn.
III. MẤY NÉT VỀ THI PHÁP TRUYỆN NGỤ NGÔN
1. Cốt truyện và kết cấu:
Truyện ngụ ngôn là câu chuyện kể có tính chất thế sự . Tuy nhiên cốt truyện của truyện ngụ ngôn khác với cổ tích ở chỗ: Cuộc đời trong ngụ ngôn gần với hiện thực hơn trong khi cuộc đời trong cổ tích gắn với lý tưởng và ước mơ
Kết cấu truyện ngụ ngôn thường ngắn, ít tình tiết thường mỗi truyện chỉ một tình tiết trong khi câu chuyện cổ tích thường có đầu có đuôi. Nét đặc biệt trong kết cấu của truyện ngụ ngôn là phần truyện kể nổi lên còn phần ý nghĩa lắng đọng lại mà người đọc tự rút ra.
2. Nhân vật:
Nhân vật trong ngụ ngôn rất đa dạng, có thể là bất cứ cái gì trong vũ trụ: từ con người , thần linh đến loài vật, cây cỏ …Nhân vật trong truyện ngụ ngôn được xây dựng qua sự đối lập giữa thông minh và ngu ngốc, tốt bụng và xấu xa, bé nhỏ và to lớn (Voi và kiến) Tác giả dân gian cũng dùng biện pháp phủ định để khẳng định trong xây dựng nhân vật ngụ ngôn (Ðẽo cày giữa đường)
3. Biện pháp ẩn dụ:
Truyện ngụ ngôn thường dùng những ẩn dụ thông qua ngôn ngữ hàm súc. Tác giả dân gian còn miêu tả đặc điểm phổ biến của các con vật để biểu trưng cho con người . Từng con vật tiêu biểu cho từng loại người trong xã hội. Chẳng hạn, cáo xảo quyệt, mèo giả dối …
Nói về ca dao hài hước, châm biếm, có ý kiến cho rằng: “Cùng với truyện cười về sinh hoạt, những bài ca dao hài hước,...”. Bằng hiểu biết của mình về ca dao hài hước, châm biếm Việt Nam, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên
Posted in Lớp 12 On Tuesday, May 7, 2019Nói về ca dao hài hước, châm biếm, có ý kiến cho rằng: “Cùng với truyện cười về sinh hoạt, những bài ca dao hài hước, châm biếm đã thể hiện tập trung các nét đặc trưng của nghệ thuật trào lộng Việt Nam nhằm tạo ra tiếng cười giải trí và phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người đáng cười trong xã hội”. Bằng hiểu biết của mình về ca dao hài hước, châm biếm Việt Nam, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
Ca dao hài hước, châm biếm chiếm một vị trí đáng kể trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
Trích dẫn ý kiến trên.
II. Thân bài
1. Nội dung cảm xúc và chủ đề của ca dao Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Bên cạnh những bài ca dao yêu thương, tình nghĩa và những bài than thân, còn khá nhiều bài ca dao hài hước, châm biếm.
- Góp phần tạo nên tiếng cười trong văn học dân gian có truyện cười, hò, vè sinh hoạt...; những bài ca dao châm biếm, hài hước góp thành một mảng riêng, đặc sắc.
2. Tiếng cười trong ca dao hài hước, châm biếm mang đặc trưng của nghệ thuật trào lộng dân gian. Tiếng cười trong nghệ thuật dân gian khác với tiếng cười trong các loại hình nghệ thuật bác học. Tiếng cười ấy khỏe khoắn, gắn bó với đời sống hằng ngày của dân lao động; có sự hồn nhiên, tươi vui để giải trí, giải khuây cho chính người lao động, nhưng đôi khi cũng mang tính chất phê phán các thói hư tật xấu, những đối tượng đáng cười trong xã hội.
3. Tiếng cười mang tính giải trí trong ca dao hài hước, châm biếm:
Đời sống của người dân Việt ngày xưa vất vả, khó nhọc, tiếng cười cất lên nhằm làm cho cuộc sống tươi vui, đỡ nhọc nhằn. Nó không nhằm phê phán, đả kích ai.
- Một kiểu nói khoác cho... vui vẻ:
Ở đâu mà chẳng biết ta?
Ta con ông Sấm, cháu bà Thiên Lôi.
Xưa kia ta ở trên trời,
Đứt dây rơi xuống làm người trần gian.
- Trong nội bộ nhân dân, nếu cần chê, người dân quê tặng cho một tiếng cười, cười nhưng không ai giận, chẳng ai ghét:
Bắc thang lên đến cung mây,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây đa cả đời?
Cuội nghe thấy nói, Cuội cười:
- Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc đa.
4. Tiếng cười mang tính phê phán trong ca dao hài hước, châm biếm:
Người dân lao động phải vất vả quanh năm nhưng lại bị áp bức, khổ cực. Trái lại, nhiều kẻ ăn trắng mặc trơn đóng vai “phụ mẫu” của dân rồi sống bằng sự lừa lọc những người cả tin..., kẻ không đáng gì mà ra vẻ đạo đức... Nhân dân phê phán tất cả những hiện tượng, con người ấy.
- Nhẹ nhất là những trường hợp nhát gan, lười biếng, siêng ăn nhác làm:
Làm trai cho đáng nên trai
Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào.
Làm trai cho đáng nên trai
Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng.
- Những người làm nghề bói toán, lợi dụng sự cả tin của người khác:
Hòn đất mà biết nói năng,
Thì thầy địa lí hàm răng chẳng còn.
- Cao hơn nữa là địa chủ, quan lại phong kiến:
Từ nay tôi kệch đến già,
Tôi chẳng dám cấy ruộng bà nữa đâu.
Ruộng bà vừa xấu vừa sâu,
Vừa bé hạt thóc, vừa lâu đồng tiền.
Từ ngày Tự Đức lên ngôi:
Cam chẳng thấy nồi, trẻ khóc như ri.
Bao giờ Tự Đức chết đi,
Thiên hạ bình thì lại dễ làm ăn.
5. Tiếng cười trong ca dao hài hước, châm biếm nói riêng không có những hình thức nghệ thuật mang tính ước lệ của văn chương bác học. Rất hiếm khi gặp điển cố, điển tích trong ca dao dân ca. Nếu có, đó là những điển tích ai cũng biết, ai cùng hiểu. Trái lại, ca dao hài hước, châm biếm sử dụng nhiều thủ pháp quen thuộc để tạo nên tiếng cười:
- Đối lập:
Nói thi đâm năm chém mười,
Đến bữa tối trời chẳng dám ra sân.
- Ngoa dụ:
Làm trai cho đáng lên trai,
Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng.
- Chơi chữ:
Anh hùng là anh hùng rơm,
Ta cho mồi lửa hết cơn anh hùng.
Các hình thức nghệ thuật trên thường kết hợp với nhau để tạo nên cách nói mỉa mai châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, hoặc cần thiết thì đả kích không thương xót.