1. Cơ sở phân loạiPhân loại các ngôn ngữ theo quan hệ loại hình là cách phân loại ngôn ngữ theo cấu trúc và chức năng của chúng. Kết quả phân loại cho ta những loại hình ngôn ngữ. Loại hình ngôn ngữ không phải là một ngôn ngữ cụ thể nào, cũng không phải là một tổng hoặc một tập các ngôn ngữ. Loại hình ngôn ngữ là tổng thể của những đặc điểm hoặc thuộc tính về cấu trúc và chức năng vốn có của các ngôn ngữ thuộc nhóm đó, phân biệt nhóm đó với các nhóm ngôn ngữ khác. Trong mỗi ngôn ngữ có thể thấy ba nhóm thuộc tính: thuộc tính phổ quát, tức là thuộc tính chung, vốn có đối với tất cả các ngôn ngữ thế giới, thuộc tính riêng biệt là thuộc tính chỉ có ở ngôn ngữ đó, thuộc tính loại hình là thuộc tính đặc trưng cho từng nhóm ngôn ngữ nhất định. Thuộc tính loại hình được dùng làm tiêu chuẩn để quy định vị trí của một ngôn ngữ nao đó trong khi phân loại. Show Nguồn tham khảoSửa đổi
Liên kết ngoàiSửa đổi
ngôn ngữ học đối chiếu
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.25 KB, 63 trang ) 1 ngữ “đối chiếu, đối sánh” thường được dùng để chỉ phương pháp hoặc phân ngành nghiên cứu lấy đối tượng chủ yếu là hai hay nhiều ngôn ngữ. Mục đích của nghiên cứu là làm sáng tỏ những nét giống và khác nhau hoặc chỉ làm sáng tỏ những nét khác nhau mà thôi. Nguyên tắc chủ yếu là nguyên tắc đồng đại. 2. Ngôn ngữ học đối chiếu là gì? Như chúng ta đã biết, Ngôn ngữ học là ngành khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ cụ thể nói riêng. Ngôn ngữ học đối chiếu là một phân môn của ngôn ngữ học ưu tiên sử dụng phương pháp đối chiếu các ngôn ngữ với nhau để tìm ra sự giống và khác nhau giữa chúng nhằm phục vụ cho những mục đích lý luận và thực tiễn. 3. Vị trí của ngôn ngữ học đối chiếu trong hệ thống các bộ môn ngôn ngữ học Ngôn ngữ học NNH mô tả NNH so sánh NNH đại cương NNHSSLS NNHKV LHH PN NNHĐC Ngôn ngữ học Nghiên cứu so sánh Ngôn ngữ học 3 4. Mục đích ý nghĩa của việc nghiên cứu ngôn ngữ học đối chiếu 4.1. Đối với ngôn ngữ học đại cương Nhờ kết quả của ngôn ngữ học đối chiếu, ngôn ngữ học đại cương trong nhiều trường hợp có thể điều chỉnh, bổ sung và kiểm chứng các khái niệm, phạm trù VD: phạm trù loại trong lịch sử nghiên cứu của ngôn ngữ học đối chiếu cho rằng phạm trù này đồng nhất với phạm trù logic ví như danh từ đồng nhất với phạm trù sự vật, động từ đồng nhất với phạm trù hành động Có thời kỳ, đồng nhất phạm trù này với phạm trù hình thái Có sự nhầm lẫn như vậy là vì tại từng thời kỳ các cứ liệu của ngôn ngữ học đối chiếu chỉ khái quát hoá nên được những kết luận như vậy. 4.2. Đối với ngôn ngữ học mô tả Ngôn ngữ học mô tả có nhiệm vụ là nghiên cứu cấu trúc hệ thống của ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp). Ngôn ngữ học đối chiếu có tác dụng nhất định đối với ngôn ngữ học mô tả: - Cung cấp cứ liệu cần thiết cho ngôn ngữ học mô tả. - Kiểm định xem sự mô tả có chính xác hay không? Ví dụ những cứ liệu đối chiếu cho thấy trong các ngôn ngữ đơn lập, nhiều ngôn ngữ có thanh điệu nên khi ta được nghe một ngôn ngữ nào đó mới lạ, ta có thể pháp đoán ngôn ngữ đó có thanh điệu hay không? 4.3. Đối với loại hình học Nhiệm vụ của loại hình học là so sánh đối chiếu ngôn ngữ để phân loại về mặt loại hình còn ngôn ngữ học đối chiếu không có nhiệm vụ như vậy, nhưng trong nhiều trường hợp, các cứ liệu của ngôn ngữ học đối chiếu cho phép kiểm chứng, bổ sung, làm sáng tỏ hơn những đặc điểm của loại hình học. Ví dụ nghiên cứu loại hình âm tiết của TV trong đối chiếu với ngôn ngữ châu Âu. Dù mục đích phải là phân loại loại hình học nhưng vẫn phải so sánh TV với ngôn ngữ châu Âu để nghiên cứu và đưa ra kết luận. 4.4. Đối với dịch thuật Ngôn ngữ học đối chiếu cung cấp những cơ sở dữ liệu về đối chiếu, những hiểu biết về mối quan hệ giữa tương đồng và dị biệt giữa các ngôn ngữ, những phương pháp, thủ pháp để chuyển đơn vị của ngôn ngữ này thành dạng thức tương đương trong ngôn ngữ khác. Mỗi quan hệ giữa dịch thuật và ngôn ngữ học đối chiếu là mối quan hệ tự nhiên. Dịch thuật tìm kiếm và xác lập mối quan hệ chuyển dịch đơn vị văn bản ở ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ khác. Dịch thuật và ngôn ngữ học đối chiếu cùng làm việc với hai ngôn ngữ. Ngôn ngữ học đối chiếu cũng dựa vào các cứ liệu dịch thuật để đối chiếu. 4.5. Đối với dạy học ngoại ngữ 4 Ngôn ngữ học đối chiếu có tác dụng giúp người dạy và học ngoại ngữ dễ dàng hơn trong việc định hướng giáo trình, giáo án, SGK, từ đó giúp cho việc dạy và học ngoại ngữ đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, NNHĐC còn giúp cho việc biên soạn từ điển đặc biệt là từ điển song ngữ. Nhờ có kiến thức của ngôn ngữ học đối chiếu, có thể phân tích, nhận diện và đề ra cách sửa chữa những lỗi mà người học ngoại ngữ thường gặp. Có hai loại lỗi: - Lỗi giao thoa (liên ngôn): interlingual error: người học ngoại ngữ đối chiếu tiếng mẹ đẻ với ngoại ngữ và áp dụng nó vào ngoại ngữ hai, tạo nhiều lỗi liên ngôn. - Lỗi nội ngôn (intralingual error) do chưa nắm vững cấu trúc hay từ vựng của ngoại ngữ. II. Sự ra đời và phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu 1. Khái quát về sự ra đời của ngôn ngữ học đối chiếu Những nghiên cứu đối chiếu đầu tiên trong ngôn ngữ học đã xuất hiện từ rất lâu, đặc biệt là vào thời kỳ có nhiều phát kiến mới về địa lý, thời kỳ phát triển mạnh về khoa học kỹ thuật và đặc biệt là từ những năm 70 trở lại đây. Có hàng loạt nguyên nhân thúc đẩy sự ra đời và phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu, trong đó có thể kể đến các nguyên nhân chủ yếu sau: 1.1. Nguyên nhân xã hội (nguyên nhân bên ngoài): Sự phát hiện ra các vùng đất mới, cộng đồng người mới, nhiều quốc gia độc lập được hình thành và đi kèm theo là nhiều ngôn ngữ mới được phát hiện. Lượng thông tin văn hoá và sự giao lưu của các nền văn minh, văn hoá thành văn tăng lên với tốc độ đáng kể. Điều này đưa đến đòi hỏi to lớn của việc dạy và học ngoại ngữ, của việc giải quyết tình trạng song ngữ, việc xây dựng cơ sở lý luận và giải quyết công việc dịch thuật và hàng loạt công việc thực tế ngôn ngữ khác. 1.2. Nguyên nhân thuộc về nội bộ ngôn ngữ học (nguyên nhân bên trong) Khả năng to lớn của con người nói chung và các nhà ngôn ngữ học nói riêng đã phát hiện và bao quát một lúc nhiều ngôn ngữ khác nhau, tìm hiểu, giải quyết nó theo những mục đích, định hướng xác định. Các phân tích, lý giải “đơn ngữ luận”, dù đạt nhiều thành tựu to lớn, vẫn không thể tiến xa hơn nếu không phát triển các nghiên cứu lý luận “đa ngữ luận”, một hướng nghiên cứu lý giải có sức bao quát sâu rộng hơn nhiều. Nhu cầu kết hợp của những nghiên cứu lý luận và giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, trực tiếp trong nội bộ ngôn ngữ học. Chính những nguyên nhân và cũng là những đòi hỏi chính yếu chỉ ra trên đây đã tạo ra những tiền đề thực tế cho sự ra đời và phát triển của 5 ngôn ngữ học đối chiếu. 2. Các thời kỳ phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu Cho đến nay, nhìn một cách tổng quát, nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ có thể chia thành ba thời kỳ phát triển với những đặc điểm sau: 2.1. Thời kỳ đầu Ngôn ngữ học so sánh-lịch sử ra đời và phát triển tập trung vào thế kỷ XIX nhưng thời kỳ đầu của ngôn ngữ học đối chiêú được coi là bắt đầu từ khoảng thế kỷ XIV và kết thúc vào khoảng thế kỷ XIX khi ngôn ngữ học so sánh-lịch sử ra đời. Thời kỳ này nghiên cứu chủ yếu: từ điển, các bộ sưu tập ngôn ngữ và một số công trình có định hướng so sánh đối chiếu ngôn ngữ. Về từ điển đối chiếu: từ điển song, đa ngữ bắt đầu được biên soạn. Ví dụ: năm 1520, cuốn từ điển đối chiếu 7 ngữ của Capelimo (người ý), năm 138 Giextne (Thuỵ Sĩ) soạn từ điển 12 ngữ. Ngoài ra các bộ sưu tập đối chiếu ngôn ngữ: có một số bộ sưu tập ngữ liệu, có một số bộ còn so sánh giữa một số ngôn ngữ. Ví dụ: năm 1554, Caninurse: so sánh ngôn ngữ chính của họ Smith, năm 1564, Henry II phát triển công trình: “Sự khác biệt giữa tiếng Pháp và tiếng Hy Lạp” Trong lĩnh vực ngữ pháp, có nhiều công trình đề cập đến so sánh đối chiếu ngôn ngữ như ngữ pháp phổ quát và duy lý của Port-Royal (1660) đề cập đến xác lập và xây dựng những quy tắc phổ quát của ngôn ngữ dựa trên tiếng Pháp, tiếng Hy Lạp, tiếng Latin 2.2. Thời kỳ thứ hai (cuối thế kỷ VXIII đến cuối thế kỷ XIX) Đây là thời kỳ của ngôn ngữ học so sánh-lịch sử và triết học ngôn ngữ thế kỷ XIX. Nét đặc trưng của thời kỳ này là nghiên cứu đối chiếu bị cuốn hút và hoà vào dòng thác nghiên cưú so sánh-lịch sử. Những nghiên cứu lý luận và những vận dụng thực tiễn rộng lớn của nó vẫn được tiến hành song chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Trong giai đoạn này, ranh giới giữa các loại nghiên cứu so sánh-lịch sử, loại hình, đối chiếu chưa thực sự được phân biệt rạch ròi. Dần dần về sau người ta mới xác định được một sự phân giới có ý thức. Chính những tri thức về phân kỳ lịch sử ngôn ngữ học nói chung và ngôn ngữ học so sánh-lịch sử, loại hình học nói riêng đã cho thấy điều đó. Chẳng hạn như nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ rõ rằng đến nửa đầu thế kỷ XIX ngôn ngữ học mới được tách thành một ngành khoa học độc lập nhờ sự phát triển mạnh mẽ của ngôn ngữ học so sánh-lịch sử. Song ngôn ngữ học so sánh-lịch sử cũng thể hiện sự khác nhau ở ba thời kỳ phát triển: thời kỳ đầu khoảng từ những năm 1816-1870, thời kỳ thứ hai khoảng từ những năm 1871-1916, và thời kỳ thứ ba từ năm 1917 đến nay. Như vậy là đến nửa cuối thế kỷ XIX, ngôn ngữ học so sánh-lịch sử mới xác định được phạm vi đối tượng, phương pháp nghiên cứu riêng để trở thành một phân ngành độc lập theo như lời nhận xét của Enghen: “Ngôn ngữ học nghiên cứu so sánh-lịch sử có được cái nền tảng lịch sử của nó”. Nghiên cứu đối chiếu trong quan hệ với nghiên cứu so sánh-lịch 6 sử và loại hình ở giai đoạn đầu của sự phát triển ngôn ngữ học đã góp phần vào các nghiên cưú so sánh chung nhiều ngôn ngữ mà không phân biệt đó là so sánh phổ hệ, loại hình hay đối chiếu. 2.3. Thời kỳ thứ ba (thế kỷ XX đến nay) Thế kỷ XX, ngôn ngữ học phát triển rực rỡ với nhiều khuynh hướng khác nhau không chỉ ở ngôn ngữ học mô tả mà cả ở ngôn ngữ học lý thuyết. Sau lý thuyết FDS, ngôn ngữ học truyền thống trở thành một ngành khoa học riêng, trong đó có ngôn ngữ học đối chiếu. FDS là người đã nghiên cứu sự phân giới ngôn ngữ và lời nói, lịch đại và đồng đại, hệ thống và cấu trúc Đầu thế kỷ XX, dưới ảnh hưởng của tư tưởng Saussure, người ta nhận thấy cần phải tách biệt nghiên cứu đồng đại và lịch đại , cần tách ngôn ngữ học đối chiếu ra khỏi ngôn ngữ học. Sau chiến tranh thế giới thứ 1 và 2, nhiều quốc gia mới ra đời, nhu cầu giao lưu về kinh tế văn hoá phát triển mạnh và ngôn ngữ học đối chiếu đòi hỏi phải tách ra và trở thành một bộ môn lý luận riêng và có những nghiên cứu riêng của nó. Cùng với ngôn ngữ học đối chiếu, loại hình học cũng được tách ra từ ngôn ngữ học so sánh lịch sử. Đặc điểm của giai đoạn này: ngôn ngữ học đối chiếu phát triển đa dạng và theo nhiều hướng: - Tách ra khỏi ngôn ngữ học so sánh lịch sử và loại hình học. - Phát triển theo nhiều hướng, nhiều mục đích khác nhau. 5. Một số công trình tiêu biểu 3.1. Các công trình tiêu biểu Đối chiếu để mô tả làm rõ hơn đặc điểm của một ngôn ngữ này so với ngôn ngữ khác mà không nhằm mục đích so sánh: Ngôn ngữ học đối chiếu và một số vấn đề tiếng Pháp của S.Bally; Ngữ pháp tiếng Nga đối chiếu với tiếng uzơbếch của Polivanov. Đối chiếu nhằm giải quyết những vấn đề về loại hình học, phân loại loại hình học: công trình của các nhà loại hình học, kết hợp đối chiếu để phân loại theo các đặc điểm nhất định: tác phẩm của Sapir, Skalitka, Greenberg. 3.2. Các công trình trong những năm gần đây Những năm 80 trở đi ngôn ngữ học đối chiếu phát triển mạnh mẽ, đề cập tới các lĩnh vực của ngôn ngữ từ những vấn đề chung nhất (tu từ, phong cách, văn hóa ngôn ngữ). Các công trình: - Jacek Fisiak: Constractive Linguistics 1984 - Carl James: Constractive Analysis 1986 - Karezowsleij: Constracting Languagé 4. Ngôn ngữ học đối chiếu ở Việt Nam Ngôn ngữ học đối chiếu phát triển từ những năm 1960, đặc biệt là trong mấy chục năm trở lại đây. Các cơ sở nghiên cứu và giảng dạy như các trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Ngoại ngữ, 7 Phân viện Puskin ở Hà Nội đã có nhiều nghiên cứu ứng dụng. Về lí luận gắn với hai giáo trình: - Lê Quang Thiêm: Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ -1989; Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ - 2004. - Nguyễn Văn Chiến – Ngôn ngữ học đối chiếu và đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam á. Hiện nay, Ngôn ngữ học đối chiếu ở Việt Nam tập trung vào đối chiếu: - Tiếng Việt và các ngôn ngữ Châu Âu. + Những năm 80: tiếng Việt và tiếng Đông Âu. + Những năm 90: tiếng Việt và tiếng Anh, Pháp - Tiếng Việt và các ngôn ngữ khu vực (Nhật, Hàn ) - Tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc. Câu hỏi thảo luận bài 1 1. Hãy nêu (phân tích) những đặc điểm của NNHĐC? - NNHĐC là gì? - Mục đích của NHĐC - Phạm vi, đối tượng Tất cả những điểm trên khác nghiên cứu khác như thế nào? 2. Phân tích những ứng dụng thiết thực của NCĐC vào ngôn ngữ. - tìm giống và khác nhau giữa ngôn ngữ được đối chiếu - ứng dụng 3. Hãy nêu một ví dụ NCĐC về một hiện tượng từ đó nêu ích lợi của NCĐC (ĐC từ vựng, ĐC ngữ âm, ĐC ngữ pháp) 8 PHẦN II: ĐỐI CHIẾU NGỮ ÂM -ÂM VỊ Bài 1: Đối chiếu nguyên âm Việt-Anh I.Khái quát chung về nguyên âm 1. Định nghĩa nguyên âm (vowel) Về mặt ngữ âm học (phonetics) nguyên âm (vowel) là âm được phát ra tiếng thanh, nghĩa là âm mà khi phát âm luồng hơi phát ra ngoài một cách tự do, có âm hưởng dễ nghe, êm ái. Nguyên âm có đặc trưng âm học với tần số xác định, ví dụ như âm [a] phân biệt với âm [e], âm [i]. Về mặt âm vị học (phonology) thì nguyên âm là đơn vị của hệ thống âm vị của ngôn ngữ. Nguyên âm có vai trò làm hạt nhân của âm tiết (syllable), ví dụ như trong từ một âm tiết “cat, but”. Cả hai âm bình diện ngữ âm học và âm vị học nguyên âm phân biệt với phụ âm (consonant). 2. Phân loại nguyên âm Nguyên âm có nhiều loại: - Nguyên âm đơn như: [a], [e], [e], [o], [u] - Nguyên âm đôi (dipthong) [ie], [uo] - Nguyên âm ba (triphthong) [ei], [ai] Trong hệ thống ngữ âm của một ngôn ngữ vừa có bán nguyên âm vừa có phụ âm thì cũng có âm kết hợp giữa hai loại ấy. Đó là bán nguyên âm (semi-vowel) hay bán phụ âm (semi-consonant) –(Bán nguyên âm là các nguyên âm không làm đỉnh âm tiết, còn gọi là “phi âm tiết tính” do đó được phát âm lướt đi và thành một âm nửa xát) Nguyên âm và nói chung hệ thống nguyên âm của một ngôn ngữ có đặc điểm gì là do phụ thuộc vào đặc điểm cách phát âm và hệ thống ngữ âm-âm vị của ngôn ngữ đó quy định. Dưới đây ta sẽ xác định cơ sở đối chiếu và thực hiện đối chiếu hệ thống nguyên âm trong tiếng Việt với hệ thống nguyên âm trong tiếng Anh để thấy rõ những đặc điểm của chúng. 3. Cơ sở đối chiếu ngữ âm âm vị, cơ quan cấu âm (vocal apparatus) 3.1. Cơ quan cấu âm: Các âm của tiếng nói được phát ra nhờ cơ quan cấu âm bao gồm những bộ phận như hình dưới đây. Môi (lip) Yết hầu (pharynx) - môi trên (upper lip) Thanh quản (larynx) - môi dưới (lower lip) Ngạc cứng (hard palate) Răng (teeth) Ngạc mềm (soft palate) - răng trên (upper teeth) Lợi (alveolar ridge) - răng dưới (lower teeth) Lưỡi (tongue) - đầu lưỡi - mặt lưỡi - gốc lưỡi 3.2. Các bộ phận chính 9 1. Răng (teeth) gồm răng trên (upper teeth), răng dưới (lower teeth) chúng nằm ở mặt trước miệng. Khi phát âm lưỡi tiếp xúc với răng tạo ra nhiều âm, những âm này thường gọi là âm răng. 2. Lợi (alveolar ridge) đây là bộ phận giữa đỉnh răng và ngạc cứng. Có những âm phát được do lưỡi tiếp xúc với điểm này (đỉnh răng hoặc lợi) như [t] và [d] thường được gọi là phụ âm bật hơi. 3. Môi (lip) gồm môi trên (upper lip) và môi dưới (lower lip). Các bộ phận này giúp phát âm các âm như [b], [m], [f] thường gọi là âm môi. 4. Lưỡi (tongue) là cơ quan có nhiều bộ phận tham gia phát âm như đầu lưỡi (tip), mặt lưỡi (blade), lưỡi trước (front), lưỡi sau (back), gốc lưỡi (root), tiểu thiệt, nắp đóng ở thanh quản (epiglottis). Những bộ phận này cũng tham gia cấu tạo nhiều âm mà có thể hình dung như sơ đồ sau: 5. Ngạc mềm (soft palace hoặc velum) là vị trí có thể cho không khí qua mũi và qua miệng. Bình thường nó ở vị trí thông thoáng, nhưng khi nói nó có thể nâng cao lên làm cho không khí thoát qua mũi. Nó cũng làm bộ phận có thể tiếp xúc với lưỡi. Chẳng hạn khi ta phát các âm [k],[g] là phụ âm ngạc. Ngạc mềm (soft palace) phân biệt với ngạc cứng (hard palace). Ngạc cứng là bộ phận cao trong khoang miệng. Đây là bộ phận đối diện mặt trên của lưỡi. 6. Yết hầu (pharynx) là một ống phía trên thanh quản. Đối với người Anh: nữ dài khoảng 7 cm, nam 8 cm; người Việt Nam có thể ngắn hơn. Đỉnh của nó chia ra hai phần, một phần ra sau lên khoang mũi (nasal cavity) phần khác dẫn vào khoang miệng (mouth cavity). Sáu bộ phận chính miêu tả trên là cơ quan chủ yếu tạo ra âm thanh lời nói của con người. Người bình thường, người Việt hay người Anh cũng dùng những bộ phận này để cấu âm (articulation) để phát ra các âm lời nói. Trong các bộ phận đó có 3 khoang quan trọng cần chú ý: - Khoang mũi dùng tạo ra âm mũi - Khoang miệng cũng có vai trò tạo ra âm thanh khi mở rộng, hẹp nhưng bản thân nó không làm thành một bộ phận tự tiếp xúc với bộ phận khác, tức bộ phận cấu âm. - Khoang thanh hầu (pharyngeal cavity) được xem như một bộ phận cấu âm độc lập hay tổ hợp tạo ra nhiều âm lời nói. 6. Cơ sở xác định nguyên âm về mặt ngữ âm học 4.1. Cơ sở của sự phân loại Để miêu tả nguyên âm cần xác định hộp cộng hưởng miệng (khoang miệng), cũng đồng thời xác định hộp cộng hưởng yết hầu (khoang yết hầu). Đây là nguồn gốc thay đổi âm sắc (timbre) của tiếng thanh (voice) do dây thanh tạo nên. Sự khác nhau giữa nguyên âm này với nguyên âm khác là sự khác biệt về âm sắc của cùng một tiếng thanh. Khái niệm âm sắc: âm thanh ngôn ngữ cũng như hầu hết các âm thanh tự nhiên đều là phức hợp của một âm trầm nhất (có tần số thấp nhất) - âm cơ bản và một loạt âm cao hơn (có tần số bằng bội số lần âm cơ bản) –hoạ âm. Âm sắc được tạo nên do mối tương phản giữa âm cơ bản và các hoạ âm về cao độ và cường độ. Tập hợp các âm này khi đi qua 10 các khoang ở phía trên thanh hầu sẽ chịu sự cộng hưởng. Như đã thấy trong hình 1, các khoang miệng và khoang yết hầu là nơi do sự hoạt động của lưỡi, của môi nên luôn có khả năng thay đổi hình dáng, thể tích, lối thoát của không khí; và vì vậy có khả năng cộng hưởng khác nhau. Mỗi lần thay đổi mối tương quan giữa âm cơ bản với các hoạ âm về cao độ và cường độ là một lần thay đổi âm sắc, là một lần ta có một nguyên âm khác. Sự khác nhau của các nguyên âm như vậy rốt cuộc là bị phụ thuộc vào các nhóm hoạ âm khác nhau do nhận được sự cộng hưởng khác nhau của các khoang trên thanh hầu. Mỗi nguyên âm có những đặc điểm riêng về mối tương quan giữa âm cơ bản với các hoạ âm tức là âm cơ bản với âm sắc. Khi phân tích các âm cần tìm cách xác định hộp cộng hưởng (khoang) miệng và cộng hưởng (khoang) yết hầu. Cụ thể hơn, người ta dựa vào độ mở của miệng, vị trí của lưỡi và hình dáng của môi để miêu tả nguyên âm. 4.2. Các tiêu chuẩn để phân loại nguyên âm Tiêu chuẩn 1: Độ nâng của lưỡi (độ mở của miêng)- lưỡi nâng cao hay thấp/miệng mở hay khép quyết định quan trọng đến thể tích hộp cộng hưởng. Căn cứ vào độ mở (độ nâng) khác nhau mà ta có các nguyên âm khác nhau. Nguyên âm rộng (hoặc cao) như [a], [e], nguyên âm hẹp (hoặc thấp) như [i], [u]. Tiêu chuẩn 2:Vị trí của lưỡi- lưỡi đặt trước, giữa hoặc sau cho ta biết hình dáng hộp cộng hưởng như thế nào. Tuỳ theo sự xê dịch, tức là phần trước lưỡi đưa lên ra phía trước hoặc phần sau lưỡi nâng lên lùi về phía sau, mà ta có nguyên âm khác nhau. Đó là phân biệt giữa nguyên âm trước như [i], [ê], [e]; nguyên âm sau như [u], [ô] hay [o]; nguyên âm giữa như [ư] trong “từ” hay [ ] trong “bird” tiếng Anh, “tơ” trong tiếng Việt. Tiêu chuẩn 3: Hình dáng của môi – môi tròn hay không tròn quyết định đến lối thoát của không khí của hộp cộng hưởng. Khi hai môi chúm tròn và nhô ra phía trước ta có nguyên âm với âm sắc trầm. Đó là những âm tròn môi như [u], [o]; ngược lại hai môi ở thế bình thường hoặc nhành ra khi phát âm thì ta có những nguyên âm không tròn môi như [a], [i], [e] Cách miêu tả và tên gọi như trên là nêu những đặc trưng nguyên âm về mặt cấu âm, tức là về mặt sinh lý học. Khi so sánh các nguyên âm người ta cũng nêu lên những đặc trưng âm thanh của chúng, ví dụ như nguyên âm bổng, nguyên âm trầm, nguyên âm trung hoà. Đây là cách nêu đặc trưng nguyên âm xét về mặt âm học. Cách này không chú ý đến cách cấu âm mà chỉ tập trung vào hiệu quả của âm học để phân loại. Cách chú ý mặt đặc trưng âm học cũng có nhiều cái lợi. Có khi hai âm có cách cấu âm khác nhau mà đem lại hiệu quả âm học như nhau. Trong ngôn ngữ nào có sự phân biệt 3 loại âm sắc: bổng,trầm, và trung hoà thì chỉ cần nêu lên những đặc trưng ngữ âm là đủ. Trường hợp nếu 11 cần đi sâu tìm nguồn gốc âm sắc trung hoà thì mới tìm. Đó là nguyên âm sau nhưng không tròn môi, đó là nguyên âm trước nhưng tròn hay đó là nguyên âm giữa. Người ta nhận thấy nguyên âm sau bao giờ cũng có âm sắc trầm, nguyên âm trước bao giờ cũng có âm sắc bổng. Tính chất tròn môi làm cho nguyên âm kém trầm so với tròn môi, còn nguyên âm giữa bao giờ cũng kém bổng so với nguyên âm trước và kém trầm so với nguyên âm sau. Cũng như vậy hiệu quả của âm học là âm lượng lớn do độ mở của hàm rộng, độ nâng của lưỡi thấp, ngược lại là nguyên âm có âm lượng nhỏ. Trở lên ta mới nói về một số đặc trưng âm sắc để miêu tả nguyên âm. Sự phân biệt nguyên âm còn ở đặc điểm thời gian phát âm gọi là trường độ. Tiêu chí này dùng để phân biệt nguyên âm dài và nguyên âm ngắn. Sự phân biệt về âm sắc là về chất, sự phân biệt trường độ là về lượng. Nó cũng rất quan trọng giúp ta miêu tả hệ thống ngữ âm, chẳng hạ “bit” (i ngắn), “beat” (i dài) trong tiếng Anh. Đây cũng là cơ sở không thể bỏ qua khi phân tích miêu tả, đối chiếu. 6.3. Sự phân loại các nguyên âm Theo tiêu chuẩn 1 các nguyên âm được chia thành 4 nhóm: Nhóm 1: nhóm nguyên âm thấp/mở khi miệng mở rộng, lưỡi hạ thấp như: /a/ trong “ma, ba” /ε/ trong “me, be” trong tiếng Việt /ổ/ trong “bat, man” / / trong “hot, gone” trong tiếng Anh Nhóm 2-3: nhóm nguyên âm thấp vừa (cao vừa) hay mở vừa (khép vừa) khi miệng mở rộng vừa, lưỡi hạ thấp vừa như: /e/ trong “bê, mê” /o/ trong “bô, mô” trong tiếng Việt /e/ trong “bet, yes” /3:/ trong “bird, purse” trong tiếng Anh Nhóm 3: Nhóm nguyên âm cao/hay khép khi miệng khép, lưỡi nâng cao như: /i/ trong “mi, bi” /u/ trong “bu, mu” / / trong “sư tử” /i:/ trong” “beat, mean” /u:/ trong “food, soon” - Theo tiêu chuẩn 2 các nguyên âm được chia thành 3 nhóm: Nhóm 1: lưỡi đặt phía trước cho ta nhóm nguyên âm hàng trước như: /i, e, ε/ trong tiếng Việt và /i, e, ổ/ trong tiếng Anh Nhóm 2: lưỡi đặt ở giữa cho ta nhóm nguyên âm hàng giữa như: “ы” trong tiếng Nga /Λ/ /3:/ trong tiếng Anh / , , / trong tiếng Việt. Nhóm 3: lưỡi đặt ở phía sau cho ta nhóm nguyên âm hàng sau như: /u,o,כ/ trong tiếng Việt hay /υ:, כ:, / trong tiếng Anh. - Theo tiêu chuẩn 3 các nguyên âm được chia thành 2 nhóm: Nhóm 1:nhóm nguyên âm tròn môi (khi phát âm phải tròn môi) /u,o,כ/ trong tiếng Việt /υ:,o,כ:, / trong tiếng Anh Nhóm 2: nhóm nguyên âm không tròn môi (khi phát âm không tròn môi) 12 /i, e,ε, , , / trong tiếng Việt /i,e, ổ, Λ / trong tiếng Anh. Trên thực tế, việc phân loại các nguyên âm phải dựa đồng thời vào cả ba tiêu chí trên và nếu cần phải dùng đến cả các tiêu chí phụ. 7. Cơ sở xác định các âm về mặt âm vị học Âm vị là đơn vị có chức năng khu biệt nhỏ nhất của mặt biểu đạt của ngôn ngữ. Nó là đơn vị trừu tượng được ghi thành chữ viết. Phần trên chúng ta đã nêu một số đặc điểm cấu âm-âm học như vô thanh, hữu thanh, âm sắc, hoạ âm, tròn môi, không tròn môi, dài, ngắn Những đặc trưng này ngôn ngữ nào cũng có. Song trong mỗi ngôn ngữ, mỗi cộng đồng xã hội thì đặc trưng đó được dùng như thế nào để biểu hiện nghĩa, để khu biệt nghĩa. Chẳng hạn hai từ “ta” và “to” đều có nghĩa thì chúng khác nhau là do [a] và [o] vì [t] chỉ là một. Cái đặc điểm khác nhau giữa [a] và [o] để cho từ “ta” khác với từ “to” trong tiếng Việt là có giá trị ngôn ngữ học, tức là có chức năng khu biệt xã hội; cũng như vậy nét phân biệt âm dài/ngắn của [i] trong “bit” và [i:] trong “beat” và có giá trị phân biệt nghĩa trong tiếng Anh. Cái đặc trưng có giá trị khu biệt (ta/to; bit/beat) ở trên gọi là sự khu biệt âm vị học. Sự khu biệt đó gồm có một nét (dài/ngắn) hoặc nhiều nét (hơi khép, hàng sau đối với [o] so sánh với [a] Việt) gọi là nét khu biệt âm vị, và nét có giá trị khu biệt đó được gọi là nét đặc trưng thoả đáng âm vị học. 5.1. Nói đến sự khu biệt âm vị học, nét khu biệt âm vị học là nói về mặt xã hội do từng cộng đồng ngôn ngữ quy định. Mặt cấu âm-âm học (mặt tự nhiên) của ngữ âm do con người phát ra ngôn ngữ nào cũng có, còn cái nào trong mặt tự nhiên đó được dùng vào để biểu nghĩa, để phân biệt đơn vị có nghĩa (từ, hình vị) là mặt xã hội lại do từng ngôn ngữ quy định và có tính quy luật. Cái đặc trưng ngữ âm nào đó được coi là nét khu biệt là có tính quy ước, tính xã hội. Cho nên việc có mặt hay vắng mặt một số nét nào đó trong cấu tạo âm thanh sẽ quyết định sự khu biệt hình thức biểu đạt đơn vị có nghĩa khác nhau. Ví dụ như sự phân biệt âm [a] và [o] trong tiếng Việt và [i] và [i:] trong tiếng Anh dẫn trên cho thấy mỗi âm có thể khác nhau một nét hoặc vài nét khu biệt. Vậy cũng có nghĩa là: âm vị là đơn vị được tổ hợp từ một số nét khu biệt. Như vậy có thể hiểu hình thức biểu đạt bằng âm thanh của từ hay hình vị được phân biệt nhờ âm vị, còn bản thân âm vị lại được nhận diện nhờ những nét khu biệt. Nghiên cứu, phân tích hệ thống âm vị của một ngôn ngữ chính là phát hiện cho ra những nét khu biệt đã được sử dụng trong ngôn ngữ đó. Tổng hợp những nét đó ở từng âm vị để xác định âm vị, rồi hệ thống âm vị của các ngôn ngữ là công việc của âm vị học miêu tả. 5.2. Âm vị có tính chất trừu tượng còn âm tố (sound) có tính chất cụ thể vì nó bao gồm cả những nét khu biệt lẫn nét không khu biệt. Âm vị là đơn vị của hệ thống ngôn ngữ còn âm tố là đơn vị âm thanh nhỏ nhất của lời nói. Âm tố có thể tách ra về mặt cấu âm và thường tương ứng với âm vị. Nói đến âm vị là nói đến chức năng khu biệt có tính xã hội. Trong phân 13 tích nguyên âm nhiều trường hợp 2 hoặc 3 âm tốđi liền nhau có chức năng phân biệt như một âm vị. Đó là các nguyên âm đôi (dipthongs), nguyên âm ba (triphthongs), đây là trường hợp hai, hoặc ba âm tố mới ứng với một âm vị. Nguyên âm đôi hoặc nguyên âm ba cũng cần phân biệt mặt âm vị học và mặt ngữ âm học, tức là có nguyên âm đôi, ba ngữ âm học. Nói đến âm vị là nói đến đặc điểm ngữ âm của ngôn ngữ cụ thể. Chẳng hạn như hiện tượng nguyên âm đôi, chỉ có trong tiếng Việt, tiếng Anh mà lại không có trong tiếng Pháp, hoặc là nguyên âm ba chỉ có ở tiếng Anh mà tiếng Việt, theo các giả t huyết âm vị hoặc hiện thời, lại không có loại nguyên âm này. 5.3. Âm vị bao giờ cũng hiện thực hoá bằng âm tố cụ thể. Âm tố là những âm phát ra và được cảm thụ bằng thính giác. Bất kì âm nào được dùng trong lời nói đều là âm tố. Có một số âm tố thể hiện âm vị này, lại có một số âm tố thể hiện âm vị khác. Nói cách khác, khi nghe một số âm nào đó người ta tri nhận chúng là sự thể hiện của một âm vị này, khi nghe một số âm khác người ta tri nhận chúng là sự thể hiện của âm vị khác. Tất cả những âm tố cùng thể hiện một âm vị là biến thể âm vị. Khi đối chiếu phân tích, ta chú ý trước hết ở âm vị (bất biến thể) rồi mới đến biến thể. 6. Hình thang nguyên âm chuẩn (cardinal vowel) Các nguyên âm chuẩn có thể được hình dung khái quát trên hình thang nguyên âm sau: - ba vạch đứng biểu thị ba hàng nguyên âm: trước, giữa, sau - bên trái mỗi vạch đứng ghi kí hiệu các nguyên âm không tròn môi; bên phải mỗi vạch đứng ghi kí hiệu các nguyên âm tròn môi. - Theo chiều cao của vạch thẳng đứng từ trên xuống người ta thường chia ra làm 4 bậc, 4 bậc ấy tương ứng với 4 khả năng thay đổi độ nâng của lưỡi và các nguyên âm được ghi tuỳ thuộc vào những mức độ nâng lên của lưỡi mà vị trí của nó được thể hiện trên 4 vạch ngang đó. Trước/đóng Giữa Sau (front/ close) (central) (back) i 8 u 1 Half close e (Nửa đóng) 2 7 o Half open ε 3 6 (nửa mở) 4 5 a Mở (open) a Hình 3 Đi vào chi tiết một số nguyên âm trên hình thang ta thấy: 14 - nguyên âm chuẩn (1) ký hiệu /i/ là nguyên âm hàng trước, đóng (close) đến mức cao nhất chỉ đủ mức cho không khí vừa phát ra âm thanh - nguyên âm chuẩn (5) /a/ hàng sau lại mở (open) cao nhất khi phát âm. - nguyên âm chuẩn (8) /u/ dòng sau lại đóng cao nhất - nguyên âm (4) /a/ là hàng trước và mở cao nhất. Từ 4 nguyên âm ở 4 cực (đỉnh) (1), (4), (5), (8) ta dễ dàng xác định được các nguyên âm chuẩn, những điểm còn lại như nguyên âm chuẩn, những điểm còn lại như nguyên âm chuẩn số (2),(3), (6), (7); đồng thời với các nguyên âm chuẩn này khi được lấy làm căn cứ, ta có thể dễ dàng xác định, mô tả, phân loại nguyên âm trong ngôn ngữ cụ thể. Ví dụ với nguyên âm chuẩn (1) /i/ ta biết âm /i:/ trong “see” hoặc với âm /a/ số (4) ta xác định được nguyên âm / ổ / trong “cat” tiếng Anh và /i:/ , / ổ / được xem là những nguyên âm thứ cấp. Việc miêu tả phân loại nguyên âm cũng còn căn cứ vào vị trí của lưỡi, hình dáng của môi khi nó tương ứng với hàng trước hay hàng sau. Chẳng hạn như phẩm chất tròn môi hàng sau của âm hoặc dẹt môi hàng trước của nguyên âm. Có thể nói hình dáng của môi, vị trí của lưỡi là có nhiều nét khác nhau ở các vị trí khác nhau. Chúng ta cần chú ý chỉ ở 3 khả năng sau để dễ miêu tả: - Nguyên âm tròn môi, hai môi chụm tròn đưa ra, trước rồi lùi lại sau, điển hình như âm chuẩn (8) /u/. - Nguyên âm dẹt, xoè môi ra, hai môi di động giống như khi cười, điển hình như âm chuẩn (1) /i/. - Nguyên âm trung hoà, âm này môi không hẳn tròn cũng không hẳn dẹt. Từ những cơ sở, tiêu chí, nguyên tắc trên ta sẽ tiến hành đối chiếu nguyên âm Việt-Anh tiếp sau. II. Đối chiếu nguyên âm Việt-Anh 1. Đối chiếu nguyên âm Việt-Anh về số lượng 1.1. Nguyên âm tiếng Việt Khi nghiên cứu hệ thống nguyên âm Việt hầu hết các tác giả cho rằng nguyên âm trong tiếng Việt có vai trò quan trọng trong cấu tạo âm tiết-cáiđơn vị phát âm được xem là nhỏ nhất. Nói cách khác tiếng Việt âm tiết (syllable) chỉ xảy ra ở âm đoạn nguyên âm mà thôi. Vì vậy trong tiếng Việt nguyên âm được coi là âm chính, tức là âm đảm nhận thành phần chính của âm tiết tiếng Việt. Theo giáo trình “Ngữ âm tiếng Việt” của G.S. Đoàn Thiện Thuật, tiếng Việt có 16 nguyên âm gồm 13 nguyên âm đơn (trong đó có 9 nguyên âm dài và 4 nguyên âm ngắn), 3 nguyên âm đôi: - 9 nguyên âm dài /i/ - “i,y” /e/ -“ê” /ε/-“e” / /-“ư” / / - “ơ” 15 /a/-“a” /u/-“u” /o/-“ô, ôô” /כ/-“o,oo” - 4 nguyên âm ngắn - 3 nguyên âm đôi: /ie/-“ie,ia,yee,ya” /uo/-“uơ,ua” / ∂/-“ươ, ưa” Trong hệ thống ngữ âm của một ngôn ngữ vừa có bán nguyên âm vừa có phụ âm thì cũng có âm kết hợp giữa hai loại ấy. Trong tiếng Việt có 2 hệ thống bán nguyên âm khác nhau về chức năng trong cấu tạo âm tiết: bán nguyên âm làm âm đệm (có vị trí sau âm đầu và trước âm chính) và bán nguyên âm cuối làm âm cuối (có vị trí cuối âm tiết có chức năng kết thúc âm tiết) Hai bán nguyên âm làm âm đệm: /-u-/: [trầm, vang, môi] và [-Ф-]>< [-u-] về chức năng-giữ nguyên âm sắc của âm tiết Hai bán nguyên âm cuối /-i-/: [bổng, vang, lưỡi] và /-u-/ [môi, làm trầm hoá âm tiết] 1.2. Nguyên âm tiếng Anh Nguyên âm trong tiếng Anh có nhiều điểm khác nhau. Theo kết quả phân lập của Peter Roach trong “English phonetics and Phonology”, tiếng Anh có 25 nguyên âm trong đó có: - 12 nguyên âm đơn: /i:/-“see” /I/-“his” /e/-“ten” / ∂/ -“letter” /a:/-“father” /u:/-“you” /כ:/-“morning” /ổ/-“stamp” /Λ/-“sun” /з:/-“learn” / / / /. - 8 nguyên âm đôi: /ei/ “name” /ai/ “my” /au/ “hour” / ∂u/”no” /כi/ “boy” /i∂/”hear” /e ∂/”where” /u∂/”tour” - Nguyên âm ba (triphthong): 5 nguyên âm: /ei/ “layer” /ai/ “fire” /כi∂/ “royal” /∂u∂/ “lower” /au∂/ “power” Bảng nguyên âm Việt-Anh Nguyên âm Việt 16 13 nguyên âm đơn 9 NA dài i u e o a 4 NA ngắn a 3 nguyên âm đôi ie uo Nguyên âm Anh 24 12 NA đơn 5 NA dài 7 NA ngắn 16 8 NA đôi 5 NA ba 2. Đối chiếu nguyên âm Việt-Anh về đặc điểm Nguyên âm và nói chung hệ thống nguyên âm của một ngôn ngữ có đặc điểm gì là do phụ thuộc vào đặc điểm cách phát âm và hệ thống ngữ âm-âm vị của ngôn ngữ đó quy định. Dưới đây ta sẽ xác định cơ sở đối chiếu và thực hiện đối chiếu hệ thống nguyên âm trong tiếng Việt với hệ thống nguyên âm trong tiếng Anh để thấy rõ những đặc điểm của chúng. Tiêu chí để xác lập và phân loại nguyên âm chủ yếu là âm sắc. Thường thường âm sắc phân biệt nhau ở độ trầm bổng và tính cố định hay biến đổi âm sắc. 2.1. Độ trầm bổng Độ trầm/bổng thường chia làm hai khả năng: - Bổng phân biệt với trầm kèm theo một đặc trưng nào đó. - Bổng phân biệt với trầm mà âm sắc được giữ nguyên từ đầu đến cuối. Việc phân chia các âm theo tiêu chí bổng/trầm đồng thời cũng trùng hợp với việc phân biệt hàng trước/hàng sau và hình dáng của môi-tròn môi/không tròn môi khi phát âm nguyên âm. Về mức độ của trầm thì chia ra trầm phân biệt với trầm vừa, tức có nghĩa là nguyên âm sau không tròn môi. 2.1.1. Nguyên âm tiếng Việt Theo cách phân chia vừa nêu, nguyên âm đơn (vowel) tiếng Việt được chia ra làm 3 âm sắc: bổng/trầm/trầm vừa âm sắc nguyên âm bổng i,e, ε, ε trầm vừa trầm u,o, כ, כ Những nguyên âm trên có thể biểu diễn theo vị trí trên tam giác nguyên âm: Hàng trước i Hàng giữa u Hàng sau bổng trầm vừa trầm e o ε 17 a Hình 4 (trang 83) 2.1.2. Nguyên âm tiếng Anh Số lượng nguyên âm dài trong tiếng Anh nhiều hơn trong tiếng Việt. Nguyên âm tiếng Anh phân chia theo 3 âm sắc là Trang 84-phần a Những nguyên âm trên có thể biểu diễn theo vị trí trên tam giác nguyên âm: Hình 5 (trang 84) 2.2. Tính cố định và biến đổi âm sắc trang 84-phần b Nguyên âm tiếng Việt cũng như tiếng Anh có một số âm cố định âm sắc, một số khác biến đổi âm sắc. Những âm cố định âm sắc như sau: Việt Anh i ш u i u e o e ổ Λ Những nguyên âm không cố định âm sắc, tức là âm sắc có biến đổi từ lúc xuất phát đến lúc kết thúc. Những âm này như tạo thành từ hai yếu tố gắn liền nhau, không bao giờ tách khỏi nhau, ta gọi là âm đôi (diphthongs): Tiếng Việt Ví dụ Tiếng Anh Ví dụ ie Việt, miến ie, (eye:i), fierce u trường, thương e , ei, ai, a, i aired, pain, face uo luôn, muốn xem thêm dưới Hình 6-trang 85 Nguyên âm đôi tiếng Anh trung tâm (centring) kết thúc (closing) 18 kết thúc kết thúc i kết thúc ending in ending in ending in Khi phát âm các nguyên âm đôi này thường có điểm xuất phát và điểm kết thúc. Trong số 8 nguyên âm đôi kể trên có thể tóm lược lại trong sơ đồ hình thang và hướng xuất phát-kết thúc như sau: tour, moored fierce, beard cairn aired, scarce loin, voice load pain, face, paid home, most, load tide loud time, ice gown ,house Sự phân bố theo âm lượng và âm sắc nguyên âm hai ngôn ngữ có thể tổng hợp thành bảng sau: Âm sắc Âm lượng Cố định Không cố định bổng trung hoà trầm bổng trung hoà trầm Nhỏ Việt Anh Vừa Việt Anh Lớn Việt Anh 3. Miêu tả đối chiếu một số âm cụ thể Để dễ vận dụng xin dẫn một số ví dụ minh hoạ trong hai ngôn ngữ Việt-Anh Việt nguyên âm đơn Anh. /i/ tin, ý kiến, suy nghĩ /i/ bit, fish, pin /ω/ ưng, mừng, tưng bừng, dừng /i:/ mean, peace 19 /u/ tung, hung, du, bún /u/ pull, put, push /u:/ food, soon, loose /e/ mệt, tên, mê, hên /e/ men, bed, yes / / mơ, lớn, hơn, sơn /З / fern, purse, bird / / tân, cần, thân /כ:/ board, horse, torn /o/ tô, cô, một, công cộng / ∂/ letter / / anh ách, sách, xanh /ổ/ man, gas, bat /ă/ ay, rau đay, au /Λ/ but, some, such / / ong óc, tóc,vòng /a:/ card, half, pass /ε/ em, thèm, xem, đem, đẹp /כ/ pot, gone, cross /כ/ xoo, mooc, tooc /a/ ta, mang, lan man Nguyên âm đôi /ie/ hiền, miền, tiên, kiên /i∂/ fierce, beard, hear /ω∂/ hươu, hương, hướng, dương, /ei/ name phương, tương /∂u/ no, home, most, load /uo/ uống thuốc, lúa úa /ai/ nice, time, my /au/ gown, house, how, loud /כi/boy, voice /e∂/ where /u∂/ tour Nguyên âm ba tiếng Anh /ei∂/ layer, player /∂u∂/ mover, lower /ai∂/ liar, fire /au∂/ power, hour /כi∂/ loyal, royal Trên đây đã cung cấp toàn cảnh nguyên âm tiếng Việt và tiếng Anh, trong đó một mặt so sánh chúng với âm chuẩn (cardinal vowel), mặt khác là âm tương ứng và không tương ứng Việt-Anh về số lượng âm dùng ở hai ngôn ngữ. Sơ đồ (hình 6) cũng cho chúng ta cách phát âm đôi trong tiếng Anh. Có điều chú ý là việc phát âm các âm đôi này thường hay mắc lỗi “nhấn giọng ngoại lai”. Đó là khi phát âm đôi (diphthongs) thường hay nhấn vào âm thứ nhất (âm thuần –pure vowel) khởi phát. Mặt khác cũng hay lẫn lộn khi phát âm âm đôi với nguyên âm dài (long vowels). Đối với phát âm các nguyên âm Việt thì chú ý phân biệt âm đệm với chính âm và trong âm đôi yếu tố đầu cũng được nhấn mạnh hơn. Đây là điểm khác Việt-Anh cần chú ý. Chúng ta hãy đối chiếu một số nguyên âm cụ thể, chủ yếu là nguyên âm đơn (ngắn và dài). Sự thực việc đối chiếu ở đây cũng chưa đạt độ chính xác cao bởi vì kết quả phân tích chưa được tiến hành tương ứng hoàn toàn cùng tác giả. Bức tranh chung của các âm được đối chiếu có thể hình dung bằng sơ đồ sau (Hình 8). Trong sơ đồ này biểu diễn các 20 nguyên âm theo hai hình lồng nhau: nguyên âm Việt trên tam giác, nguyên âm Anh thể hiện ở hình thang. Các nguyên âm Anh được định vị theo vị trí chính xác trên hình thang nguyên âm. 4. Nguyên âm và sự thể hiện bằng chữ viết trong tiếng Việt- tiếng Anh 4.1. Nguyên âm tiếng Việt Bảng đối chiếu các âm vị nguyên âm với chữ cái /i/ - “i,y” / / - “ư” Nguyên âm Chữ viết và đặc điểm âm tiết Ví dụ /i/ -“y khi âm đầu là / /, âm đệm và âm cuối là những đơn vị zero và khi xuất hiện sau âm đệm /w/ - “i:” trong các trường hợp còn lại. Nhiều trường hợp có thể không phân biệt “i/y” ý kiến và suy, nguỵ /o/ - có hai biến thể dài ngắn khi phân bố trước / , k/ + thể dài ghi bằng “ôô” + thể ngắn ghi bằng “ô” - các trường hợp khác ghi là “ô” + bôông + bông - ô tô, tôm, chôm, chôm / / - “oo” khi đi trước / ,k/ - xoong, mooc, loong 21 - “o” trong những trường hợp còn lại. toong. - gọi to, con bò / / - “o” khi đi trước / ,k/ - vòng, tóc / / - “a” khi đi trước / ,k/ - sách, xanh / ă/ - “a” trong những âm tiết có vần “ay” hay “au” - “ă” - đau tay, chau mày - loắt choắt /uo/ -“ua” ở những âm tiết có âm cuối là zero - “uô” khi âm cuối không phải là zero - mua, rùa, lúa, úa - buôn, buốt, luống cuống, thuốc / / - “ưa” ở những âm tiết có âm cuối là zero - “ươ” trong những trường hợp khác - lưa thưa, chừa, ưa - vườn tược, ương bướng /ie/ - “yê” ở những âm tiết có âm đệm /w/ và có âm cuối không phải zero và ở những âm tiết mà âm cuối khác zero, âm đệm zero, âm đầu là / / - “iê” trong những âm tiết có âm cuối không phải zero, âm đệ m zero và âm đầu không phải / / - “ia” những âm tiết có âm cuối zero - “ya” những âm tiết có âm cuối zero nhưng có âm đệm /w/ - tuyên truyền, và yên, yếu - chiếu điện, tiêu tiền - chia mía - khuya Nhận xét: - có 10 nguyên âm chỉ có một cách thể hiện chữ viết. Đó là:/i,e, , , ,a, u,o, , ,/ - cần chú ý: nguyên âm ngắn / /: được viết bằng chữ “a” trong những từ có vần “anh” hoặc “ách”. Ví dụ: rành mạch, tanh tách - nguyên âm ngắn / /: chỉ tồn tại trong các từ có vần “ong” hay “oc” ví dụ: ròng rọc, long đong - 5 nguyên âm ngắn có hai cách thể hiện bằng chữ viết 4.2. Nguyên âm tiếng Anh 4.2.1. Nguyên âm ngắn /i/ bit, sit, fish, pill / / pull, put, push /e/ bet, men, yes / / but, rush, some 22 / / pot, gone, cross, got / / hat, gas, bat, man 4.2.2 Nguyên âm dài /i:/ beat, mean, peace, see /u:/ soon, loose, too / :/ bird, fir, fern (dương xỉ), purse / :/ pot, gone, cross, got / / hat, gas, bat, man 4.2.3. Nguyên âm đôi i beard, near, fierce (hung dữ, ác liệt) home, most, load a now, loud, house pure, tour, moored e hair, air ai tide, time, nice, fire i join, coin, avoid, voice ei paid, face, page, pain 4.2.4 Nguyên âm ba ei layer, player lower, mower (thợ cấy, máy cấy) ai liar, fire a power, hour i royal, loyal Chú ý: Khi đối sánh nguyên âm Việt-Anh cần chú ý 2 đặc điểm quan trọng: 1. Âm đệm chỉ có ở tiếng Việt mà không có trong tiếng Anh. Nét riêng của tiếng Việt chính là ở sự hiện diện của âm đệm /w/. Âm đệm này khác với yếu tố cấu thành âm đôi và cũng khác âm dài (trường độ). Ví dụ: âm đệm /w/ trong “quả” khác với /u/ trong /uo/ của “buồng, muống, vuông”. Âm đệm /w/ vốn không mang âm sắc chủ yếu của âm tiết nên khi phát âm nó chỉ như một âm lướt, một nguyên âm không có ở đỉnh âm tiết. Trái lại, các yếu tố trong nguyên âm đôi /ie/, /uo/, / / là /i,u, / bao giờ cũng được nhấn mạnh hơn yếu tố sau là /i,e, /. Sự nhấn mạnh này quyết định âm sắc chủ yếu của âm tiết. Như vậy, có thể thấy, trong các âm tiết như “khuyên, tuyên ” /w/ là âm đệm chứ không phải /y/. ở đây cũng không thể cho rằng “uye” là âm ba mà chỉ có /ie/ là âm chính, đỉnh âm tiết còn /w/ chỉ là âm đệm. 2. Âm ba chỉ có ở tiếng Anh mà không có trong tiếng Việt. Nguyên âm ba 23 thường khó phát âm và cũng khó nghe. Những nguyên âm ba trong tiếng Anh có thể hình dung như một tổ hợp 5 âm đôi đã được miêu tả ở trên với âm / / . Đó là: ei + > ei (player) u + > u ai + > ai (fire) au + > au כi + > כi (loyal) Theo Peter Roach, lý do có tính nguyên tắc gây khó khăn cho người học tiếng Anh là ở chỗ trong tiếng Anh thường thì qui mô chuyển động nguyên âm rất nhỏ, trừ khi chúng ta phát âm cẩn thận. Vì vậy trong thực tế, phân biệt được âm ba và âm đôi và cả nguyên âm dài là rất khó khăn, cần phải tập luyện cẩn thận. Ví dụ: các âm trong các từ dưới đây là thường gặp: ei - player, layer - lower, mower ai fire, liar a - power, hour i - royal, loyal ở phạm vi các nguyên âm chúng ta cần chú ý 2 điểm này, chỉ có ở tiếng Việt mà không có ở tiếng Anh và ngược lại. Đó là âm đệm của tiếng Việt và âm ba (triphthong) của tiếng Anh. Nét riêng của tiếngViệt là sự hiện diện /u/. Âm đệm này khác với yếu tố cấu thành âm đôi và cũng khác với âm dài (trường độ). Ví dụ: âm đệm /u/ trong “quả” khác với yếu tố /u/ của /uo/ trong “buồng, muống, vuông”. Âm đệm /u/ vốn không mang âm sắc chủ yếu của âm tiết nên phát âm nó như âm lướt, một nguyên âm không ở đỉnh âm tiết. Trái lại các yếu tố trong âm đôi: ie, uo, , là i, , u bao giờ cũng được nhấn mạnh hơn yếu tố sau (e, , ). Sự nhấn mạnh này quyết định âm sắc chủ yếu âm tiết. Do giả thuyết âm đệm như vậy mà trong âm tiết “tuyên, khuyên” thì “u” là âm đệm chứ không phải “y”. ở đây cũng không cho “uye” là ba âm mà chỉ có “ie” là âm chính, đỉnh âm tiết và “u” là đệm thôi. Nét đặc trưng riêng của tiếng Anh so với tiếng Việt là ở tiếng Anh nguyên âm ba (triphthong). Nguyên âm ba thường khó phát âm và cũng khó nghe. Một âm ba là một sự trượt từ một nguyên âm này qua nguyên âm khác và đến cả âm thứ ba, tất cả diễn ra nhanh mà không líu lặp. Ví dụ: nếu ta phát âm cẩn thận từ “hour” /a / thì bắt đầu với một nguyên âm phẩm chất như âm /a/ rồi lướt qua âm / / và cuối cùng dừng lại ở âm / / . Vì vậy ta dùng ký hiệu /a / là để đại diện cho cái chúngta phát âm từ “hour” nhưng điều này không thường xuyên diễn đạt chính xác cách phát âm. Những âm ba của tiếng Anh có thể hình dung như một tổ hợp 5 âm đôi đóng đã được miêu tả ở mục trên với âm /a/ đó là: ei + > ei (player) u + > u ai + > ai (fire) au + > au כi + > כi (loyal) Lý do có tính nguyên tắc gây khó khăn (theo Peter Roach) cho người học tiếng Anh thường quy mô chuyển động nguyên âm là rất nhỏ, 24 trừ khi chúng ta phát âm cẩn thận. Vì vậy trong thực tế phân biệt được âm ba (triphthongs) với âm đôi (diphthongs) và cả với nguyên âm dài là rất khó. Ta hãy luyện các âm ba cẩn thận để phân biệt với âm đôi và âm dài. Ví dụ: các âm trong các từ dưới đây là thường gặp: ei – player, layer u lower, mower ai – fire, liar au power, hour כi - royal, loyal Câu hỏi: Anh/chị hãy tìm những điểm tương đồng và dị biệt giữa hệ thống nguyên âm tiếng Việt và tiếng Anh sau khi thực hiện phân tích đối chiếu. Bài 2: đối chiếu phụ âm Việt – Anh I.Khái quát chung về phụ âm 1. Định nghĩa phụ âm (consonant) Phụ âm là những âm cơ bản chỉ có sự tham gia của tiếng động, được cấu tạo do sự cản trở trên lối thoát của không khí đi ra từ phổi. Phụ âm (consonant) là những âm được phát ra bị một cản trở nào đó, như qua khe hở của dây thanh, sự tiếp xúc của đầu lưỡi với răng, sự khép chặt của môi làm cho tiếng phát ra không dễ nghe, không êm tai, có tiếng động, tần số không ổn định. Ví dụ như phụ âm “b”, “v”, “k” Giữa nguyên âm và phụ âm còn có loại mang tính trung gian. Nó vừa có tính chất nguyên âm vừa có tính chất phụ âm gọi là bán nguyên âm (semi-vowel) và bán phụ âm (semi-consonant). 2. Đặc điểm chung của phụ âm Bản chất âm học: phụ âm là những âm được cấu tạo bởi sự có mặt của tiếng động. Một tỉ lệ lớn các phụ âm có sự tham gia của tiếng thanh. Đặc điểm âm thanh chính của phụ âm là có tiếng động. Song khi phát âm một số phụ âm dây thanh cũng hoạt động đồng thời cung cấp thêm tiếng thanh. Căn cứ vào tỷ lệ tiếng động và tiếng thanh mà đặt tên những phụ âm khác nhau. Ví dụ: phụ âm vô thanh như “p,t,k” phụ âm có tiếng thanh như “b, đ, g” trong tiếng Việt. Còn có một loại thứ ba nữa gọi là phụ âm vang như “m, ng, l” trong tiếng Việt; phân biệt với hai loại trên này người ta gọi bằng tên chung là phụ âm ồn. Phương thức cấu âm: phụ âm được tạo nên do sự cản trở không khí 25 vốn cần thiết để gây ra tiếng động. Khi cấu âm các phụ âm, bộ máy phát âm căng thẳng cục bộ, gây nên trở ngại cho luồng không khí mạnh/tương đối mạnh từ phổi đi ra. Căn cứ vào phương thức cấu tạo âm, tức là sử dụng cách phát âm để phát âm đúng một âm nào đó, người ta phân phụ âm ra một số loại: phụ âm xát như: “v,s,g” trong tiếng Việt, phụ âm tắc như “p, t,b,d”. Nói là tắc vì khi phát âm luồng không khí từ phổi đi ra bị cản trở hoàn toàn, phải phá vỡ sự cản trở ấy để phát ra tạo thành tiếng nổ. Còn loại xát là tiếng cọ xát, phát sinh do luồng không khí đi ra bị cản trở không hoàn toàn, phải lách qua khe nhỏ phát ra có sự cọ xát vào thành của bộ máy phát âm. Như vậy, về phương thức phát âm phụ âm người ta căn cứ vào các cách cấu âm sau: tắc bật hơi (plosive), xát (fricative), tắc xát (affricate), mũi (nasal), bên (lateral), gần đúng (approximant). Vậy là khi phân tích phân loại đối chiếu phụ âm chúng ta vừa phải dựa vào phương thức cấu âm vừa phải dựa vào sự định vị để xác định. Việc luyện tập phát âm, sửa lỗi phát âm cũng căn cứ vào các cơ sở cụ thể nêu trên. Cũng cần chú ý rằng mỗi ngôn ngữ và cụ thể hơn mỗi âm cụ thể hơn mỗi âm cụ thể cũng có những đặc điểm riêng. Phụ âm hữu thanh và phụ âm vô thanh: căn cứ vào tỉ lệ tiếng động và tiếng thanh mà người ta phân loại phụ âm hữu thành và phụ âm vô thanh. Khi phát âm phụ âm hữu thanh dây thanh chấn động còn khi phatsaam phụ âm vô thanh thì dây thanh không chấn động. Phụ âm hữu thanh gồm cả tiếng thanh và tiếng động còn phụ âm vô thanh thì chỉ có tiếng động. 3. Phân loại phụ âm Trong phân tích đối chiếu chúng ta cần xác định cơ sở miêu tả ngữ âm. Đặc điểm cơ bản của phụ âm là khi phát âm chúng được cấu tạo bằng luồng không khí bị cản trở. Sự cản trở này xảy ra ở những mức độ khác nhau. Nói chính xác hơn là sự cản trở diễn ra bằng những cách khác nhau và ở những bộ phận khác nhau của cơ quan phát âm. 3.1. Phân loại theo phương thức cấu âm Có ba phương thức cấu âm chính là : phương thức tắc, phương thức xát và phương thức rung. - Phương thức tắc: là các phụ âm được tạo thành khi luồng không khí từ phổi đi ra bị cản trở hoàn toàn, phải phá vỡ sự cản trở đó để thoát ra, tạo thành tiếng nổ, ví dụ như: /p,t,b,d/ - Phương thức xát: là các phụ âm được tạo thành khi luồng không khi từ phổi đi ra không bị cản trở hoàn toàn mà vẫn thoát ra được qua một khe hẹp và bị cọ xát vào thành bộ máy phát âm, ví dụ như: /v,s,g/ - Phương thức rung: là những phụ âm được tạo thành do luồng không khí từ phổi đi ra bị chặn lại thành từng đợt ở vị trí noà đó cho đến kết thúc quá trình tạo âm, ví dụ: /r/ Ngoài ra, sự hoạt động của dây thanh, sự tham gia của yết hầu, BÀI GIẢNG NGÔN NGỮ học đối CHIẾU (hệ đại học lưu HÀNH nội bộ)
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 86 trang ) TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH MỤC LỤC Page CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU 1. Khái luận Ngôn ngữ học đối chiếu 2. Lược sử quá trình hình thành và phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu 3. Nhiệm vụ của ngôn ngữ học đối chiếu CHƯƠNG 2. PHẠM VI ỨNG DỤNG CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU 1. Những ứng dụng về phương diện lý thuyết 2. Những ứng dụng về phương diện thực tiễn 3. Ngôn ngữ học đối chiếu lí thuyết và ngôn ngữ đối chiếu ứng dụng CHƯƠNG 3. CƠ SỞ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU CÁC NGÔN NGỮ 1. So sánh và các kiểu so sánh 2. Khái niệm Tertium comparison 3. Các kiểu Tertium comparison trong nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ CHƯƠNG 4. CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU CÁC NGÔN NGỮ 1. Các nguyên tắc nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ 2. Phương pháp nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ CHƯƠNG 5. CÁC BÌNH DIỆN ĐỐI CHIẾU NGÔN NGỮ 1. Nghiên cứu đối chiếu về ngữ âm 2. Nghiên cứu đối chiếu về từ vựng 3. Nghiên cứu đối chiếu về nghữ pháp 3 4. Nghiên cứu đối chiếu về ngữ dụng và các bình diện khác CHƯƠNG 6. MỘT SỐ THỬ NGHIỆM NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU I. Đặt vấn đề Ngôn ngữ học hiện đại bao gồm nhiều phân ngành với nhiều các phân chia khác nhau. Mấy chục năm trở lại đây, nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ được nhiều người quan tâm và trở thành một bộ phận phát triển mạnh trong ngôn ngữ học hiện đại. Bởi lẽ nó đáp ứng những đòi hỏi của lý luận ngôn ngữ học trong thời kỳ mới, đồng thời nó cho phép đưa những tri thức ngôn ngữ học vào những ứng dụng trong thực tiễn. Ngôn ngữ học hiện đại tiếp cận ngôn ngữ theo ba cách chủ yếu sau: - Thứ nhất: Ngôn ngữ được tiếp cận như là hiện tượng của nhân loại nói chung. Theo đó, ngôn ngữ học có nhiệm vụ nghiên cứu tất cả các ngôn ngữ trên thế giới nhằm làm rõ những vấn đề triết học ngôn ngữ như bản chất, chức năng của ngôn ngữ và các cứ liệu của nhiều ngôn ngữ khác nhau để xây dựng các khái niệm, phạm trù làm công cụ nghiên cứu các ngôn ngữ cụ thể. Cách tiếp cận này được gọi là Ngôn ngữ học đại cương. - Thứ hai: Ngôn ngữ được tiếp cận như là sản phẩm của từng cộng đồng riêng lẻ. Theo đó, ngôn ngữ có nhiệm vụ miêu tả từng ngôn ngữ cụ thể để làm rõ đặc điểm của ngôn ngữ được nghiên cứu. Cách tiếp cận này gọi là Ngôn ngữ học miêu tả. - Thứ ba: Các ngôn ngữ của các cộng đồng người khác nhau được so sánh với nhau. Những nghiên cứu tiếp cận theo hướng này được xếp vào lĩnh vực Ngôn ngữ học so sánh. Trong ngôn ngữ học so sánh có nhiều chuyên ngành khác nhau với nhiều đối tượng, mục đích và cách thức so sánh khác nhau. Có ba phân ngành chính: + Ngôn ngữ học so sánh lịch sử (Comparative historical linguistic) phát triển mạnh mẽ vào thế kỉ XIX và có ảnh hưởng quan trọng trong phát triển ngôn ngữ học thế giới. Ngôn ngữ học so sánh lịch sử có đối tượng nghiên cứu là những ngôn ngữ được biết có quan hệ cội nguồn hoặc giả định có quan hệ cội nguồn, nhằm làm rõ quan hệ cội nguồn và quá trình phát triển lịch sử của các ngôn ngữ (R.Anttila 1989). + Ngôn ngữ học loại hình hay Loại hình học (Typological linguistic) mục đích chính là phân loại tất cả các ngôn ngữ trên thế giới thành các loại hình dựa vào những điểm giống nhau nhất định trong cấu trúc ngôn ngữ và nghiên cứu so sánh các ngôn ngữ thuộc cùng một loại hình, có mang một số đặc trưng tiêu biểu 5 nào đó nhưng không nhất thiết phải có mối quan hệ về cội nguồn (N.Stankevich 1982). Là một trong số những bộ môn khoa học xã hội, ngôn ngữ học thuộc vào khoa học cơ bản có nhiều biến động: không ít lý thuyết đã trở nên lỗi thời, lụi tàn bên cạnh việc xuất hiện nhiều lý thuyết nghiên cứu mới, những khuynh hướng, trường phái mới. Ngôn ngữ học đối chiếu là một phân ngành nghiên cứu gần gũi với thực tiễn ngôn ngữ, đời sống ngôn ngữ, thực hành và sử dụng. Nó thuộc vào ngôn ngữ học ứng dụng (applied linguistic). Mặc dù những nghiên cứu liên quan đến phân ngành này có từ lâu nhưng mãi cho đến những thập kỷ cuối của thế kỷ XX mới thực sự được khẳng định. II. Khái niệm 2.1 Đối chiếu (Contrast/Contrastive analysis) thường được dùng để chỉ phương pháp hoặc phân ngành nghiên cứu lấy đối tượng chủ yếu là hai hay nhiều ngôn ngữ. Mục đích của nghiên cứu là làm sáng tỏ những nét giống nhau (similarities) và khác nhau (difference) hoặc chỉ làm sáng tỏ những nét khác nhau. Nguyên tắc nghiên cứu chủ yếu là nguyên tắc đồng đại/nguyên tắc đồng đại động (dynamic synchronic principle) 2.2 Ngôn ngữ học đối chiếu so sánh (confrontative, comparative linguistics) là một phân ngành của ngôn ngữ học, so sánh hai hoặc nhiều hơn hai ngôn ngữ bất kì để xác định những điểm giống nhau và khác nhau giữa các ngôn ngữ đó, không tính đến vấn đề các ngôn ngữ được so sánh có quan hệ cội nguồn hay thuộc cùng một loại hình hay không. Việc lựa chọn ngôn ngữ để đối chiếu hoàn toàn tùy thuộc vào những yêu cầu lí luận và thực tiễn của người nghiên cứu. 1.3 Cơ sở lý luận của ngôn ngữ học đối chiếu là sự nghiên cứu liên ngôn ngữ (interlanguage study). Ngữ liệu nghiên cứu có thể thuộc các ngôn ngữ nguồn (source language) hay ngôn ngữ đích (target language) sống động, đang sử dụng hay thậm chí đã chết, nhưng chúng phải là các đại diện thích hợp của các ngôn ngữ được nghiên cứu. Trong số các chuyên ngành của ngôn ngữ học so sánh thì ngôn ngữ học đối chiếu gần với ngôn ngữ học loại hình hơn cả. Điểm khác nhau chủ yếu của hai chuyên ngành: ngôn ngữ học loại hình có thể có đối tượng bao trùm tất cả các ngôn ngữ trên thế giới nhằm phân loại các ngôn ngữ theo những đặc trưng về cấu trúc hoặc nhóm các ngôn ngữ có cùng một hoặc một số điểm chung về loại hình, còn ngôn ngữ học đối chiếu có phạm vi nghiên cứu hẹp hơn, chỉ nghiên cứu hai (ít khi nhiều hơn hai) ngôn ngữ để phát hiện những điểm giống nhau và khác nhau giữa các ngôn ngữ đó (V.Skalichka 1989). 6 Xét trong quan hệ với ngôn ngữ học so sánh lịch sử thì ngôn ngữ học đối chiếu có những khác biệt không chỉ về đối tượng nghiên cứu mà còn về cách tiếp cận. Nếu ngôn ngữ học so sánh lịch sử nghiên cứu các ngôn ngữ trên quan điểm lịch đại là quan hệ cội nguồn để phân loại các ngôn ngữ thành các ngữ hệ như: Nam Á (tiếng Việt, tiếng Mường, tiếng Khme, tiếng Munda); Ấn Âu (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Bulgaria); Hán Tạng (tiếng Hán, tiếng Tạng, tiếng Miến); Altai (tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Mông Cổ); Ural (tiếng Phần Lan, tiếng Hungari, tiếng Estonia)…thì ngôn ngữ học đối chiếu là một bộ phận của ngôn ngữ học đồng đại, trong khi đó ngôn ngữ học so sánh lịch sử là một bộ phận của ngôn ngữ học lịch đại. Ngoài thuật ngữ Ngôn ngữ học đối chiếu (Contrastive Linguistics), chuyên ngành này có nhiều tên gọi khác: Phân tích đối chiếu (Contrastive Analysis), Nghiên cứu đối chiếu (Cantrastive studies), Nghiên cứu xuyên ngôn ngữ (Cross-linguistics studies), Nghiên cứu tương phản (Confrotative studies)... Tuy nhiên ở Việt Nam thuật ngữ Ngôn ngữ học đối chiếu vẫn phổ biến nhất. Ngoài ra có hàng loạt thuật ngữ dùng đến định ngữ đối chiếu (Contrastive) để chỉ những lĩnh vực nghiên cứu hữu quan như: Ngữ dụng học đối chiếu (Contrastive pramatics), Phân tích đối chiếu diễn ngôn (Contrastive discourse analysis), Cú pháp học đối chiếu (Contrastive syntax), Ngữ pháp tạo sinh đối chiếu (Contrastive generative grammar), Nghiên cứu đối chiếu lý thuyết (Theoretical contrastive studies)... Ngôn ngữ học đối chiếu có mối quan hệ chặt chẽ không chỉ với các phân môn khác trong ngôn ngữ học mà còn với hàng loạt khoa học không thuộc ngôn ngữ học như tâm lí học, tâm lí dân tộc học, văn hóa học. III. Quá trình phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu Những nghiên cứu đối chiếu đầu tiên trong ngôn ngữ học xuất hiện từ rất lâu. Nổi rõ hơn cả là vào thời kỳ có nhiều phát kiến mới về địa lý, thời kỳ hình thành nhiều quốc gia dân tộc độc lập; thời kỳ phát triển mạnh về khoa học kỹ thuật, và đặc biệt là từ những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây. Có hàng loạt nguyên nhân thúc đẩy sự ra đời và phát triển loại nghiên cứu này, trong đó có thể kể đến một vài nguyên nhân sau: - Nguyên nhân bên ngoài: + Sự phát hiện ra nhiều vùng đất, nhiều cộng đồng dân tộc mới, nhiều quốc gia độc lập được hình thành và đi kèm với đó là nhiều ngôn ngữ được phát hiện, nhiều ngôn ngữ có được vị trí xứng đáng của nó mà trước đó không hề có. 7 + Thông tin thành văn và giao lưu giữa các nền văn minh, văn hóa tăng lên đáng kể. Điều này đưa đến đòi hỏi to lớn của việc học và dạy ngoại ngữ, của việc giải quyết tình trạng song ngữ, việc xây dựng cơ sở lý luận và giải quyết thực tế công việc dịch thuật và hàng loạt công việc thực tế ngôn ngữ khác. - Nguyên nhân thuộc nội bộ ngôn ngữ: + Khả năng của các nhà ngữ học đã phát hiện và bao quát một lúc nhiều ngôn ngữ khác nhau, tìm hiểu và giải quyết nó theo những mục đích, hướng xác định. + Các phân tích lý giải “đơn ngữ luận” dù đạt nhiều thanh tựu to lớn, vẫn không thể tiến xa nếu không phát triển thành các nghiên cứu lý giải “đa ngữ luận”, một sự lý giải các sức bao quát sâu rộng hơn nhiều. + Nhu cầu kết hợp với những lý luận và giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, trực tiếp trong nội bộ ngôn ngữ học. Chính những nguyên nhân và cũng là đòi hỏi chính yếu kể trên đã tạo ra cac tiền đề thực tế cho sự ra đời và phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu. Cho đến nay, nhìn một cách tổng quát, nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ có thể chia ra thành 3 thời kỳ phát triển với các đặc điểm sau: 1. Thời kỳ đầu: Các công trình nghiên cứu trên cơ sở quan sát sự khác nhau giữa ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ xuất hiện trong các cuốn sách ngữ pháp ở các nước Tây Âu, đặc biệt từ thời Phục Hưng và những công trình so sánh loại hình nhằm phân chia các ngôn ngữ thành các loại hình. Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu đối chiếu tiêu biểu có thể kể đến là các từ điển đa ngữ cỡ lớn. Trước hết phải kể đến cuốn “Từ vựng so sánh các ngôn ngữ và phương ngữ” của Panlat. Đây là một bộ sưu tập đối chiếu từ vựng đồ sộ các ngôn ngữ và các tiếng địa phương, xuất bản lần đầu vào những năm 1787-1789. Bộ sưu tập được bổ sung dần và đến lần xuất bản lần thứ hai vào năm 1791 đã bao gồm 272 ngôn ngữ thuộc bốn đại lục: Á, Âu, Phi, Mỹ. Cùng với đó là công trình “Thư mục về các ngôn ngữ đã biết và các nhận xét về những giống nhau và khác nhau giữa chúng” của các tác giả Evan và Pandu. Vào năm 1806-1817 hai học giả người Đức xuất bản công trình “Ngôn ngữ học đại cương có thí dụ minh họa từ 500 ngôn ngữ và phương ngữ”. Ở địa hạt ngữ pháp, công trình liên quan đến nghiên cứu đối chiếu cần nhắc đến là cuốn ngữ pháp Port-Royal. Đây là cuốn sách ngữ pháp lý thuyết, được xây dựng trên cơ sở phân tích đối chiếu các tiếng Hy lạp cổ, tiếng Do-thái cổ với tiếng La-tinh và tiếng Pháp. Phân tích kỹ công trình này không hẳn là ngữ 8 pháp đối chiếu theo đúng nghĩa đầy đủ mà nó thiên về ngữ pháp lô gich loại hình. Ảnh hưởng của nghiên cứu ngữ pháp Port-Royal đã được du nhập vào nhiều nước. Tiêu biểu là cuốn “Ngữ pháp triết học đại cương” của N.I.Jatvinski (1810) người Nga. Sau đó là cuốn “Khái lược về ngữ pháp đại cương” của L.G Jacop (1812). Mặc dầu có những hạn chế nhưng những công trình trên đã tạo ra một ảnh hưởng khá tốt cho việc thúc đẩy các nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ. 2. Thời kỳ thứ hai: Sự phát triển của Ngôn ngữ học so sánh-lịch sử và triết học ngôn ngữ thế kỷ XIX. Nét đặc trưng của thời kỳ này là nghiên cứu đối chiếu bị cuốn hút và hòa lẫn vào đỉnh thác nghiên cứu so sánh lịch sử. Những nghiên cứu lý luận và những vận dụng vào thực tiễn rộng lớn của nó vẫn được tiến hành song chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Giai đoạn này ranh giới giữa các loại nghiên cứu so sánh-lịch sử, loại hình đối chiếu chưa thực sự phân biệt rạch ròi. Về sau người ta mới xác định được có sự phân giới có ý thức. Nhiều nhà ngôn ngữ học đã chỉ ra mãi đến nửa đầu thế kỷ XIX ngôn ngữ học mới tách ra thành một ngành khoa học độc lập nhờ sự phát triển mạnh mẽ của ngôn ngữ học so sánh-lịch sử. Ngôn ngữ học so sánh – lịch sử thể hiện 3 thời kỳ phát triển: + Thời kỳ đầu khoảng từ những năm 1816-1870. + Thời kỳ thứ hai khoảng từ 1871-1916. + Thời kỳ thứ ba từ 1971 đến nay. Như vậy đến nửa cuối thế kỷ XIX, ngôn ngữ học so sánh-lịch sử mới xác định được phạm vi đối tượng, phương pháp nghiên cứu riêng để trở thành một phân ngành độc lập. 3. Thời kỳ thứ ba: Giữa đầu thế kỷ XX ngôn ngữ học đã phát triển mạnh mẽ với nhiều khuynh hướng đa dạng của ngôn ngữ học miêu tả. Xã hội cũng có những thay đổi quan trọng, đặc biệt là sau hai cuộc thế chiến. Nhiều quốc gia giành được độc lập dân tộc. Sự giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật được mở rộng. Yêu cầu hiểu biết, sử dụng ngoại ngữ tăng lên… Những nhân tố này làm cho ngôn ngữ học đối chiếu có tiền đề để phát triển. Nhiều nghiên cứu không chỉ hướng vào lý luận mà chú ý nhiều đến thực tiễn vận dụng. Các công trình thuộc nghiên cứu đối chiếu miêu tả: “Thử nghiệm một ngữ pháp đối sánh đại cương tiếng Nga” của L.I.Đavưđốp; “Ngữ pháp tiếng Nga đối chiếu với tiếng Udơbech” của E.Đ.Pôlivanôp xuất bản 1918 và 1933. Công trình của Pôliainôp đối chiếu song song. Các hiện tượng, phạm trù của cả hai ngôn ngữ đều được 9 chú ý làm sáng tỏ. Một số công trình chú nghiên cứu những nét đặc trưng, khác biệt của ngôn ngữ này trong đối sánh với ngôn ngữ khác. Có thể kể đến công trình “Ngôn ngữ học đại cương và một số vấn đề tiếng Pháp” của S.Balli năm 1932. Trong công trình của mình Balli đã chỉ ra hàng loạt nét đặc trưng của tiếng Pháp thông qua sự đối chiếu với tiếng Đức. Ngoài ra có thể kể đến công trình của V.G.Gac đối chiếu tiếng Nga với tiếng Pháp, của Krusennhitskaja đối chiếu tiếng Nga với tiếng Đức. Các nghiên cứu đối chiếu không chỉ kết hợp với miêu tả và loại hình mà còn có thể kết hợp với so sánh - lịch sử như công trình “Những vấn đề nghiên cứu đối chiếu lịch sử các ngôn ngữ Slavơ” của V.Txatrencô. Vào những năm 50 của thế kỷ XX, sự phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu được đánh dấu bằng nhiều công trình nổi tiếng: Languages in Contact của U.Weinreich (1953), Transfer Grammar của Z.Harris (1954), Linguistics across Cultures của R. Lado (1957),..Trong đó công trình của R.Lado được coi là công trình khai sinh ngôn ngữ học đối chiếu như một phân ngành khoa học độc lập tại Mỹ, thậm chí trên thế giứoi. Sau R.Lado có nhiều tên tuổi khác chú ý như K.Pike (Đại học Michigan), W.Nemser (Đại học Indiana), L.Selinker (ĐH Washington)…Có thể nói ở Mỹ, ngôn ngữ học đối chiếu đã có sức lôi cuốn rất nhiều nhà nghiên cứu, nhưng cũng chính tại đây, vào cuối những năm 60 đầu những năm 70, ngôn ngữ học đối chiếu gặp những thách thức nghiêm trọng và lâm vào khủng hoảng. Trong khi đó, sự khởi sắc của ngôn ngữ học đối chiếu hiện đại có công lao to lớn của các nhà ngôn ngữ học Nga và các nước Đông Âu với những tên tuổi đáng nhớ như V.V Vinogradob, A.I.Smirniskij và N.N.Amosova... Cùng với nhiều cuốn sách có tính chất nhập môn và nhiều công trình khảo cứu những vấn đề cụ thể, sự hình thành nhiều trung tâm và dự án nghiên cứu, sự xuất hiện nhiều tạp chí chuyên ngành và hội nghị khoa học đã đánh dấu những bước phát triển quan trọng của ngôn ngữ học đối chiếu. Sau hai năm công trình của R.Lado được công bố, Trung tâm ngôn ngữ ứng dụng của Hội Ngôn ngữ học Mỹ tại Washington dưới sự chủ trì của Ch.Ferguson đã thực hiện một số công trình nghiên cứu đối chiếu tiếng Anh với các ngoại ngữ khác: Pháp, Italy, Nga…Một số trường đại học đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu đối chiếu với các ngôn ngữ khác: ĐH Michigan, ĐH Indian, ĐH Washington, ĐH Hawai… chẳng hạn đối chiếu tiếng Anh với tiếng Hungari của W.Nemser (1961), W.Nemser&Juhasz (1964) và Kiefer (1967) của Di Pietro (1971). 10 Ở Châu Âu, nhiều trung tâm nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ đã được hình thành ở Poznan (đối chiếu tiếng Balan và tiếng Anh), Zagreb (đối chiếu tiếng Serbi và tiếng Anh), Bucaret (nghiên cứu đối chiếu tiếng Rumani và tiếng Anh)… Đã có những tạp chí khoa học chuyên về ngôn ngữ học đối chiếu như Papers and Studies in Contrastive Linguistics xuất bản ở Balan (1973), Contrastive Linguistics xuất bản ở Bungari (1976) và Contrastes ở Pháp (1981). Nhiều hội thảo về ngôn ngữ học đối chiếu đã được tổ chức tại Nga, Mỹ, Rumania, Balan, Đức, Phần Lan… Ở Việt Nam, việc nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ được chú ý từ cuối những năm 80. Chuyên luận Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ của Lê Quang Thiêm (1989) là công trình đầu tiên tại Việt Nam. Sau đó là công trình Ngôn ngữ học đối chiếu và đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam Á của Nguyễn Văn Chiến (1992). Năm 1997, sự phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu ở nước ta được đánh dấu bằng một sự kiện đáng ghi nhận, đó là hội thảo khoa học về nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ tổ chức tại Hà Nội thu hút hơn 50 nhà nghiên cứu và giảng viên cả nước tham gia. Nhiều năm qua tại Việt Nam, ngôn ngữ học đối chiếu đã thực sự thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ, đặc biệt là dạy ngoại ngữ. Sự quan tâm đó xuất phát từ những nỗ lực vượt khỏi khuôn khổ thực hành tiếng thuần túy để hướng đến việc dạy tiếng một cách có hiệu quả hơn, có chiều sâu hơn trên cơ sở nghiên cứu các đặc điểm giống và khác nhau giữa tiếng Việt và ngoại ngữ mà họ giảng dạy. Nhiều luận văn, luận án đã triển khai theo hướng nghiên cứu đối chiếu trong vài năm trở lại đây. Nhìn chung, sự phát triển của việc nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với những nhân tố xã hội. Sự tác động của những nhân tố đó thể hiện rõ nhất là từ sau thời kì Phục Hưng. Cuộc cách mạng công nghiệp ở nhiều nước Tây Âu, sự phát triển hàng hải, thương mại, sự phát hiện ra nhiều vùng đất mới của nhiều cộng đồng người nói những ngôn ngữ khác nhau, sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân, sự mở rộng phạm vi của đạo Cơ Đốc là những nhân tố quan trọng thúc đẩy nhu cầu tiếp xúc giữa các dân tộc và tìm hiểu những ngôn ngữ xa lạ. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, nhu cầu đó ngày càng tăng lên do những chuyển biến lịch sử mới mẻ: sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc, các cuộc chiến tranh, đặc biệt là hai cuộc chiến tranh thế giới, xu hướng toàn cầu hóa với sự hình thành những cộng đồng kinh tế-chính trị quan trọng tập hợp nhiều quốc gia khác nhau. 11 Mặt khác, sự phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu gắn với việc phát triển của bản thân ngôn ngữ. Các lí thuyết ngôn ngữ học hiện đại về cấu trúc ngôn ngữ đã đặt nền tảng vững chắc để giải quyết nhiều vấn đề lí luận cũng như phương pháp nghiên cứu cho ngôn ngữ học đối chiếu. Sự xuất hiện nhiều lí thuyết mới mẻ và độc đáo cho phép con người miêu tả ngôn ngữ ngày càng sâu sắc và đầy đủ hơn. Những thành quả miêu tả đó dĩ nhiên cung cấp nhiều cứ liệu phong phú hơn cho việc nghiên cứu đối chiếu. Đầu thế kỉ XX, dưới ảnh hưởng những tư tưởng của F.de Sausure, ngôn ngữ học cấu trúc đã phát triển mạnh mẽ với nhiều khuynh hướng khác nhau. Chính ảnh hưởng của ngôn ngữ học cấu trúc đã làm nảy sinh những quan niệm muốn vận dụng những phương pháp nghiên cứu thuần túy hình thức, khách quan và chính xác kiểu toán học để miêu tả ngôn ngữ. Điều này, một mặt mở ra cho ngôn ngữ đối chiếu nhiều cách tiếp cận mới; mặt khác, nó cũng khiến nghiên cứu đối chiếu gặp những bế tắc không giải quyết nổi. Mặc dù chịu nhiều phê phán, chỉ trích, nhưng ngày nay ngôn ngữ học đối chiếu đã khẳng định vị trí của một chuyên ngành khoa học độc lập với đối tượng, mục đích và phương pháp nghiên cứu riêng. Trong mấy chục năm qua, hướng nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ đã đem lại nhiều thành tựu lớn về lý thuyết cũng như ứng dụng. Các công trình theo hướng nghiên cứu này không chỉ tăng nhanh về số lượng mà còn mở rộng không ngừng về cấp độ, bình diện khảo sát từ âm vị học, từ vựng ngữ nghĩa, ngữ pháp đến ngữ dụng; từ các hiện tượng thuộc hệ thống ngôn ngữ đến những hiện tượng lời nói, văn bản. Sự phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu góp phần khẳng định khả năng ứng dụng những thành quả của ngôn ngữ học lí thuyết vào đời sống, phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu thiết thực xã hội. Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong quá trình phát triển của ngôn ngữ học so sánh. Tuy nhiên, theo cách hiểu hiện nay thì ngôn ngữ học đối chiếu khác với ngôn ngữ học so sánh ở chỗ: nó bao quát nhiều ngôn ngữ, bất luận ngôn ngữ đó có loại hình giống nhau hay khác nhau, có cùng nguồn gốc hay khác nguồn gốc. Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong quá trình tìm kiếm một cách học ngoại ngữ nhanh hơn và hiệu quả hơn. Như vậy, các yêu cầu của việc học và dạy ngôn ngữ là nhân tố quan trọng dẫn đến sự hình thành của ngôn ngữ học đối chiếu. Trong quá trình học ngoại ngữ, tiếng mẹ có thể có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với người học. Ảnh hưởng tích cực gọi là chuyển di tích cực. Hiện tượng này xảy ra khi giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ có sự giống nhau hoàn 12 toàn. Còn ảnh hưởng tiêu cực gọi là chuyển di tiêu cực. Hiện tượng chuyển di tiêu cực thường gây cản trở và làm chậm quá trình học tập. Chuyển di tiêu cực là hiện tượng xảy ra khi có sự nhầm lẫn của người học cho rằng cấu trúc của ngoại ngữ cũng giống như cấu trúc của tiếng mẹ đẻ, trong khi giữa các cấu trúc của hai thứ tiếng có sự khác biệt. Sự áp đặt cấu trúc tiếng mẹ đẻ cho cấu trúc ngoại ngữ dẫn đến việc phạm lỗi. Những lỗi này nếu không được sửa chữa kịp thời thì sẽ được người học ghi nhớ trở thành thói quen của người học và rất khó sửa. Để nâng cao hiệu quả giảng dạy ngoại ngữ, cần phải tìm cách khắc phục hiện tượng chuyển di tiêu cực và lợi dụng những chuyển di tích cực, nghĩa là phải tìm ra những điểm khác nhau và giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ. Việc này có thể thực hiện được nhờ vào việc nghiên cứu đối chiếu hai ngôn ngữ. Như vậy, ngôn ngữ học đối chiếu, theo nghĩa hẹp, là một lĩnh vực nghiên cứu gắn bó chặt chẽ với khoa học giảng dạy ngoại ngữ, trong đó có ngôn ngữ-tâm lí học. IV. Nhiệm vụ của ngôn ngữ học đối chiếu Qua các tài liệu được khảo cứu cho thấy có 04 ý kiến khác nhau về nhiệm vụ cụ thể của ngành học: 1. Chủ trương ngôn ngữ học đối chiếu nên tìm những nét khác biệt giữa các ngôn ngữ. Ý kiến này xuất phát từ một phạm vi rất hẹp của việc nghiên cứu đối chiếu: công tác giảng dạy và học tập ngoại ngữ. Chính những nét khác nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ sẽ làm cho người học gặp phải những khó khăn nhất định khi tiếp cận hệ thống “mã” ngôn ngữ xa lạ. Ý kiến này lấy “hành vi luận” làm chỗ dựa lý thuyết. Trong “hành vi luận”, các thói quen ngoại ngữ do bắt chước hay mô phỏng… đều liên quan trực tiếp đến việc tìm ra những nét khác biệt. Những gì giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ sẽ được tiếp thu một cách dễ dàng, còn những gì khác biệt thì sẽ khó khăn hơn. Những nhà ngôn ngữ học có quan điểm này là: R.Lado (1964), G.Mickel (1971). 2. Chủ trương nghiên cứu đối chiếu tập trung vào việc truy tìm những nét khác biệt quan trọng nhất giữa các ngôn ngữ. Như vậy, cơ sở lý luận của chủ trương này là sự phân biệt 2 kiểu nét khác biệt: + Nét khác biệt thông thường + Nét khác biệt quan trọng Hơn nữa, theo quan điểm này, phạm vi tìm hiểu những nét khác biệt quan trọng không chỉ giới hạn ở phạm trù ngôn ngữ (ngữ pháp) mà còn mở rộng ra ở các phạm trù lôgic. 13 Thế nhưng, thế nào là những nét khác biệt quan trọng nhất giữa các ngôn ngữ lại trở thành vấn đề hết sức mập mờ. Lấy gì làm cơ sở để nói rằng giữa hai ngôn ngữ đối chiếu đây là nét khác biệt quan trọng nhất, còn kia thì không? Một nét khác biệt được coi là nét khác biệt quan trọng nhất xuất phát từ một mục đích. Mặt khác, những nét khác biệt ở phạm trù ngôn ngữ đâu hẳn là những nét khác biệt ở phạm trù loogic. Và ngược lại. Tiêu biểu quan điểm này có B.L.Wolf (1960). 3. Chủ trương nghiên cứu đối chiếu phải hướng tới cả những sự giống nhau bên cạnh những nét khác biệt giữa các ngôn ngữ. Lý do là: + Cơ chế của quá trình phân tích đối chiếu các hiện tượng, các sự kiện ngôn ngữ bắt buộc phải chú ý đến cả những sự giống nhau. Sự giống nhau giữa các ngôn ngữ là cơ sở tối thiểu, đảm bảo cho công việc đối chiếu trở nên có kết quả. + Nếu không bó hẹp nghiên cứu đối chiếu ở một phạm vi ứng dụng nào đó, mà mở rộng nó ra các phạm vi ứng dụng khác về phương diện lý luận và ngôn ngữ học, thì sẽ có nhiều kiểu loại nét giống nhau. Bởi thế, nếu chỉ quan tâm tới cái khác biệt, mà không đề cập đến những sự giống nhau, thì thực sự là sai lầm trong thao tác làm việc. Chẳng hạn, giống nhau về ngữ hệ giữa các ngôn ngữ vốn là cái quan tâm của ngôn ngữ học so sánh-lịch sử, giống nhau về cấu trúc loại hình vốn là nhiệm vụ của loại hình học; giống nhau ngữ vực vốn là đối tượng hướng tới của ngữ vựng học. Còn một loại giống nhau khác – giống nhau về chức năng và hoạt động ngôn ngữ - là loại giống nhau mà ngôn ngữ học so sánh-đối chiếu phải để tâm tới. Đại diện cho quan điểm này có thể kể đến: E.Coseriu (1981), Lê Quang Thiêm (1983)… 4. Chủ trương bên cạnh những sự giống nhau và khác nhau, việc nghiên cứu đối chiếu cần lưu ý đến cả những sự tương ứng và bất tương ứng giữa các ngôn ngữ; đồng thời làm sáng tỏ những mối quan hệ nguyên nhân giữa các hiện tượng đó. Tiêu biểu ý kiến này có B.M ABpamoB (1965). V. Câu hỏi thảo luận 1. Trình bày quan điểm của anh (chị) về nhiệm vụ của ngôn ngữ học đối chiếu. 2. Trình bày quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ học đối chiếu ở Việt Nam. Cho ví dụ minh họa. 3. Anh (chị) hãy cho một vài ví dụ về các công trình đối chiếu ngoại ngữ mà anh chị biết. 4. Sự phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu gắn với những yếu tố nào và giải thích vì sao? 14 5. Anh (chị) hãy thảo luận về những đóng góp của ngành ngôn ngữ học đối chiếu. 15 CHƯƠNG 2. PHẠM VI ỨNG DỤNG CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU Ngôn ngữ học đối chiếu là một trong những phân ngành ngôn ngữ học có tính ứng dụng cao nhất, thể hiện nhiều phương diện. Nó vừa liên quan mật thiết đến những vấn đề truyền thống, cổ điển những cũng mang tính thời sự, hiện đại, vừa gắn chặt với những ứng dụng thực tiễn, gần gũi với đời sống hàng ngày. I. Những ứng dụng về phương diện lý thuyết 1.1 Ngôn ngữ học đối chiếu và ngôn ngữ học đại cương Trước hết ngôn ngữ học đối chiếu giúp kiểm chứng và làm sáng tỏ các phổ niệm được quy nạp trên cứ liệu các ngôn ngữ có ý nghĩa phổ quát, làm phong phú thêm những hiện tượng ngôn ngữ có ý nghĩa phổ quát, làm phong phú thêm lý luận ngôn ngữ. Quá trình phổ niệm thông qua đối chiếu các ngôn ngữ là con đường được L.Bloomfiel (1933) khẳng định khi ông cho rằng bất kỳ một tuyên bố nào về các phổ niệm ngôn ngữ đều phải chờ cho đến khi tích lũy được những cứ liệu về các ngôn ngữ cụ thể. Cao Xuân Hạo cũng có ý kiến đồng tình: nêu lên cái chung cho ngôn ngữ nhân loại là một nhiệm vụ rất quan trọng, những cái chung chỉ có thể rút ra sau khi đã biết rất chắc chắn tất cả những cái riêng, chứ không phải trước đó. Ngôn ngữ học đối chiếu góp phần khắc phục tình trạng dĩ Âu vi trung của ngôn ngữ học đại cương hiện nay. Do đó nhiệm vụ xây dựng các khái niệm, phạm trù làm công cụ nghiên cứu các ngôn ngữ cụ thể, một công trình ngôn ngữ học đại cương cần dựa trên cứ liệu của càng nhiều ngôn ngữ càng tốt. Trong tình hình ngôn ngữ học đại cương hiện nay chủ yếu dựa trên cứ liệu các ngông ngữ Ấn Âu, ngôn ngữ mẹ đẻ của những nhà ngôn ngữ học lớn của nhân loại, đó vẫn còn là nhiệm vụ trong tương lai. Ngôn ngữ học đối chiếu góp phần điều chỉnh những nguyên lý của ngôn ngữ học đại cương, tăng thêm sức mạnh giải thích của lý luận ngôn ngữ nhờ mở rộng phạm vị bao quát của lí luận. Kết quả nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ góp phần kiểm chứng các lý thuyết ngôn ngữ học như việc đối chiếu các phạm trù hay cấu trúc ngữ pháp của hai ngôn ngữ giúp ta nhận rõ được hiệu lực miêu tả của một lý thuyết ngữ pháp. 16 Ngược lại ngôn ngữ học đại cương cũng có vai trò quan trọng đối với ngôn ngữ học đối chiếu: cung cấp các mô hình lý thuyết và hoàn thiện dần bộ máy khái niệm để nghiên cứu ngôn ngữ, trong đó có ngôn ngữ đối chiếu. Tuy nhiên với tư cách là một phân ngành độc lập, từ các mô hình lý thuyết của ngôn ngữ học đại cương, ngôn ngữ học đối chiếu phải phát triển một khung lý thuyết riêng phù hợp với muc đích của mình. 1.2 Ngôn ngữ học đối chiếu và loại hình học ngôn ngữ Trong giai đoạn đầu tiên của lịch sử nghiên cứu loại hình học nhằm phân loại các ngôn ngữ trên thế giới thành những loại hình khác nhau, các nhà nghiên cứu phải bắt đầu từ việc đối chiếu một số ngôn ngữ với nhau. Nghiên cứu đối chiếu không chỉ giúp phân loại ngôn ngữ thành các loại hình. Trong phạm vi các ngôn ngữ cùng loại hình, người ta có thể xác định các tiểu loại hình và tìm cách quy các ngôn ngữ thuộc vào từng tiểu loại hình. Để định vị được vị trí của một ngôn ngữ thuộc vào tiểu loại hình nào, cần phải đối chiếu ngôn ngữ đó với từng khuôn mẫu tiêu biểu cho từng tiểu loại hình. Chẳng hạn, dựa vào phân chia loại hình ngôn ngữ đơn lập thành ba tiểu loại hình của nhà Đông Phương học Nga S. E. Jakhontov, N.V Stankevich nghiên cứu đối chiếu tiếng Việt với ba tiểu loại hình tiếng Hán về một số mặt: đơn vị ngữ pháp cơ bản, kết cấu ngữ pháp, hư từ. Qua đối chiếu N.V Stankevich thấy rằng tuy tiếng Việt hiện đại có một số nét giống tiếng Hán cổ đại và một số nét giống với tiếng Hán hiện đại nhưng tiếng Việt gần với tiếng Hán Trung đại hơn cả. Ngôn ngữ học đối chiếu cung cấp cho loại hình học nhiều tư liệu cụ thể về cấu trúc và hoạt động của các ngôn ngữ cùng và khác loại hình, góp phần làm rõ đặc trưng của từng loại hình ngôn ngữ và bổ sung cho các loại hình học những hướng nghiên cứu mới. Cần nói thêm, loại hình học có ảnh hưởng trở lại đối với ngôn ngữ học đối chiếu. Trước hết nó giúp cho ngôn ngữ học đối chiếu có được những chỉ dẫn có tính định hướng trong việc phát hiện những điểm giống nhau và khác nhau giữa các ngôn ngữ đối chiếu. Chẳng hạn, cách phân chia loại hình các ngôn ngữ trên thế giới theo tiêu chí trật tự cú pháp cơ bản như S-V-O, S-O-V... cung cấp cho ngôn ngữ đối chiếu một gợp ý chẳng hạn khi nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ A và B có thể xét xem hai ngôn ngữ này giống nhau hay khác nhau thế nào. Như vậy sự phân loại loại hình học càng phong phú thì nội dung nghiên cứu đối chiếu càng đa dạng. 17 Nhờ những kết quả nghiên cứu của loại hình học mà ngôn ngữ học đối chiếu có cơ sở để giải thích các hiện tượng tương đương và dị biệt. Chẳng hạn sự khác biệt về vị trí giới từ trong tiếng Việt (đặt trước danh từ, danh ngữ) và tiếng Hàn (đặt sau danh từ, danh ngữ) có mối liên quan mật thiết đến sự khác biệt khác được nghiên cứu trong loại hình học là trật tư cú pháp cơ bản S-V-O của tiếng Việt và S-O-V của tiếng Hàn. Tỉ lệ đặc điểm giống nhau và khác nhau giữa các ngôn ngữ được đối chiếu tùy thuộc vào đặc điểm loại hình của các ngôn ngữ đó. Vì vậy những thông tin về loại hình ngôn ngữ và loại hình học giúp người nghiên cứu ước lượng được khoảng cách giữa các ngôn ngữ được đối chiếu. 1.3 Ngôn ngữ học đối chiếu và việc miêu tả ngôn ngữ Thông qua đối chiếu nhiều đặc điểm quan trọng được phát hiện. Nó cho phép nhà nghiên cứu xác định rõ hơn các đặc điểm của từng ngôn ngữ được đối chiếu, những đặc điểm vốn không được quan tâm khi nghiên cứu bên trong ngôn ngữ. Khi đối chiếu trật tự từ trong tiếng Anh và tiếng Czech, V. Mathesius quan niệm sự so sánh là cách để xác định các đặc điểm của từng ngôn ngữ và hiểu sâu sắc hơn những nét đặc thù của chúng. Nhờ đối chiếu các ngôn ngữ khác nhau chúng ta biết được sự đa dạng của article (quán từ, mạo từ) trong các ngôn ngữ trên thế giới. Xét theo tiêu chí article, các ngôn ngữ trên thế giới có 5 loại hình. + Ngôn ngữ có hai loại article (xác định và bất định) như các ngôn ngữ German (Anh, Đức, Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển...), Các ngôn ngữ Roman (Rumani, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha...) tiếng Hungari, tiếng Ai cập cổ, tiếng Polynesia của dân đảo Samoa, một số ngôn ngữ ở Indonesia và châu Mĩ... + Ngôn ngữ chỉ có article xác định như tiếng Hy Lạp cổ. + Ngôn ngữ chỉ có article bất định như tiếng Ba Tư văn học, tiếng Tadjik. + Ngôn ngữ có article xác định, article bất định và article chiết phân như tiếng Pháp, tiếng Ý.. + Ngôn ngữ không có article như các ngôn ngữ slave (trừ tiếng Bulgaria) và đa số các ngôn ngữ khác trên thế giới. Hình thức biểu hiện của article trong các ngôn ngữ rất khác nhau. Có khi ở vị trí trước trung tâm mà nó bổ nghĩa, nhưng có khi lại đứng sau. Có khi nó là 18 một từ nhưng có khi nó lại là một hình vị (hậu tố trong tiếng Bulgaria, Rumania, các ngôn ngữ Scandinavie, tiền tố trong tiếng Ả Rập...) Trong khi việc miêu tả ngôn ngữ đòi hỏi phải thực sự xuất phát từ chính cứ liệu của ngôn ngữ cần miêu tả, tránh xu hướng “dĩ Âu vi trung” thì việc áp dụng các lý thuyết ngôn ngữ học và kinh nghiệm phân tích dữ liệu của các nhà ngôn ngữ Châu Âu lại là điều cần thiết bởi nghiên cứu đối chiếu là cách tốt nhất để học hỏi kinh nghiệm phân tích từ những ngôn ngữ khác nhằm tìm kiếm thêm luận cứ biện giải cho một hiện tượng, phạm trù nào đó trong ngôn ngữ đang miêu tả. Như vậy, nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ có thể phát hiện các đặc điểm ngôn ngữ ở cả ba loại: đặc điểm phổ quát, đặc điểm loại hình và đặc điểm riêng biệt từng ngôn ngữ. 1.4 Ngôn ngữ học đối chiếu và những lĩnh vực nghiên cứu lí thuyết khác Qua nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ có thể phát hiện được những ô trống của ngôn ngữ này so với ngôn ngữ kia. Đó là trường hợp một đơn vị, một cấu trúc, một hiện tượng ngôn ngữ có trong ngôn ngữ này nhưng lại không có trong ngôn ngữ kia... Chẳng hạn từ có nghĩa là horse không có trong ngôn ngữ của người Mĩ da đỏ cho đến khi người Tây ban Nha mmang ngựa đến châu Mĩ. Những từ có nghĩa là corn, potato không có trong ngôn ngữ Châu Âu cho đến khi châu lục này nhập ngô và khoai tây từ châu Mĩ. Tiếng Eskimo có hàng chục từ khác nhau để chỉ tuyết, tương ứng với nhiều loại khác nhau của tuyết. Trong khi đó nhiều dân tộc, mặc dù có kinh nghiệm đáng kể về tuyết nhưng lại không có sự phân biệt tinh tế đến như vậy (Lado 1957). Các từ chỉ màu sắc trong các ngôn ngữ khác nhau thường không có sự tương ứng một đối một. Chẳng hạn từ blue trong tiếng Anh không có từ tương ứng hoàn toàn trong tiếng Nga (2 từ goluboj, sinij). Nếu đối chiếu với tiếng Việt thì sự khác biệt giữa các ngôn ngữ còn đáng kể hơn. Từ xanh trong tiếng Việt tương ứng với cả hai từ blue, green trong tiếng Anh và ba từ goluboj, sinij, zeljonyj trong tiếng Nga. Tiếng Việt có nhiều từ biểu thị những khái niệm khác nhau trong cách tri nhận sự vật của người Việt như lúa, thóc, gạo, cơm; trong tiếng Hàn cũng có 4 từ tương ứng: pye – lúa, pyep ssi – thóc, ssal – gạo, pap – cơm. Trong khi đó nhiều ngôn ngữ châu Âu chỉ có một từ duy nhất là rice. Đối chiếu từ chỉ quan hệ thân tộc trong các ngôn ngữ cũng có thể phát hiện ra hiện tượng như vậy. Trong tiếng Anh từ uncle có ý nghĩa bao hàm ý nghĩa của cả một nhóm từ trong tiếng Việt: bác, chú, cậu, dượng. Tương tự từ aunt là bác, cô, dì, mợ, thím.. Những ô trống này cung cấp cho ta những thông tin bổ ích về hiện thực cuộc sống, kinh 19 nghiệm, thói quen, cách thức phạm trù hóa thế giới của người bản ngữ. Không phải ngẫu nhiên mà các từ lúa, thóc, gạo, cơm cử tiếng Việt có những từ tương đương trong tiếng Hàn, nhưng lại khác đáng kể với tiếng Anh, tiếng Bulgaria. Những sự tương đồng và khác biệt đó rõ ràng có mối liên quan chặt chẽ với văn hóa và chỉ được phát hiện qua lăng kính đối chiếu. Như vậy, ngôn ngữ học đối chiếu góp phần nghiên cứu các đặc trưng văn hóa – dân tộc và giải quyết những vấn đề đặt ra cho ngôn ngữ học tri nhận. II. Những ứng dụng về phương diện thực tiễn 2.1 Ngôn ngữ học đối chiếu và lĩnh vực dạy học ngoại ngữ Nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học ngoại ngữ là một trong những động cơ mạnh mẽ thúc đẩy sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu. Hướng ứng dụng này xuất phát từ giả định rằng nghiên cứu đối chiếu có thể giúp xác định chính xác những thuận lợi và khó khăn mà những người học ngoại ngữ gặp phải bằng cách phát hiện những điểm tương đồng, khác biệt so với tiếng mẹ đẻ của người học mà dự đoán được những lỗi có thể mắc phải để tìm cách phòng tránh và khắc phục. Vấn đề nêu trên có nhiều ý kiến trái ngược. Do vậy trong một thời gian dài khoảng từ thập niên 60 đến cuối thế kỷ XX, nhiều giáo trình, chuyên luận, bài nghiên cứu dành phần đáng kể phân tích kỹ lưỡng vấn đề này. Tất cả các phân tích đó xoay quanh những nội dung sau: ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ đối với quá trình học ngoại ngữ; mối quan hệ giữa sự giống nhau và khác nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ với những thuận lợi và khó khăn đối với việc học ngoại ngữ; lỗi do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ trong tương quan với những lõi khác trong quá trình học tiếng; khả năng và hình thức ứng dụng hiểu biết về những điểm giống nhau và khác nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ vào quá trình dạy học. 2.1.1 Ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ đối với học ngoại ngữ Mối liên quan giữa ngôn ngữ học đối chiếu với lĩnh vực dạy học ngoại ngữ được bắt nguồn từ việc nghiên cứu ảnh hưởng của tiếng mẹ để đối với quá trình học ngoại ngữ. Mối liên hệ này có thực sự tồn tại hay không, nếu có thì ở mức độ nào. Dấu hiệu rõ nhất cho thấy ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ đối với người học ngoại ngữ là giọng trong phát âm của họ. Có thể căn cứ vào giọng của người học để đoán biết tiếng mẹ đẻ của người đó thuộc ngôn ngữ nào. Một số lỗi phát âm 20 và những lỗi ngôn ngữ khác thường lặp đi lặp lại đối với những học viên nói cùng một ngôn ngữ. Trong khi đó những người nói các thứ tiếng khác nhau thường gặp những khó khăn khác nhau khi học cùng một ngoại ngữ. Học ngoại ngữ có đặc điểm loại hình gần với tiếng mẹ đẻ sẽ dễ hơn là học một ngoại ngữ xa lạ về loại hình. Chẳng hạn, một người nói tiếng Việt học tiếng Hán sẽ dễ dàng hơn là học tiếng Anh. Đối với người nói tiếng Pháp thì ngược lại, học tiếng Anh sẽ dễ dàng hơn nhiều so với tiếng Hán. Các trình bày trên cho thấy tiếng mẹ đẻ có ảnh hưởng không nhỏ trong quá trình học ngoại ngữ. Trong ngôn ngữ học đối chiếu có dùng thuật ngữ chuyển di ngôn ngữ dùng để chỉ sự ảnh hưởng này. Cuốn Language Transfer của T. Odlin (1989) là một trong số ít chuyên luận đề cập đến chuyển di ngôn ngữ. Trong công trình này, tác giả trình bày đầy đủ bản chất của hiện tượng chuyển di ngôn ngữ, nêu những minh chứng thuyết phục vai trò của nó trong quá trình học ngoại ngữ ở bình diện ngữ âm, từ vựng, cú pháp và cả bình diện ngữ dụng, diễn ngôn cũng như sự tác động qua lại giữa chuyển di ngôn ngữ với các nhân tố văn hóa, xã hội và cá nhân trong quá trình này. Chuyển di ngôn ngữ thường được hiểu là ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ đối với quá trình học ngoại ngữ. Tuy nhiên, chuyển di không phải khi nào cũng bị ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ. Đôi khi chuyển di còn là ảnh hưởng của một ngôn ngữ khác mà người học đã học trước đó. Như vậy sự đồng nhất hai khái niệm chuyển di ngôn ngữ và ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ chỉ có tính chất ước định. Tuy nhiên khi bàn luận vấn đề chuyển di ngôn ngữ thì cách hiểu có tính ước định này tỏ ra tiện lợi hơn, vì ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ là hình thức chuyển di ngôn ngữ điển hình nhất, phổ biến nhất và đáng kể nhất. Chuyển di ngôn ngữ có thể chia thành hai loại: chuyển di tích cực và chuyển di tiêu cực. Chuyển di tích cực là hiện tượng chuyển di những hiểu biết kỹ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ vào quá trình học ngoại ngữ, giúp việc học ngoại ngữ trở nên dễ dàng hơn do có sự giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ với ngôn ngữ cần học. Hiện tượng chuyển di tích cực thể hiện ở tất cả bình diện ngôn ngữ và cả những bình diện ngoài ngôn ngữ như chữ viết và văn hóa. Chẳng hạn, khi học một ngoại ngữ, người học sẽ phát âm dễ dàng và nhanh chóng những âm nào mà tiếng mẹ đẻ cũng có như các âm [b],[k],[m],[n],[s].. đối với người Việt học tiếng Anh hay người Anh học tiếng Việt. Nếu hai ngôn ngữ giống nhau về từ vựng thì 21 người học sẽ ít tốn thời gian để học từ mới. Khi học tiếng Hàn, học viên người Trung Quốc sẽ có lợi thế đặc biệt do trong tiếng Hàn có hơn 50% vốn từ gốc Hán. Đối lập với chuyển di tích cực, hiện tượng chuyển di tiêu cực thường gây cản trở và làm chậm quá trình học tập. Chuyển di tiêu cực là hiện tượng xảy ra khi có sự nhầm lẫn của người học cho rằng cấu trúc của ngoại ngữ cũng giống như cấu trúc của tiếng mẹ đẻ, trong khi giữa các cấu trúc của hai thứ tiếng có sự khác biệt. Sự áp đặt cấu trúc tiếng mẹ đẻ cho cấu trúc ngoại ngữ dẫn đến việc phạm lỗi. Những lỗi này nếu không được sửa chữa kịp thời thì sẽ được người học ghi nhớ trở thành thói quen của người học và rất khó sửa. Hiện tượng chuyển di tiêu cực có lý do sâu xa do sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ và nó thể hiện ở mọi cấp độ và bình diện ngôn ngữ. Trên bình diện ngữ âm, người Việt mất thời gian để phát âm đúng một số phụ âm tiếng Anh như [t∫] trong children hay church,[θ] trong think hay thank, [ð] trong mother hay brother… Trên bình diện từ vựng, chuyển di tiêu cực ngay trong trường hợp giữa hai ngôn ngữ có những đơn vị từ vựng tương đường như trong tiếng Việt và tiếng Hàn có những âm và nghĩa tương tự: ũm ak (Hàn) – âm nhạc (Việt), jõn t’ong (Hàn) – truyền thống (Việt)… Song chính những tương đồng về từ vựng tạo điều kiện thuận lợi trong việc học ngoại ngữ nhưng cũng tiềm annr nhiều nguy co nhầm lẫn đối với người học ngoại ngữ. Trên bình diện ngữ pháp hiện tượng chuyển di tiêu cực thể hiện nhiều hình thức đa dạng từ đơn vị, phạm trù thuộc hình thái học đến những đơn vị, phạm trù thuộc cú pháp học. Sự nhầm lẫn trong việc sắp xếp trật tự từ thích hợp trong câu tiếng Việt khiến nhiều học viên người nga, Nhật Bản là một minh chứng. Sau một thời gian học tiếng Việt họ vẫn nhầm lẫn “nhà tôi” thành “tôi nhà”. Hiện tượng này được lý giải thuyết phục nhất là do thói quyển dùng trật tự từ trong tiếng Nga, đại từ sở hữu đứng trước danh từ trưng tâm. Với sự phát triển của ngữ dụng học, sự chuyển di ngữ dụng ngày càng được chú ý. Đặc biệt là những lỗi giao tiếp do chuyên di ngôn ngữ liên quan đến những hiểu biết về quan hệ vai, các hành động ngôn từ như chào, xin lỗi, cảm ơn.. và các phương châm hội thoại như phương châm lịch sự, phương châm cách thức…. làm phong phú thêm phạm trù chuyển di. Chẳng hạn, phương châm lịch sự là một phạm trù khái quát, nhưng cách thể hiện phương châm này lại khác nhau đáng kể trong các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau. Hỏi thăm về gia đình, 22 cuộc sống của người đối thoại khi mới làm quen là một biểu hiện của phép lịch sự trong giao tiếp của người Á Đông, nhưng không được xem là phù hợp theo quan điểm của văn hóa phương Tây. Chuyển di thường đồng nhất với hiện tượng mắc lỗi khi sử dụng ngoại ngữ. Nhưng trong thực tế, chuyển di tiêu cực không chỉ dẫn đến lỗi mà còn gây nên một số khiếm khuyết khác: năng sản dưới mức, tức là hạn chế hoặc tránh hoàn toàn việc sử dụng cấu trúc quá xa lạ so với tiếng mẹ đẻ; năng sản vượt mức do hạn chế dùng một số cấu trúc nào đó nêm một số cấu trúc khác bị lạm dụng. Từ những phân tích trên cho thấy chuyển di nói chung và chuyển di tiêu cực nói riêng là một hiện tượng khách quan trong quá trình học ngoại ngữ. 2.1.2 Mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ đối với việc học ngoại ngữ Nhiều người có xu hướng cho rằng khi học ngoại ngữ, chỗ nào giống với tiếng mẹ đẻ thì dễ học, còn chỗ nào khác với tiếng mẹ đẻ thì khó học hơn. Thật ra, mối quan hệ giữa sự giống nhau và khác nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ với những thuận lợi và khó khăn đối với việc học không hề đơn giản. Giống nhau và khác nhau là vấn đề thuộc về đối tượng, tồn tại khách quan trong mối quan hệ giữa hai ngôn ngữ nhất định. Còn dễ hay khó là những khái niệm tâm lý tồn tại trong óc của người học – chủ thể. Đó là những phạm trù tuy có mối liên quan chặt chẽ với nhau, nhưng lại không tương ứng theo kiểu một đối một với nhau. Vào thời kỳ hưng thịnh việc đối chiếu các ngôn ngữ ở Mỹ, nhiều nhà nghiên cứu như Stockwell, Bowen, Martin, Prator đã cố gắng thông qua đối chiếu các ngôn ngữ, phát hiện những điểm khác nhau giữa tiếng mẹ đẻ của người học và ngoại ngữ để xác lập “mức độ khó khăn’’ của người học, nhất là trong lĩnh vực phát âm và ngữ pháp. Thế nhưng những khác nhau giữa hai ngôn ngữ không phải khi nào cũng gây khó khăn cho quá trình học. Tính từ trong tiếng Nga khác với tiếng Anh là có phạm trù số, giống, cách. Chẳng hạn tiếng Nga nói Novaja kniga interesna thì tiếng Anh nói The new book is interesting. Khi học tiếng Nga, nếu người Anh không phân biệt các phạm trù này sẽ dễ mắc lỗi. Tuy vậy khi người Nga học tiếng Anh thì sự khác biệt về hình thái của tính từ giữa hai ngôn ngữ không gây trở ngại nào. Hai từ tiếng Việt anh trai/em trai tương ứng trong tiếng Anh là brother. Trong khi sự khác biệt đó có thể gây khó khăn cho người Anh khi học hai từ trên thì ngược lại, người Việt không gặp rắc rối nào khi học từ brother trong tiếng Anh. Như vậy, sự khác nhau giữa hai ngôn ngữ tự nó chưa đủ cho phép tiên đoán một cách chính xác những khó khăn của 23 người học. Ngược lại, không phải khi nào sự giống nhau giữa hai ngôn ngữ cũng tạo thuận lợi cho người học. Xuất phát từ thực tế đó, trong quá trình đối chiếu các ngôn ngữ để khắc phục giao thoa, nhiều nhà nghiên cứu đã chủ trương nên phân biệt 4 trường hợp giống nhau và khác nhau sau: 1. Sự giống nhau cần yếu: Đây là những nét giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ có thể giúp người giảng những chỉ dẫn cụ thể trong quá trình truyền đạt ngoại ngữ như trật tự từ, thành phần câu (A-V)... Ví dụ: Tiếng Việt và tiếng Khơ me có nét giống nhau cơ bản về trật tự những yếu tố trong cụm danh từ (danh+tính) và những đơn vị thành phần câu trong kết cấu câu đơn (chủ-vịbổ). Đây là những nét giống nhau cần yếu trong đối chiếu tiếng Việt-Khơ me.Vì ít ra, nó đưa lại cho chúng ta chỉ dẫn cụ thể: đối với người Khơ me học tiếng Việt, vấn đề trật tự các yêu cầu trong cụm danh từ và trong kết cấu câu dơn không phải là đối tượng giảng dạy chú ý. 2. Sự giống nhau không cần yếu: Đây là trường hợp phổ niệm ngôn ngữ. Chẳng hạn ngôn ngữ nào cũng có nguyên âm, danh từ, động từ… Như vậy, những nét giống nhau này không phải là đối tượng chú ý của việc nghiên cứu đối chiếu với mục đích giảng dạy, học tập ngoại ngữ. 3. Sự khác nhau cần yếu: Đây là trường hợp đáng lưu ý nhất. Vì sự khác nhau cần yếu luôn là “cha đẻ” của hiện tượng giao thoa ngôn ngữ. Ví dụ: Ở bình diện ngữ âm-âm vị học, có sự khác nhau khá rõ giữa các ngôn ngữ Slavơ biến hình (Nga, Sec, Bun..) và tiếng Việt: các từ của tiếng Việt được khu biệt với nhau bằng các thanh điệu trong khi các ngôn ngữ Slavơ là đơn vị từ, hoặc cùng lắm phân biệt bằng ngôn điệu-trọng âm. Chính điều này khiến cho người Nga, Sec, Bun… khi học tiếng Việt thường mắc nhiều lỗi phát âm thanh điệu. Ở bình diện ngữ pháp, các danh từ tiếng Việt được phân loại và phạm trù hóa theo những từ chỉ loại. Trong khi các danh từ của tiếng Nga, Tiệp, Bun không có hiện tượng này. Ở bình diện ngữ pháp, các danh từ tiếng Việt được phân loại và phạm trù hóa theo những từ chỉ loại. Trong khi các danh từ tiếng Nga, Sec, Bun..không có hiện tượng này. Đây là hiện tượng cần lưu ý trong đối chiếu ngữ pháp. 4. Sự khác nhau không cần yếu: Đây là những sự khác nhau không dẫn đến hiện tượng giao thoa ngôn ngữ bất lợi cho người học ngoại ngữ. Ví dụ: giữa tiếng Nga và tiếng Việt có sự khác nhau ở cơ chế tương hợp ngữ pháp của các 24 đơn vị thuộc cấp độ hình thái: tính từ tiếng Nga có phạm trù ngữ pháp giống, số, cách, trong khi tính từ ở tiếng Việt thì không. Nét khác biệt này thực tế không cần yếu đối với người Nga khi học tiếng Việt. Họ có thể dễ dàng lựa chọ những hình thái tính từ Việt ngữ tương ứng với các hình thái tính từ Nga ngữ. Howacj trong tiếng Anh động từ có thời, thể, thức trong khi động từ tiếng Việt không có. Sự phân biệt 4 kiểu giống và khác nhau trên nhằm khẳng định không nên đồng nhất hoàn toàn sự giống nhau và khác nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ với sự thuận lợi và khó khăn của người học trong quá trình học nhưng cũng không nên phủ nhận mối liên hệ giữa chúng, nhất là mối liên hệ giữa những khác biệt cần yếu và độ khó của việc học một ngoại ngữ. III. Ngôn ngữ học đối chiếu lí thuyết và ngôn ngữ đối chiếu ứng dụng Vào giai đoạn đầu, ngôn ngữ học đối chiếu chủ yếu nhằm đến những ứng dụng dạy tiếng thuần túy. Vì thế mà một thời nó được coi là một nhánh của ngôn ngữ học ứng dụng. Về sau, cách xác định này không còn phù hợp do ngôn ngữ học đối chiếu nhằm mục đích lý thuyết và dạy tiếng. Tại hội thảo chuyên bàn về ngôn ngữ học đối chiếu măn 1968 (Mỹ), Wilga Rivers đã đề nghị áp dụng cách phân biệt của N. Chomsky (phân biệt ngữ pháp giảng dạy và ngữ pháp ngôn ngữ học) cho ngôn ngữ đối chiếu. Từ đó, sự phân biệt ngôn ngữ học đối chiếu nhằm mục đích lý thuyết và ngôn ngữ học đối chiếu nhằm mục đích dạy tiếng bắt đầu được chú ý hơn (Aarts & Wekker 1990). Thật ra, sự phân biệt rõ ngôn ngữ học đối chiếu lý thuyết và ngôn ngữ học đói chiếu ứng dụng, đôi khi được gọi là nghiên cứu đối chiếu thuần túy, nhằm mục đích tự nó, và nghiên cứu đối chiếu có định hướng, nghĩa là hướng đến mục đích ứng dụng. Theo như cách trình bày trên, sự phân biệt ngôn ngữ học đối chiếu lý thuyết và ngôn ngữ học đối chiếu ứng dụng hoàn toàn dựa vào mục đích đối chiếu. Mục đích của ngôn ngữ học đối chiếu lý thuyết là xây dựng những mô hình thích hợp để phân tích đối chiếu nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến ngôn ngữ học đại cương, loại hình học, ngôn ngữ học miêu tả, ngôn ngữ học tri nhận hay là những vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa. Còn mục đích của ngôn ngữ học đối chiếu ứng dụng là phục vụ cho những nhu cầu cụ thể, có tính chất thực tiễn như dạy học ngoại ngữ, giáo dục song ngữ hay dịch thuật. Sự phân biệt này thực sự quan trọng đối với việc đánh giá tính hữu dụng và giá trị của một công trình ngôn ngữ học đối chiếu. Hai hướng nghiên cứu này phân biệt nhau nhưng không tách rời nhau. Ngôn ngữ học đối chiếu lý thuyết gánh vác phận sự 25 Các nguyên tắc và quy trình đối chiếu ngônngữLê Đình Tư 1. Cơ sở đối chiếu ngôn ngữ 1.1 Đối chiếu và các kiểu đối chiếu – Việc so sánh nói chung thường được thực hiện khi các sự vật hay hiện tượng được lấy làm đối tượng so sánh nằm trong cùng một phạm trù, nghĩa là thuộc cùng một loại. Chẳng hạn, ta có thể so sánh hai cái bàn vì chúng thuộc cùng một loại sự vật. Chính vì chúng thuộc cùng một loại sự vật nên giữa chúng có những điểm chung để so sánh, ví dụ: kích thước, chất liệu, hình dáng… Loại so sánh này nhằm mục đích tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa các sự vật hay hiện tượng. – Tuy nhiên, người ta cũng có thể so sánh các sự vật hay hiện tượng nhằm mục đích chứng minh hay làm nổi rõ một đặc điểm nào đó của sự vật hay hiện tượng. Trong trường hợp này, các sự vật hay hiện tượng được đem ra so sánh có thể thuộc về những loại, những phạm trù khác nhau. Ví dụ: F. de Saussure so sánh cơ chế ngôn ngữ với bàn cờ, hay giá trị ước lệ của một tín hiệu ngôn ngữ với một quân cờ. Loại so sánh này chủ yếu chú ý đến điểm tương đồng giữa các đối tượng so sánh mà ít chú ý đến sự khác biệt giữa chúng. Kiểu so sánh thứ nhất mang tính khách quan nên được dùng làm phương pháp nghiên cứu chủ đạo trong ngôn ngữ học đối chiếu nói riêng, cũng như trong ngôn ngữ học so sánh nói chung. Nói cách khác, trong ngôn ngữ học đối chiếu, những yếu tố được đem so sánh bao giờ cũng đồng loại với nhau. Đồng loại là điều kiện tiên quyết của sự so sánh/đối chiếu. 1.2 Tiêu chí đối chiếu – Điểm chung hay cơ sở để đối chiếu các hiện tượng ngôn ngữ gọi là tiêu chí đối chiếu. Tiêu chí đối chiếu sẽ quyết định đến kết quả đối chiếu. Chẳng hạn, khi đối chiếu phụ âm /s/ và phụ âm /t/, nếu xét theo phương thức cấu âm thì hai phụ âm này khác nhau hoàn toàn, nhưng khi xét về vị trí cấu âm thì hai phụ âm này đều là phụ âm đầu lưỡi. Tiêu chí đối chiếu được coi như một thứ siêu ngôn ngữ, không thuộc riêng một ngôn ngữ nào trong số những ngôn ngữ được đối chiếu. – Trong đối chiếu ngôn ngữ, chỉ những đối tượng tương đương với nhau mới có thể so sánh với nhau. Qua so sánh, đối chiếu, ta xác định được những điểm giống nhau và khác nhau giữa các đơn vị hay cấu trúc ngôn ngữ tương đương. Ví dụ: Cám ơn! và Dziękuję! là hai cách nói tương đương nhưng trong tiếng Việt, cách nói này không phải lúc nào cũng được sử dụng. Khi cám ơn người già, người có chức vụ cao hoặc trong những tình huống giao tiếp thân mật, người Việt thường phải dùng những cách nói khác, ví dụ: “Cháu xin bà!”; “Anh chu đáo quá!”… Hay phạm trù giống trong tiếng Nga và tiếng Pháp là những phạm trù tương đương, nhưng người Nga phân biệt 3 giống còn người Pháp chỉ phân biệt hai giống. Trong khi đó việc đối chiếu phạm trù giống tiếng Nga và tiếng Việt sẽ không thực hiện được vì trong tiếng Việt không có phạm trù giống tương đương. – Mỗi cấp độ hay mỗi bình diện ngôn ngữ đều có những tiêu chí đối chiếu riêng. Trên cấp độ ngữ âm thì đó là sự giống nhau của bộ máy phát âm của tất cả mọi người trên thế giới; trên cấp độ từ vựng-ngữ nghĩa thì đó có thể là sự giống nhau về hiện thực khách quan hay về nội dung tư duy; trên cấp độ câu thì sự giống nhau về quan hệ: chủ thể-hành động-khách thể sẽ là tiêu chí đối chiếu… Chính nhờ những tiêu chí (tertium comparationis) này mà chúng ta mới có thể học được ngôn ngữ của nhau và dịch được các văn bản từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. 1.3 Các kiểu đối chiếu – Đối chiếu định lượng: Là kiểu đối chiếu nhằm xác định những khác biệt về số lượng các yếu tố ngôn ngữ xét theo một tiêu chí đối chiếu nào đó. Ví dụ: Đối chiếu số lượng các nguyên âm hay số lượng các từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt và tiếng Anh. Kiểu đối chiếu này giúp xác định những “lỗ hổng” trong cấu trúc của ngôn ngữ này so với ngôn ngữ khác. – Đối chiếu định tính: Là kiểu đối chiếu nhằm tìm ra những đặc điểm (những điểm giống nhau và khác nhau) giữa các yếu tố ngôn ngữ tương đương của hai ngôn ngữ. Ví dụ: Đối chiếu trọng âm của tiếng Việt và tiếng Anh. Kiểu đối chiếu này có quan hệ chặt chẽ với kiểu đối chiếu thứ nhất. 2. Các nguyên tắc đối chiếu – Các yếu tố ngôn ngữ phải được miêu tả đầy đủ. Việc đối chiếu được thực hiện trên cơ sở các bản miêu tả đó. 3. Quy trình đối chiếu Từ các nguyên tắc đối chiếu trên đây, một quy trình đối chiếu đã được xác lập: – Bước 1: Miêu tả hoặc tìm bản miêu tả ngôn ngữ thích hợp nhất với mục đích đối chiếu. Đối với việc đối chiếu bản dịch, cần tìm được bản dịch tương đương, hoặc dùng bản dịch của các dịch giả có uy tín. – Bước 2: Xác định những cái có thể đối chiếu với nhau được, tức là xác định các yếu tố tương đương. – Bước 3: Thực hiện công việc đối chiếu, tìm ra những điểm đồng nhất và khác biệt của những cái tương đương trong hai ngôn ngữ. _______________________________________________ Share this:Thích bài này:Thích Đang tải... Có liên quanThis entry was posted on Tháng Ba 1, 2010 lúc 10:08 chiều and is filed under Ngôn ngữ học đối chiếu. Thẻ: Nguyên tắc & quy trình đối chiếu. You can follow any responses to this entry through the RSS 2.0 feed. You can leave a response, hoặc trackback from your own site. |