Bảng so sánh hiến pháp 1992 và 2023 năm 2024

Một số nội dung cơ bản và điểm mới của Hiến Pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Với một tinh thần làm việc hết sức nghiêm túc, đầy trọng trách, đúng 9 giờ 50 phút ngày 28-11-2013, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi). Đây là một sự kiến chính trị - pháp lý hết sức quan trọng có tính lịch sử, thể hiện một cách sâu sắc “Ý Đảng, lòng dân”, bản chất dân chủ và tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta.

Ngày 09-12-2013, tại Hà Nội, văn phòng Chủ tịch nước đã họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch nước và Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp có hiệu lực thi hành từ ngày 01- 01-2014.

Hiến pháp mới có 11 chương, 120 điều, có nhiều điểm mới về nội dung và kỹ thuật lập hiến so với Hiến pháp năm 1992 (giảm 1 chương và 27 điều, giữ nguyên 7 điều và sửa đổi, bổ sung 101 điều; Lời nói đầu Hiến pháp 1992 gồm 6 khổ với 536 từ, Hiến pháp mới đã rút gọn, súc tích chỉ còn 3 khổ với 290 từ). Việc xây dựng và thông qua Hiến pháp mới đã thể hiện rõ và đầy đủ bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước ta trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một số nội dung cơ bản và điểm mới của Hiến pháp cụ thể như sau:

1. Hiến pháp đã thể hiện sâu sắc bản chất dân chủ của Nhà nước ta, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân.

Tính chất dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân đã được ghi nhận ngay từ lời nói đầu của Hiến pháp: “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Xuyên suốt trong các quy định của Hiến pháp đã thể hiện rõ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta lấy con người làm trung tâm, đề cao quyền làm chủ của nhân dân.

Trên cơ sở kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới đã thể hiện rõ nét bản chất dân chủ của Nhà nước ta, Điều 2 khẳng định:

“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì nhân dân.

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.

Đồng thời , Hiến pháp cũng quy định rõ ràng nguyên tắc tổ chức quyền lực của Nhà nước ta là “Quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, chế định “kiểm soát quyền lực” là một nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền, là một vấn đề mới trong tổ chức quyền lực của Nhà nước ta.

Bản chất dân chủ còn được thể hiện: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân”… (Điều 3). Hiến pháp, còn quy định cụ thể các phương thức để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, đó là “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6).

2. Hiến pháp tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước xã hội.

Điều 4 - Hiến pháp khẳng định “ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.

3. Các tổ chức Đảng và Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật”

Như vây, vị trí, vai trò lãnh đạo tối cao của Đảng Cộng sản Việt Nam là một nguyên tắc Hiến định.

3. Hiến pháp tiếp tcj khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn và các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức khác trong sự nghiệp xây ngjk và bảo vệ Tổ quốc.

Về cơ bản, Hiến pháp tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của Mặt trận, Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình. Nhà nước tạo mọi điều kiện để Mặt trận và các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

4. Hiến pháp bổ sung và khẳng định quyền con người, tôn trọng và bảo đảm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Quyền con người là một quyền thiêng liêng được bổ sung và ghi nhận trong Hiến pháp, đây là quan điểm, nhận thức toàn diện của Đảng, Nhà nước ta về nhân quyền, phù hợp với xu thế thời đại và thông lệ quốc tế.

Chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 1992 nằm ở chương V, được chuyển lên vị trí chương II của Hiến pháp mới để khẳng định rõ hơn vị trí, giá trị xã hội, lấy con người làm trung tâm: quyền con người, quyền công dân.

Hiến pháp làm rõ hơn về nội dung, quyền con người, quyền công dân, trách nhiệm của Nhà nước và Xã hội trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Các chế định về quyền con người, quyền công dân được quy định cụ thể, phân định rõ ràng, minh bạch, khoa học trong nhận thức cũng như khi áp dụng, như tại Điều 22 quy định về “nơi ở hợp pháp” và “chỗ ở do luật định” hoặc nguyên tắc suy đoán vô tội theo Điều 72 Hiến pháp 1992 quy định “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Tại Điều 31 Hiến pháp mới quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”

5. Hiến pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.

- Về thành phần kinh tế: Được quy định tại Điều 51 xác định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Các thành phần kinh tế quốc dân đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, lành mạnh, minh bạch; Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích để các doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh, phát triển góp phần xây dựng đất nước.

- Về đất đai (Điều 53 và Điều 54): Hiến pháp khẳng định: “Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật”

Điểm mới và chặt chẽ hơn trong việc thu hồi đất được quy định tại khoản 3 Điều 54: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; Việc thu hồi đất phải được công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”.

- Về xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường.Về cơ bản các nội dung quy dịnh trên từng lĩnh vực cụ thể có tính kế thừa, phát triển Hiến pháp 1992 nhưng có tính khái quát, định hướng, tạo tiền đề và cơ sở vững chắc để xây dựng các luật chuyên ngành.

6. Hiến pháp tiếp tục khẳng định “bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Xây dựng và phát triển đất nước phải gắn với việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đó là quyền cao quý và nghĩa vụ thiêng liêng của công dân. Vì vậy, Hiến pháp xác định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân” (Điều 64).

7. Hiến pháp tiếp tục khẳng định xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Trên cơ sở kế thừa và phát triển mô hình tổ chức bộ máy nhà nước của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới đã phân định rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, điều chỉnh và nâng cao vị trí, trách nhiệm và nhiệm vụ của từng cơ quan cho phù hợp với yêu cầu quản lý.

- Về Quốc hội (chương V): Về cơ bản vị trí, chức năng cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội cơ bản được giữ như quy định Hiến pháp 1992, có sửa đổi, bổ sung một số chế định làm rõ hơn mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7 Điều 70).

Bổ sung thêm thẩm quyền cho Ủy ban Thường vụ quốc hội trong việc điều chỉnh địa giới hành chính ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 74).

- Chủ tịch nước (Chương VI): Hiến pháp tiếp tục khẳng định: “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại” (Điều 86). Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh (khoản 5 Điều 88). Hiến pháp xác định rõ hơn thẩm quyền của Chủ tịch nước trong từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp, mối quan hệ của Chủ tịch nước với Quốc hội, Chính phủ, cơ quan Tư pháp. Ngoài ra, còn bổ sung Chủ tịch nước quyết định việc lực lượng vũ trang nước ta tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới (khoản 2 Điều 89).

- Về Chính phủ (Chương VII): Hiến pháp tiếp tục kế thừa và phát triển những quy định của Hiến pháp 1992 về vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, cụ thể, chặt chẽ hơn. Khẳng định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hảnh của Quốc hội (Điều 94).

- Về Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân (Chương VIII). Trên cơ sở kế thừa các quy định của Hiến pháp 1992, Hiến pháp có bổ sung quy định Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Sửa đổi hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cho phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp.

- Về chính quyền địa phương (Chương IX): Hiến pháp mới tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp 1992 về đơn vị hành chính bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, ổn định trong cấu trúc hành chính ở nước ta; đồng thời có bổ sung quy định về đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương.

Về tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp quy định có tính khái quát chung theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định”(Điều 111).

Về Hội đồng bầu cử quốc gia và kiểm toán Nhà nước (Chương X): Hội đồng bầu cử quốc gia là một tổ chức mới được đưa vào Hiến pháp mới. Điều 117 ghi rõ: “Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp”. Kiểm toán Nhà nước đã được Hiến pháp mới quy định thành một thiết chế hiến định độc lập phù hợp với thực tiễn nền kinh tế và thông lệ quốc tế. Điều 118 quy định : “Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công”.

8. Về Kỹ thuật lập hiến:

Hiến pháp là đạo luật gốc, có tính ổn định lâu dài, là sư kết tinh của quá trình xây dựng, soạn thảo, đóng góp ý kiến của toàn dân, do vậy những chế định của Hiến pháp có tính nguyên tắc thể hiện khái quát, cô đọng, súc tích. Do ậy, về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước được quy định rõ trong Hiến pháp còn quy trình, thủ tục, phương thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chức năng để các luật chuyên ngành điều chỉnh cụ thể.

Phải khẳng định kỹ thuật lập hiến lần này có tầm khái quát cao, mang tính kế thừa, phát triển, đây là tư tưởng lập hiến phù hợp với chủ nghĩa lập hiến hiện đại.

9. Về hiệu lực của Hiến pháp và cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Hiến pháp khẳng định giá trị pháp lý cao nhất của đạo luật cơ bản của Nàh nước ta. Điều 119 khẳng định “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp”.