Sống bằng pháo, đến khi Nhà nước cấm pháo, cả làng hụt hẫng những tưởng không còn cách kiếm sống. Năm tháng qua đi, nhờ truyền thông tích cực và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ đã khiến nghề làm pháo chỉ còn là “kỷ niệm” tại Bình Đà. Show
Gốc tích làng pháo Làng Bình Đà, xã Bình Minh, huyện Thanh Oai, TP Hà Nội trước năm 1947 được biết đến là một làng cổ, nơi lưu lại dấu tích của Lạc Long Quân cùng 50 con dừng chân, lập ấp trước khi tiến ra biển Nam Hải. Đền Nội ở làng Bình Đà có bức hoành phi “Đền Quốc Tổ”, trong đền có bảo vật quốc gia “Phù điêu Quốc tổ Lạc Long Quân” hơn 1.000 năm tuổi. Đồi Ba Gò ở cánh đồng làng được cho là nơi Lạc Long Quân hóa về trời, trên đồi đã phát hiện ra một số di chỉ gạch múi cam, được xác định trên 2.000 năm. Tuy vậy, người ta biết đến Bình Đà là một làng làm pháo (với loại pháo nổi tiếng nhất mang tên “Nam Hải Hoàng Hoa”) suốt từ thời nhà Nguyễn nhiều hơn là những câu chuyện huyền sử vẫn còn là bí ẩn như trên. Bước ngoặt lớn nhất của làng là vào năm 1947 khi quân Pháp đồn trú tại làng. Một tên tướng Pháp lúc đó tên là Ti-bô đã cho thành lập trường bắn gần Bình Đà, bên trong có cất giữ rất nhiều thuốc súng. Nhiều thanh niên làng tò mò đã trèo vào ăn trộm và lấy thuốc súng về chế tạo pháo, đốt cho vui tai chứ chẳng ai có mục đích làm kinh tế.Sau khi giải phóng miền Bắc năm 1954, trường bắn bị giải tán, lượng thuốc súng lớn thất thoát, hầu hết do thanh niên làng Bình Đà lấy để chế tạo các loại pháo. Hầu như gia đình nào trong làng cũng nắm rõ từ thành phần tới công thức, mức độ an toàn và dần tìm được nguồn nguyên liệu cố định, thường xuyên. Trước năm 1960, mô hình hợp tác xã còn hoạt động, pháo được đưa vào hợp tác xã nên nhà nhà người người đi làm pháo. Khi mô hình hợp tác xã giải tán, pháo được mang về từng nhà, từ đó, tiếng pháo nổ, các vụ tai nạn nằm ngoài tầm kiểm soát. Cứ dịp gần Tết Nguyên đánthời trước năm 1995, làng Bình Đà tấp nập kẻ ra người vào. Làng trên, xóm dưới rộn rã không khí tấp nập, khẩn trương,không khí vui như trẩy hội.Người dân ở các nơi trên cả nước đổ về Bình Đà, vừa để tham quan, vừa mua pháo về chơi. Thời ấy, đặt chân tới đất Bình Đà là đã có thể ngửi thấy mùi thuốc pháođặc quánh khắp làng, mùi xác pháo vừa đốt, mùi giấy cuộn pháo và cảm nhận được sự náo nhiệt của nghề làm pháo. Cả làng đều làm pháo, không phân biệt tuổi tác, giới tính cuốn theo vòng xoáy của công việc khá nguy hiểm này.Trẻ con thì tiêm pháo, cuộn pháo, những người trung niên có nhiều kinh nghiệm thì nhận nhiệm vụ đổ thuốc. Người ta làm pháo từ sáng sớm tới tối mịt, tình làng nghĩa xóm nhờ đó mà cũng trở nên thân thiết. Dân Bình Đà đều có việc làm và phần lớn đều có cuộc sống rất khá giả. Thậm chí, nhiều đứa trẻ còn thích ở nhà làm pháo hơn là đi học. Nghề pháo càng phát triển, những ngôi nhà tầng cũng dần thay thế những mái nhà ngói cũ kĩ, đời sống nhân dân dần được nâng lên.Người Bình Đà rất tự hào vì nghề này đã giúp nơi đây trở thành làng giàu nhất nhì huyện Thanh Oai lúc đó. Tháng 10/1959, Bình Đà vinh dự được đón Bác Hồ về thăm. Điều đặc biệt là Bác đã xuống tận ruộng thăm hỏi người dân Bình Đà thu hoạch lúa mùa tại chính thửa ruộng được cho là nơi năm xưa vua Lý Thái Tông cày Tịch Điền. Thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1965-1975) nơi đây còn là quê hương của những cánh đồng 5 tấn, 10 tấn, một đơn vị dẫn đầu miền Bắc. Năm 1985, xã Bình Minh được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động và nhiều Huân chương cao quý khác. Mốc “chuyển đổi” lịch sử Tết Ất Hợi năm 1995 là cái Tết không bao giờ quên đối với người dân làng Bình Đà. Đó là năm đầu tiên Chỉ thị 406/TTg của Thủ tướng Chính phủ về cấm sản xuất, vận chuyển và đốt các loại pháo nổ có hiệu lực kể từ ngày 1/1/1995. Không khí u ám bao trùm lên làng Bình Đà khi Tết Ất Hợi gần đến, một vài nhà “bánh chưng không có” “áo mới chẳng còn”, chẳng ai dám nhắc đến từ pháo. Tuy ngày 1/1/1995 Chỉ thị 406 mới có hiệu lực, nhưng chính quyền xã Bình Minh đã đi làm công tác tư tưởng và thu giữ dụng cụ làm pháo từ cả tháng trước. Những đồ vật ngày nào như cần câu cơm của dân làng Bình Đà bỗng chốc phải tiêu hủy, pháo bông, pháo bèo, pháo Nam Hải Hoàng Hoa nức tiếng ngày nào chuẩn bị đi vào dĩ vãng.Nhiều nhà lo chết đói, lo Tết không còn vui nữa, nhưng khi nhìn lên bàn tay họ, bàn chân họ, khuôn mặt họ vẫn còn loang lổ sự tàn phá của pháo thì rõ ràng là không cấm không được. Giao thừa đến. Không một tiếng pháo nổ. Im lìm. Người lớn vỗ tay đôm đốp, trẻ nhỏ thì kêu “bùm, bùm” giả tiếng pháo. Đèn được chính quyền treo đầy đường để thay tiếng pháo không còn nữa.Liên tiếp những ngày sau đó là các bài tuyên truyền trên loa phóng thanh về ý nghĩa của việc cấm pháo, động viên bà con năng động tìm kế mưu sinh mới.Công an huyện Thanh Oai đã thành lập các tổ công tác phối hợp với lực lượng công an xã, các ban, ngành, đoàn thể tới từng hộ dân, cơ quan, trường học đóng trên địa bàn tuyên truyền, tổ chức ký cam kết không sản xuất, buôn bán, vận chuyển pháo nổ. Về sau, vẫn còn một vài hộ lén lút làm pháo.Gần Tết, đâu đó vẫn còn tiếng pháo nổ.Sau lệnh cấm, xót xa thay tai nạn về pháo vẫn cướp đi sự lành lặn của một số người. Năm tháng qua đi, nhờ truyền thông tích cực và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ đã khiến nghề làm pháo chỉ còn là “kỷ niệm xưa” tại Bình Đà. Những năm đầu khi cấm sản xuất pháo, việc chuyển từ nghề truyền thống sản xuất pháo nổ sang nghề mới với người dân Bình Đà là vô cùng khó khăn. Thế nhưng, qua hơn 26 năm kể từ ngày ban hành Chỉ thị 406/CT-TTg, người dân Bình Đà đang từng ngày có bước phát triển mới. Bình Đà đã đoạn tuyệt hẳn với nghề pháo để xây dựng cuộc sống ấm no, bình yên hơnvà vùng quê có truyền thống lâu đời này đã “thay máu”. Với lợi thế làng ven quốc lộ 21B, dân làng phát triển buôn bán. Đi dọc đường làng bây giờ, dễ dàng chứng kiến không khí tấp nập của kẻ bán, người mua. Nghề dịch vụ phát triển chóng mặt bởi những ngành nghề mới như thêu ren… Lớp trẻ thì thi đua học hành tại nhiều trường đại học lớn đã khiến Bình Đà thay da đổi thịt, đời sống nhân dân khấm khá lên rất nhiều. Ký ức về pháo đã được gói gọn trong những tập sách sử của làng trước năm 1995. Mỗi khi có các ngày lễ lớn, Tết Nguyên đán của dân tộc, người dân của làng Bình Đà vẫn cùng nhau tâm sự và bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm không bao giờ quên về việc đốt pháo để chào mừng. Những người con Bình Đà khi đi công tác, làm ăn sinh sống ở khắp mọi miền của Tổ quốc vẫn rất tự hào khi giới thiệu với bạn bè về quê hương pháo Bình Đà của mình. Bên cạnh đó, các cụ già, người lớn tuổi khi nhớ lại cái thời huy hoàng tung hoành đi biểu diễn thương hiệu “Pháo Bình Đà” khắp mọi miền của Tổ quốc, thì có đôi chút tiếc nuối nhớ lại quá khứ của làng nghề như sự mất mất to lớn của đôi trai gái yêu nhau “Anh nhớ em như Bình Đà nhớ pháo - Anh mất em như Pháp mất Đông Dương”.
Đình nội Bình Đà là một địa điểm du lịch tại Huyện Thanh Oai (Thành phố Hà Nội thuộc vùng Đồng Bằng Sông Hồng). Cách trung tâm Thành phố Hà Nội khoảng 19 km. Du lịch Đình nội Bình ĐàTừ trung tâm thủ đô Hà Nội du khách đi về quận Hà Đông theo đường Quang Trung đến Ba La rẽ trái xuôi theo quốc lộ QL21B khoảng 7km sẽ đến Bình Đà, thuộc xã Bình Minh, huyện Thanh Oai (tỉnh Hà Tây cũ). Làng khá giàu, trước kia chủ yếu được biết tên nhờ có nghề buôn bán và sản xuất pháo, thứ hàng hóa về sau bị cấm. Đình Nội thờ Đức quốc tổ nên có tên chữ “Lạc Long Quân từ”, dân sở tại quen gọi là đình Trong. Tương truyền, ngôi đình được xây dựng từ thủa dân lập làng ven sông Đỗ Động. Cuối TK10, sứ quân Đỗ Cảnh Thạc đến đóng đồn ở Bảo Đà, xây chùa Linh Thạc và trồng một cây Trôi. Năm 1032, Vua Lý Thái Tông tổ chức lễ hội Tịch Điền đầu tiên tại cánh đồng làng Bình Đà. Trong đình hiện giữ được một số di vật quý giá như hạc thờ, sắc phong, chiêng đồng, bia đá thời Lê, thời Nguyễn. Đặc biệt có bức giá tượng cổ, chạm nổi hình Lạc Long Quân ngồi trên ngai, bao bọc bởi nhiều nam nữ túc trực và cưỡi voi ngựa, xem chèo thuyền. Theo bản thần tích soạn năm 1938 thì trên bức giá tượng còn có khắc dòng chữ Hán “Ngũ thập tử quy sơn, ngũ thập tử quy hải” (50 con về núi, 50 con về biển). Phù điêu có niên đại từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, được làm bằng gỗ phiến dài 2,8m, rộng 2,2m, dày 0,1m và đã qua mấy lần sơn son thếp vàng nên che mờ dòng chữ đó. Đường đi Đình nội Bình ĐàXem bản đồ địa điểm Đình nội Bình Đà trên Google Maps Đặt tour du lịch tại Đình nội Bình Đà - Thành phố Hà NộiĐặt tour, book phòng, đặt nhà hàng, thuê ô tô, xe máy Du Lịch Đình nội Bình Đà và đi các địa điểm du lịch tại Thành phố Hà Nội và các tỉnh/thành lân cận với xe 4 chỗ, 7 chỗ, 16 chỗ, 29 chỗ, 45 chỗ, các loại xe Limousine đời mới có máy lạnh tốt, chi phí hợp lý, có đưa đón sân bay.Xe đưa đón sân bay tại Thành phố Hà NộiXe đưa đón từ Sân bay Nội Bài đi Ba Đình, Hoàn Kiếm, Tây Hồ, Long Biên, Cầu Giấy, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hoàng Mai, Thanh Xuân, Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Nam Từ Liêm, Thanh Trì, Bắc Từ Liêm, Mê Linh, Hà Đông, Thị xã Sơn Tây, Ba Vì, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức, Quốc Oai, Thạch Thất, Chương Mỹ, Thanh Oai, Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hòa, Mỹ Đức,Ngoài ra, chúng tôi còn có dịch vụ xe đưa đón từ Sân bay Nội Bài đi đến các địa phương lân cận như Phúc Yên, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Sông Công, Phủ Lý, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình, Hòa Bình, Việt Trì, Trên đây là một số kiến thức và kinh nghiệm du lịch Đình nội Bình Đà tại Huyện Thanh Oai - Thành phố Hà Nội. Vì mỗi người mỗi một cách nhìn nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ quý đọc giả để chúng ta cùng chia sẻ được nhiều kiến thức, kinh nghiệm hơn. Trân trọng cảm ơn!
Chi tiết địa điểm này Nón lá làng Chuông nổi tiếng cả nước bởi độ bền, chắc và đẹp. Ngôi làng sản sinh ra sản phẩm thủ công giàu truyền thống này nằm tại huyện Thanh Oanh, Hà Nội. Từ ngã ba Ba La (Hà Đông, Hà Nội), du khách chạy xe khoảng 15 km là tới. Làng Chuông xưa kia nức tiếng về nghề nón lá truyền thống của người Việt Nam. Bởi vậy nếu có dịp, bạn nên ghé thăm vào dịp phiên họp chợ Nón. Thời gian diễn ra vào các buổi sáng ngày ngày 4,10, 14, 20, 24, 30 âm lịch hàng năm để cảm nhận một phiên chợ buôn bán tấp nập, lưu giữ những nét văn hoá cổ trong đời sống sinh hoạt làng xã của người dân. Điểm nổi bật khi bạn dừng chân đến đây là rất nhiều ngôi nhà cổ kính ngả màu theo thời gian. Không khí an yên từng ngóc ngách, từng con ngõ, ngôi nhà cho đến những khoảng sân phơi hương tạo cho bạn cảm giác bình yên, nhẹ nhàng. Dạo quanh làng Chuông, nhà nhà đều làm nghề truyền thông nón lá từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự khéo léo, tỉ mỉ của đôi bàn tay từ trẻ con cho đến người già tạo ra những chiếc nón là xinh xắn, bền đẹp quyến rũ mọi du khách ghé thăm. Du lịch Làng cổ Cự Đà tại Huyện Thanh Oai - Thành phố Hà NộiChi tiết địa điểm này Cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây, làng cổ Cự Đà thuộc xã Cự Khê, xã cực Bắc của huyện Thanh Oai, Hà Nội, là một trong những làng cổ truyền thống từ xa xưa. Nằm bên bờ sông Nhuệ yên bình, làng Cự Đà còn lưu giữ vẹn nguyên dấu ấn của làng quê Việt Nam với mái đình, cây đa, bến nước, đặc biệt là lối kiến trúc kiểu Pháp còn sắc nét. Không chỉ nổi tiếng với không gian văn hóa độc đáo, làng cổ Cự Đà còn được du khách biết đến bởi nghề truyền thống làm miến và làm tương. Trải qua bao thăng trầm của thời gian, bao biến cố của lịch sử, làng cổ Cự Đà dường như vẫn giữ được nét vẹn nguyên thuở ban đầu. Với hàng chục ngôi nhà được thiết kế theo nét kiến trúc đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ xen kẽ trong đó là những ngôi nhà được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp, Cự Đà khiến du khách ấn tượng ngay từ cái nhìn đầu tiên. Bất cứ ai khi đặt chân đến Cự Đà lòng không khỏi lâng lâng, làng quê Việt Nam hàng trăm năm trước như hiện diện lại trước mắt du khách với nếp sống giản dị, cuộc sống yên bình gắn với con sông, cây đa, bến nước. Vẻ đẹp trầm mặc của ngôi làng cùng khung cảnh sinh hoạt thường nhật của người dân nơi đây khiến lòng an nhiên đến lạ. Cái bình dị, ấm áp, gần gũi của Cự Đà như một phần thân thuộc đã gắn bó từ lâu trong tiềm thức mỗi chúng ta. Du lịch Chùa Bối Khê tại Huyện Thanh Oai - Thành phố Hà NộiChi tiết địa điểm này Được xây dựng từ thời Trần (khoảng năm 1338), chùa Bối Khê là ngôi chùa cổ có kiến trúc độc đáo nhất còn sót lại ở miền đất Tam Hưng, huyện Thanh Oai, Hà Nội. Không những vậy, đây còn là ngôi chùa có hệ thống địa đạo từ thời kháng chiến chống Pháp còn tồn tại đến nay. Đặt chân lên đất chùa, choáng ngợp ngay trước mắt là một cổng ngũ môn bề thế và cây đa tọa lạc trên bãi đất rộng và bằng phẳng. Phía sau cổng ngũ môn là cây cầu nhỏ vắt qua con ngòi, dấu tích của dòng sông cổ Đỗ Động. Qua cầu đến tam quan là một ngôi nhà ba gian. Phía trên tam quan là gác chuông hai tầng tám mái. Khác với kiến trúc của các chùa ở đồng bằng Bắc bộ, chùa Bối Khê được bố cục theo kiểu “tiền Phật, hậu thánh”. Nơi thờ Phật được bố trí ở tòa tiền đường và tiền bái. Tiếp theo là tòa thiêu hương và thượng điện thờ đức thánh Bối. Hai bên có hai dãy hành lang dài, bày 18 pho tượng La Hán, bao quanh nhà thiêu hương và thượng điện tạo thành thế kiến trúc “nội công, ngoại quốc”. Chùa Bối Khê hiện còn lưu giữ được 58 pho tượng đẹp không kém tượng chùa Mía, chùa Dâu, chùa Thầy như tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế, thập điện Diêm Vương, và nhất là tượng Phật Quan Âm 12 tay cao chừng 2m ngồi trên tòa sen được đặt trên một bệ đá chạm khắc hình rồng, hình chim thần, hoa lá có niên đại 1382, triều vua Trần Phế Đế. Du lịch Đình nội Bình Đà tại Huyện Thanh Oai - Thành phố Hà NộiChi tiết địa điểm này Từ trung tâm thủ đô Hà Nội du khách đi về quận Hà Đông theo đường Quang Trung đến Ba La rẽ trái xuôi theo quốc lộ QL21B khoảng 7km sẽ đến Bình Đà, thuộc xã Bình Minh, huyện Thanh Oai (tỉnh Hà Tây cũ). Làng khá giàu, trước kia chủ yếu được biết tên nhờ có nghề buôn bán và sản xuất pháo, thứ hàng hóa về sau bị cấm. Đình Nội thờ Đức quốc tổ nên có tên chữ “Lạc Long Quân từ”, dân sở tại quen gọi là đình Trong. Tương truyền, ngôi đình được xây dựng từ thủa dân lập làng ven sông Đỗ Động. Cuối TK10, sứ quân Đỗ Cảnh Thạc đến đóng đồn ở Bảo Đà, xây chùa Linh Thạc và trồng một cây Trôi. Năm 1032, Vua Lý Thái Tông tổ chức lễ hội Tịch Điền đầu tiên tại cánh đồng làng Bình Đà. Trong đình hiện giữ được một số di vật quý giá như hạc thờ, sắc phong, chiêng đồng, bia đá thời Lê, thời Nguyễn. Đặc biệt có bức giá tượng cổ, chạm nổi hình Lạc Long Quân ngồi trên ngai, bao bọc bởi nhiều nam nữ túc trực và cưỡi voi ngựa, xem chèo thuyền. Theo bản thần tích soạn năm 1938 thì trên bức giá tượng còn có khắc dòng chữ Hán “Ngũ thập tử quy sơn, ngũ thập tử quy hải” (50 con về núi, 50 con về biển). Phù điêu có niên đại từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, được làm bằng gỗ phiến dài 2,8m, rộng 2,2m, dày 0,1m và đã qua mấy lần sơn son thếp vàng nên che mờ dòng chữ đó. |