Bản chất của chức năng kế toán là gì

Kế toán tài chính và kế toán quản trị được xem là bộ phận hữu cơ của kế toán doanh nghiệp. Tuy nhiên có không ít trường hợp người làm tài chính – kế toán còn nhầm lẫn về bản chất, chức năng và mối quan hệ giữa hai loại hình này.

Bản chất công việc kế toán quản trị

Kế toán quản trị đưa ra tất cả các thông tin kinh tế đã được đo lường xử lý và cung cấp cho ban giám đốc doanh nghiệp để điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói cách khác loại hình này giúp nhà lãnh đạo cân nhắc, quyết định lựa chọn một trong những phương án có hiệu quả kinh tế cao nhất: phải sản xuất những sản phẩm nào, sản xuất bằng cách nào, bán các sản phẩm đó bằng cách nào, theo giá nào, làm thế nào để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và phát triển khả năng sản xuất.

Bản chất của chức năng kế toán là gì
Các quyết định này gồm hai loại:

Thứ nhất, quyết định mang tính chất ngắn hạn. Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bài toán kinh tế trong thời kỳ ngắn hạn.

Thứ hai, quyết định mang tính dài hạn. Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bài toán kinh tế hoạch định chiến lược đầu tư dài hạn như: Trong trường hợp nào doanh nghiệp quyết định thay thế thiết bị, thâm nhập thị trường mới hay phát triển thêm lĩnh vực kinh doanh.

Bản chất công việc kế toán tài chính

Kế toán tài chính phản ánh hiện trạng và sự biến động về vốn, tài sản của doanh nghiệp dưới dạng tổng quát. Nói cách khác là phản ánh các dòng vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh tế bên ngoài.

Sản phẩm của kế toán tài chính là các báo cáo tài chính. Thông tin của kế toán tài chính ngoài việc được sử dụng cho ban lãnh đạo doanh nghiệp còn được sử dụng để cung cấp cho các đối tượng bên ngoài như: Các nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê.

Bản chất của chức năng kế toán là gì

Kế toán tài chính phải tôn trọng các nguyên tắc được thừa nhận và được sử dụng phổ biến, nói cách khác phải đảm bảo tính thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán nhất định để mọi người có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo tài chính. Không những vậy, loại hình này phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là những yêu cầu quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội thông qua việc công bố những số liệu mang tính bắt buộc.

Mối quan hệ giữa hai loại hình

Cả hai loại hình này đều có mối quan hệ chặt chẽ với thông tin kế toán, đều nhằm vào việc phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đều quan tâm đến doanh thu, chi phí và sự vận động của tài sản, tiền vốn.

Khi thực hiện nghiệp vụ kế toán tài chính phải dựa trên hệ thống ghi chép ban đầu. Đây là cơ sở để soạn thảo các báo cáo tài chính định kỳ, cung cấp cho các đối tượng ở bên ngoài. Đối với kế toán quản trị, hệ thống đó cũng là cơ sở để vận dụng, xử lý nhằm tạo ra các thông tin thích hợp cho việc ra quyết định của các nhà điều hành doanh nghiệp.

Có nhiều cách tiếp cận về kế toán, vì vậy có rất nhiều định nghĩa khác nhau về kế toán. Tuy nhiên, những định nghĩa này đều thống nhất với nhau ở chỗ: kế toán là một hệ thống của những khái niệm và phương pháp, hướng dẫn chúng ta thu thập, đo lường, xử lý và truyền đạt những thông tin cần thiết cho việc ra những quyết định tài chính hợp lý. Sau đây là một số định nghĩa đã được đưa ra:

CÁC ĐỊNH NGHĨA KẾ TOÁN CỦA VIỆT NAM

ĐỊNH NGHĨA 1: Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bản chất của kế toán được nhận định “Kế toán xã hội chủ nghĩa là công việc tính toán, ghi chép, phản ánh bằng con số một cách liên tục, toàn diện và hệ thống các loại vật tư, tiền vốn và mọi hoạt động kinh tế, qua đó mà giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước; tình hình bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa.”

ĐỊNH NGHĨA 2: Điều lệ tổ chức kế toán nhà nước đã ghi rõ: “Kế toán là công việc ghi chép, tính toán bằng con số dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động, chủ yếu dưới hình thức giá trị để phản ánh, kiểm tra tình hình vận động của các loại tài sản, quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn và kinh phí của nhà nước cũng như của từng tổ chức xí nghiệp.”

ĐỊNH NGHĨA 3: Theo TS. Trần Anh Hoa, trong luận án tiến sĩ của mình đã đưa ra định nghĩa như sau: “Kế toán là một khoa học liên quan đến việc thu thập, đo lường, xử lý và truyền đạt các thông tin tài chính và phi tài chính hữu ích của một tổ chức đến các đối tượng sử dụng để trên cơ sở đó đề ra các quyết định hợp lý.”

ĐỊNH NGHĨA 4: Theo website http://www.vcci.com.vn thì “Kế toán là nghệ thuật thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về toàn bộ tài sản và sự vận động của tài sản (hay là toàn bộ thông tin về tài sản và các hoạt động kinh tế tài chính) trong doanh nghiệp nhằm cung cấp những thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định về kinh tế – xã hội và đánh giá hiệu quả của các hoạt động trong doanh nghiệp.”

ĐỊNH NGHĨA 5: Theo Website http://www.kiemtoan.com.vn thì “Kế toán được định nghĩa là một hệ thống thông tin đo lường, xử lý và cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.”

ĐỊNH NGHĨA 6: Theo Luật kế toán Việt Nam 2003 “Kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động.”

CÁC ĐỊNH NGHĨA KẾ TOÁN CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

ĐỊNH NGHĨA 7: Khái niệm hướng đến phương pháp, đây là loại khái niệm mà Luca Pacioli (1447-1517) – nhà toán học vĩ đại người Ý có nhiều đóng góp cho ngành kế toán thế giới, đã đưa ra cuốn “Chú giải về tài khoản và các bút toán” mà theo đó, “có 3 điều kiện cần thiết cho bất cứ ai muốn kinh doanh: thứ nhất, là phải có tiền; thứ hai, người chủ doanh nghiệp phải có khả năng tính toán nhanh và đồng thời biết lập sổ sách kế toán; và điều kiện sau cùng là phải có khả năng tổ chức công việc một cách khoa học, linh động nhằm đảm bảo tiến độ hoạt động kinh doanh.”

ĐỊNH NGHĨA 8: Khái niệm hướng đến nội dung, cốt lõi vấn đề, đại diện tiêu biểu của trường phái này là nhà kinh tế học nổi tiếng của Pháp J.Furaste, ông cho rằng “hệ thống kế toán là một lĩnh vực khoa học hiện đại với mục đích tính toán giá trị tài sản của doanh nghiệp, đồng thới xác định giá trị của vốn đầu tư”. Khái niệm này chỉ ra hình thức tồn tại của quy trình kế toán mà chưa nêu ra được lý do của việc tính toán giá trị tài sản cũng như việc xác định vốn đầu tư của doanh nghiệp.

ĐỊNH NGHĨA 9: Khái niệm nghiêng về mục đích, kết quả, cuối thế kỷ 19, nhiều kế toán viên nhận ra một thực tế rằng, người ta cần hệ thống sổ sách giấy tờ kế toán không phải chỉ để đánh giá giá trị tài sản doanh nghiệp hay giá trị vốn đầu tư mà nhằm mục đích quản lý. Chính vì vậy mà E. Pizani – một kế toán viên người Ý đã đưa ra một định nghĩa về kế toán như sau: “Kế toán là khoa học sử dụng các phép tính toán, dựa trên các quy định của pháp luật và kinh tế nhằm mục đích quản lý đồng thời để đạt được những hiệu quả kinh tế khả quan nhất”

ĐỊNH NGHĨA 10: Theo Sokolov, một chuyên gia hàng đầu về kế toán tại Nga thì “kế toán là ngôn ngữ của các ký hiệu cũng như quy ước sử dụng và được tạo ra với mục đích làm thay thế các đối tượng thực tế bằng các ký hiệu hay biểu tượng, cho phép phản ánh một cách trung thực hoạt động kinh doanh cùng các kết quả của hoạt động kinh doanh đó”

Sokolov cũng đưa ra hai khái niệm về kế toán. Xét về khía cạnh lý thuyết, “kế toán chính là khoa học về bản chất cũng như cấu trúc các sự kiện diễn ra trong cuộc sống, trong hoạt động kinh doanh của con người. Nhiệm vụ của kế toán là phản ánh nội dung của các quá trình hoạt động kinh doanh cũng như mối liên hệ giữa các phạm trù luật pháp và phạm trù kinh tế trong quá trình hoạt động kinh doanh đó.”

Còn nếu xét từ khía cạnh thực tế, “kế toán là một quá trình theo dõi, phân loại, tổng hợp, phân tích và chuyển tải thông tin về các sự kiện xảy ra trong hoạt động kinh doanh của con người. Nhiệm vụ của kế toán xét từ khía cạnh này là việc đưa ra các nguồn thông tin phục vụ cho mục đích quản lý.”

ĐỊNH NGHĨA 11: Một định nghĩa về kế toán được chấp nhận trong suốt thời gian qua là định nghĩa được trình bày trong “Báo cáo về lý thuyết kế toán căn bản” ban hành bởi Hiệp hội Kế toán Hoa Kỳ: “Kế toán là một tiến trình ghi nhận, đo lường, và cung cấp các thông tin kinh tế nhằm hỗ trợ cho các đánh giá và các quyết định của người sử dụng thông tin”

ĐỊNH NGHĨA 12: Uy ban nguyên tắc kế toán của Mỹ (APB), trong thông báo số 4, đã định nghĩa. “Kế toán là một dịch vụ. Chức năng của nó là cung cấp thông tin định lượng được của các tổ chức kinh tế, chủ yếu là thông tin tài chính giúp người sử dụng đề ra các quyết định kinh tế.”

ĐỊNH NGHĨA 13: Uy ban thuật ngữ của học viện kế toán viên công chứng của Mỹ (AICPA) đã định nghĩa: “Kế toán là một nghệ thuật dùng để ghi chép, phân loại và tổng hợp theo một phương pháp riêng có dưới hình thức tiền tệ về các nghiệp vụ, các sự kiện kinh tế và trình bày kết quả của nó cho người sử dụng ra quyết định.”

ĐỊNH NGHĨA 14: Giáo sư, Tiến sĩ Robert Anthony – một nhà nghiên cứu lý luận kinh tế nội tiếng của trường Đại học Harvard của Mỹ cho rằng “Kế toán là ngôn ngữ kinh doanh”

ĐỊNH NGHĨA 15: Giáo sư, tiến sĩ Grene Allen Gohlke của Viện Đại Học Wisconsin lại định nghĩa: “Kế toán là một khoa học liên quan đến việc ghi nhận, phân loại, tóm tắt và giải thích các nghiệp vụ tài chính của một tổ chức, giúp cho Ban giám đốc có thể căn cứ vào đó để ra các quyết định kinh tế”

ĐỊNH NGHĨA 16: Trong cuốn sách “Nguyên lý kế toán Mỹ”, Ronnald J. Thacker nêu quan điểm của mình về kế toán xuất phát từ việc cung cấp thông tin cho công tác quản lý. Theo Ronnald J. Thacker “Kế toán là một phương pháp cung cấp thông tin cần thiết cho quản lý có hiệu quả và để đánh giá hoạt động của mọi tổ chức”

ĐỊNH NGHĨA 17: Theo Uy ban thực hành kiểm toán quốc tế (International Auditing Practices Committee) thì “Một hệ thống kế toán là hàng loạt các nhiệm vụ ở một doanh nghiệp mà nhờ hệ thống này các nghiệp vụ được xử lý như một phương tiện duy trì các ghi chép tài chính”

ĐỊNH NGHĨA 18: Khi định nghĩa về kế toán, Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) cho rằng: “Kế toán là nghệ thuật ghi chép, phân loại tổng hợp theo một cách riêng có bằng những khoản tiền các nghiệp vụ và các sự kiện mà chúng có ít nhất một phần tính chất tài chính và trình bày kết quả của nó”

Tiến hành phân tích các định nghĩa kế toán, chúng ta thấy nổi lên các quan điểm sau:

\=> KẾ TOÁN LÀ NGHỆ THUẬT HAY KHOA HỌC

Có khái niệm cho rằng “Kế toán là nghệ thuật”, có khái niệm cho rằng “Kế toán là khoa học”, có khái niệm cho rằng kế toán là một hoạt động “dịch vụ” và ngụ ý kế toán bao hàm những kỹ thuật nhằm để sử dụng cho một số lĩnh vực nhất định, dịch vụ ở đây cũng hàm ý là “Kế toán là nghệ thuật”

Đã có nhiều cuộc tranh luận với những quan điểm khác nhau: “Kế toán là một nghệ thuật hay một khoa học?”

Những người cho rằng kế toán là một nghệ thuật, đề nghị các kỹ năng của kế toán cần thiết cung cấp để trở thành nhà kinh doanh giỏi, phải được giảng dạy và cách tiếp cận hợp pháp với kế toán phải được đảm bảo.

Những người ủng hộ kế toán là một khoa học đề nghị thay vì giảng dạy các mô hình đo lường của kế toán cho các sinh viên, chuyên ngành kế toán, thì cung cấp cho họ những cái nhìn thấu đáo hơn về quan điểm đối với kế toán qui ước, thừa nhận con số phát sinh đang cố gắng như thế nào để thoả mãn mục tiêu phục vụ các như cầu của người sử dụng; và gợi ý những suy nghĩ về lĩnh vực đó và những động lực thay đổi của kế toán.

Cho dù có những quan điểm khác nhau, nhưng phần đông các quan điểm cho rằng kế toán là một khoa học lý luận phù hợp hoàn hảo với quan điểm hiện nay được Mantz phát biểu: “Kế toán có quan hệ với các doanh nghiệp mà chắc chắn là những nhóm người trong xã hội, nó quan tâm đến các giao dịch và những sự kiện kinh tế khác mà có hậu quả về mặt xã hội và ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội và có ý nghĩa cho người làm việc trong các hoạt động có liên quan với xã hội, tóm lại kế toán là một khoa học xã hội.” \=> PHẠM VI CÔNG VIỆC KẾ TOÁN

Các định nghĩa trước đây về kế toán thường chú trọng đến các nhiệm vụ giữ sổ sách cố hữu của kế toán đó là ghi chép, phân loại và tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Tuy nhiên ngày nay, định nghĩa hiện đại về kế toán rộng hơn nhiều, kế toán là một hệ thống thông tin cung cấp thông tin định lượng. Vì vậy, người kế toán ngày nay không chỉ quan tâm đến việc giữ sổ sách mà đến toàn bộ các hoạt động bao gồm việc hoạch định chương trình và giải quyết vấn đề; hướng sự quan tâm của lãnh đạo đến những điều cần lưu tâm, đánh giá và duyệt xét các hoạt động của doan nghiệp và kiểm tra sổ sách. Người kế toán ngày nay chú trọng đến những nhu cầu bức thiết của những người sử dụng thông tin kế toán, dù những người sử dụng này ở trong hay ngoài đơn vị kinh doanh.

Kế toán được định nghĩa như là một hệ thống thông tin dùng để đo lường, xử lý và truyền đạt những thông tin về tài chính của một đơn vị kinh tế. Thông tin này giúp người sử dụng có thể đưa ra các quyết định hợp lý của mình.

Theo quan điểm này, kế toán được xem như là gạch nối giữa các hoạt động kinh doanh và những người làm quyết định. Thứ nhất, kế toán đo lường các hoạt động kinh doanh bằng cách ghi chép. Thứ hai, các thông tin được ghi chép sẽ được xử lý để trở thành các thông tin hữu ích. Thứ ba, thông tin này được truyền đạt qua các bảng báo cáo đến những người sử dụng để ra các quyết định.

Người ta nói rằng các dữ kiện về hoạt động kinh doanh là đầu vào của hệ thống kế toán và những thông tin hữu ích cho người ra quyết định là đầu ra đã được hệ thống kế toán xử lý và cung cấp.

Người ta thường nhầm lẫn giữa kế toán và ghi chép kế toán. Việc ghi chép kế toán là một quá trình hay nói đúng hơn là một công đoạn của kế toán, là phương tiện để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và giữ sổ sách. Việc ghi chép lặp đi lặp lại có tính cách máy móc là một phần nhỏ, đơn giản nhưng quan trọng của kế toán. Trái lại, kế toán thì lại khác, nó bao gồm việc thiết kế một hệ thống thông tin đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng thông tin về kế toán. Mục tiêu chính của kế toán là phân tích, giải trình và sử dụng thông tin.

\=> MỤC ĐÍCH CÔNG VIỆC KẾ TOÁN

Bản chất kế toán và lý luận của nó chịu sự chế định lịch sử, mà tính chế định lịch sử của kế toán là do hình thái kinh tế xã hội gây nên. Vì vậy, mục đích của kế toán có sự khác nhau ở các hình thái kinh tế xã hội khác nhau.

Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước làm chủ tất cả các nguồn lực sản xuất và cung cấp tất cả nhu cầu vốn, các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo phương thức “cấp phát vật tư và giao nộp sản phẩm” theo kế hoạch cấp trên giao. Mặt khác, các xí nghiệp lại bị giới hạn về quyền quyết định nên nhu cầu thông tin nội bộ hầu như không phải là vấn đề thiết yếu. Do vậy, mục đích của kế toán trong cơ chế kinh tế này là nhằm cung cầp thông tin cho Nhà nước để kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch. Chức năng của kế toán là phản ánh và giám đốc tài sản xã hội chủ nghĩa và các hoạt động kinh tế. Vì thế, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bản chất của kế toán được nhận định như trong định nghĩa 1 và đinh nghĩa 2.

Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp đều bình đẳng trong quá trình kinh doanh, mối quan hệ kinh tế tài chính của các doanh ghiệp được mở rộng. Mặt khác, với sự phát triển đa dạng của các nguồn tạo vốn từ bên ngoài đã làm cho đối tượng sử dụng thông tin kế toán trở nên đa dạng hơn. Mục đích của kế toán không chỉ cung cấp thông tin chủ yếu cho bản thân doanh nghiệp, cho Nhà nước, mà còn cung cấp thông tin cho các đối tượng như ngân hàng, các nhà đầu tư tương lai, nhà cung cấp, khách hàng,… Vì vậy, định nghĩa kế toán nhấn mạnh đến chức năng cung cấp thông tin – và chức năng này được coi là chức năng cơ bản nhất của kế toán. Các định nghĩa sau này kể cả Việt nam, cũng như các nước trên thế giới đều nhấn mạnh đến chức năng cung cấp thông tin của kế toán.

Như vậy, để định nghĩa về kế toán cần phải dựa vào bản chất của kế toán – mà bản chất này lại tùy thuộc vào hình thái kinh tế xã hội – nơi hoạt động kế toán diễn ra.

THƯỚC ĐO GIÁ TRỊ

Vai trò của kế toán bắt đầu hình thành khi con người chú ý đến hoạt động thương mại. Trong các hình thái xã hội, mọi người thực hành các qui định kinh tế mà khởi đầu bằng trao đổi tài sản theo giá thỏa thuận. Để thỏa thuận giá, cần có một đơn vị đo lường hoặc một vật trao đổi trung gian có tính phổ biến đối với mọi thành viên trong xã hội. Cùng với quá trình phát triển của xã hội, vật trao đổi trung gian cuối cùng được chấp nhận là đơn vị đo lường bằng tiền tệ. Tiền được dùng để định giá trị của tài sản và là phương tiện thanh toán thuận tiện nhất. Vì được ứng dụng rộng rãi nên việc sử dụng đơn vị tiền tệ để làm cơ sở chung là yếu tố cơ bản trong quá trình phân tích kinh tế, chính trị và xã hội. Do đó, tất cả các ngành khoa học xã hội đều đòi hỏi thông tin định lượng. Đây là lĩnh vực mà kế toán nghiên cứu. Kế toán đáp ứng nhu cầu đồi với thông tin định lượng và nhất là thông tin về tài chính.

Sau khi phân tích và tiếp cận các quan điểm khác nhau về khái niệm kế toán, chúng ta xác định được vai trò và bản chất của kế toán:

VAI TRÒ CỦA KẾ TOÁN Vai trò của kế toán là tạo ra thông tin về sự kiện kinh tế phát sinh từ các hoạt động của doanh nghiệp trong môi trường của nó. Kết quả của kế toán được trình bày tốt nhất bởi mô hình thông tin, và được trình bày trên các báo cáo tài chính, với những ghi chú giải trình của quá trình lập báo cáo tài chính và những thông tin khác của doanh nghiệp đã được kiểm toán, theo nghĩa kiểm toán viên đã phán xét độc lập để chứng nhận sự việc những báo cáo này trình bày trung thực với tình hình và kết quả của doanh nghiệp và phù hợp với nguyên tắc kế toán thừa nhận chung.

Các thông tin của kế toán được tao ra nhằm giúp cho những người có nhu cầu sử dụng thông tin khác nhau.

a> Các nhà quản trị doanh nghiệp Bao gồm các cấp độ quản trị khác nhau trong doanh nghiệp là những người trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh. Họ sử dụng thông tin về kế toán để xác định mục tiêu kinh doanh, đề ra các quyết định để thực hiện, đánh giá thực hiện mục tiêu và điều chỉnh, nếu thấy cần thiết, để hoạt động kinh doanh của họ đạt hiệu quả cao hơn.

Vai trò của kế toán trong việc cung cấp thông tin cho các nhà quản trị là nhằm liên kết các quá trình quản lý với nhau và liên kết doanh nghiệp với môi trường bên ngoài.

b> Chủ sỡ hữu Là những người có quyền sở hữu với vốn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (như cổ đông, người góp vốn liên doanh, Nhà nước trong các doanh nhgiệp quốc doanh và công ty cổ phần…), họ quan tâm đến lợi tức sinh ra từ vốn kinh doanh, vì đây là căn cứ để họ đưa ra các quyết định cần thiết, bao gồm cả quyết định phân chia lợi túc cho họ. Đồng thời, qua việc xem xét thông tin trên báo cáo kế toán họ có thể đánh giá năng lực trách nhiệm của các bộ phận quản lý ở doanh nghiệp là tốt hay xấu.

c> Các nhà cho vay và cung cấp hàng hóa dịch vụ Các ngân hàng, các tổ chức tài chính cũng như các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ, trước khi cho vay hoặc cung cấp đều có nhu cầu thông tin về khả năng thanh toán của doanh nghiệp như thế nào. Nghĩa là, doanh nghiệp đã có đủ khả năng chi trả hay không? Để có được thông tin này họ phải sử dụng thông tin của kê toán

d> Các nhà đầu tư Các nhà đầu tư là người cung cấp vốn cho tổ chức hoạt động kinh doanh với hy vọng thu được lợi tức trên vốn đầu tư. Ho luôn luôn muốn đầu tư vào nơi nào có tỷ lệ hoàn vốn cao nhất và thời gian ngắn nhất. Do vậy, trước khi đầu tư, họ cần thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp để qua đó nghiên cứu, phân tích, đánh giá rồi đi đến quyết định

e> Các cơ quan thuế Các cơ quan thuế địa phương va trung ương dựa vào tài liệu của kế toán để tính thuế, đặc biệt là thuế thu nhập. Các cơ quan thuế thường lấy số liệu lợi tức được thể hiện trên báo cáo kế toán trừ đi các khoản miễn giảm thuế theo luật định để xác định lợi tức chịu thuế.

f> Các cơ quan Nhà nước Các cơ quan Nhà nước cần số liệu kế toán của doanh nghiệp, để tổng hợp cho ngành, địa phương và trên cơ sở đó phân tích đánh giá nhằm định ra các chính sách kinh tế thích hợp để thúc đẩy sản xuất kinh doanh và điều hành kinh tế vĩ mô.

BẢN CHẤT CỦA KẾ TOÁN

a> Kế toán là một ngôn ngữ Kế toán được nhận thức là một ngôn ngữ kinh doanh. Đó là một phương tiện truyền đạt thông tin về một doanh nghiệp.

Nhận thức kế toán là một ngôn ngữ kinh doanh, vì kế toán có rất nhiều thứ phù hợp với ngôn ngữ. Các hoạt động kinh doanh khác nhau của một doanh nghiệp được báo cáo trên các baó cáo kế toán bằng ngôn ngữ kế toán, cũng giống như tin tức được đọc báo cáo trên các tờ báo chí và các phương tiện truyền tin khác

Tính có thể so sánh được của báo cáo cần thiết, cho việc thực thi hữu hiệu loại ngôn ngữ đó dù nó bằng thứ tiếng việt hay kế toán. Đồng thời, ngôn ngữ phải linh hoạt để thích ứng với môi trường đang biến động.

Nhận thức kế toán là một ngôn ngữ đã được hội nghế nghiệp về kế toán của nhiều nước thừa nhận. Bởi vì giữa ngôn ngữ và kế toán có nhiều điểm tương đồng tiềm ẩn. Ngôn ngữ của kế toán được chuyển thể từ ngôn ngữ chung, thành những ký hiệu của kế toán, sắp xếp theo một hệ thống có căn cứ và mô phỏng theo một nguyên tắc nhất định. Sự sắp xếp này của các ký hiệu được gọi là ngôn ngữ, và các nguyên tắc tác động đến kiểu mẫu và công dụng các ký hiệu đó hình thành văn phạm của ngôn ngữ đó.

Cấu trúc văn phạm của ngôn ngữ kế toán gồm 2 yếu tố:

– Các ký hiệu hay đặc điểm từ vựng của một ngôn ngữ là các đơn vị “có ý nghĩa” hay các từ có thể nhận diện ở mọi ngôn ngữ, được dùng nhận diện các khái niệm cá biệt và trình bày bằng ký hiệu mà kế toán sử dụng.

– Các nguyên tắc văn phạm của một ngôn ngữ, ở đây ám chỉ, những cách sắp xếp về cú pháp của mọi ngôn ngữ. Trong kế toán, các nguyên tắc văn phạm, nhằm chỉ các, thủ tục, phải tuân thủ khi xây dựng xây tất cả các số liệu về tài chính của doanh nghiệp.

– Với sự hiện diện của các yếu tố cấu thành này các ký hiệu và các nguyên tắc kế toán, kế toán có thể được định nghĩa là một ngôn ngữ.

b> Kế toán là một hệ thống thông tin Kế toán luôn luôn được xem là một hệ thống thông tin. Nó được cho là quá trình kết nối một nguồn thông tin, một kênh thông tin (thường do kế toán viên thực hiện) với tập hợp những nguồn nhận thông tin (những người sử dụng). Theo quan điểm kế toán là một hệ thống thông tin, kế toán có thể hiểu là: “Quá trình mã hóa các quan sát theo ngôn ngữ của kế toán, thành các ký hiệu qua các báo cáo của hệ thống đó và giải mã chúng để truyền đạt các kết quả đó”

Quan điểm này nhấn mạnh đến việc nhận thức và truyền đạt thông tin kế toán. Trước hết, giả thuyết kế toán là một hệ thống đo lường chính thức duy nhất trong một tổ chức. Sau đó, nó nâng cáo khả năng thiết thiết kế một hệ thống kế toán tùy ý, đủ khả năng để cung cấp các thông tin hữu ích cho nguồn cần sử dụng thông tin.

c> Kế toán là một hồ sơ lịch sử Nhìn chung, kế toán được xem là phương tiện cung cấp thông tin lịch sử của một tổ chức và các giao dịch của nó với các môi trường xung quanh nó. Đối với người chủ sở hữu hay đối với các cổ đông của một doanh nghiệp, các hồ sơ kế toán cung cấp lịch sử về trách nhiệm quản lý các nguồn lực của chũ sỡ hữu. Kế toán là hệ thống thông tin hoạt động qua 3 giai đoạn:

– Giai đoạn thu thập và ghi nhận – Giai đoạn đánh giá kết quả và hiệu quả – Giai đoạn cung cấp thông tin cho hoạch định.

d> Kế toán là một hàng hóa Kế toán cũng được xem là hàng hóa sinh ra từ một hoạt động kinh tế. Bởi vì, kế toán cung cấp những thông tin hữu ích cho các đối tượng cần sử dụng thông tin khác nhau. Người nhận thông tin có thể ra quyết định sáng suốt và hiệu quả hơn, Thay vì nếu không có thông tin, muốn có được các thông tin cần có chi phí bỏ ra, nguời sử dụng thông tin này phải nhận diện được kết quả của thông tin làm thay đổi các quyết định so với chi phí để có được thông tin.

Sự lựa chọn thông tin kế toán và các kỹ thuật kế toán có thể ảnh hưởng đến lợi ích của các nhóm người khác nhau trong xã hội. Kết quả là có một thị trường thông tin kế toán với cung và cầu xác định có thể không giống nhau. Quan điểm kế toán là một hàng hóa đang và sẽ tiếp tục có ảnh hưởng sâu sắc đến cách nghĩ về kế toán và nghiên cứu kế toán.

e> Kế toán phản ánh thực trạng kinh tế hiện hành Kế toán cũng được xem xét như là một phương tiện phản ánh thực trạng kinh tế hiện hành theo quan điểm này thì cả bảng CĐKT và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đều phải dựa trên cơ sở đánh giá nào, phản ánh nhiều nhất thực trạng kinh tế thay vì chi phí lịch sử.

Phương pháp được xem là phản ánh nhất thực trạng kinh tế nhấn mạnh vào giá hiện hành và giá tương lai hơn là giá lịch sử. Mục tiêu chính của quan điểm này của kế toán là để xác định thu nhập thực sự, là quan điểm phản ánh sự thay đổi về của cải của doanh nghiệp theo thời gian. Sử dụng phương pháp nào đó để đo lường tốt nhất các giá trị tài sản, công nợ và thu nhập liên quan? Để trả lời câu hỏi này có nhiều phương pháp đánh giá tài sản được đề nghị đưa ra. Xong cũng không ít quan điểm tranh luận khác nhau về vấn đề này. Sau khi phân tích các khái niệm kế toán, xác định rõ vai trò và bản chất của kế toán, theo quan điểm của tôi, trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, kế toán có thể được định nghĩa như sau:

“Kế toán là một khoa học liên quan đến việc thu thập, đo lường, xử lý và truyền đạt các thông tin tài chính và phi tài chính hữu ích của một tổ chức đến các đối tượng sử dụng để trên cơ sở đó đế ra các quyết định hợp lý.”

Th.S Lê Mạnh Hùng

Trường Đại học kinh tế Tp.HCM

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. “ Quy trình kế toán doanh nghiệp trong điều kiện đổi mới và hội nhập” – PGS.TS. Nguyễn Đình Đỗ, TS. Nguyễn Bá Minh – Nhà Xuất Bản Thống Kê Hà Nội – Năm 2004

2. “ Xác lập nội dung và vận dụng kế toán quản trị vào các doanh nghiệp Việt nam” – Luận án tiến sĩ kinh tế – Trần Anh Hoa – Năm 2003

3. “ Bài Giảng môn lý thuyết kế toán Hệ cao học” – Khoa kế toán kiểm toán – năm 2006

4. “ Bài giảng tổng quan lý thuyết kế toán” – TS. Vũ Hữu Đức – Năm 2006

5. “Nguyên tắc kế toán (Song ngữ Việt – Anh” – Belverd E. Nedddles Jr, Henry R. Anderson, Kames C. Caldwell – Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia – Hà Nội – Năm 1996

Bản chất của kế toán là gì?

1.2 Bản chất của kế toán - Kế toán là nghệ thuật ghi chép, phân loại, tổng hợp 1 cách có ý nghĩa dưới hình thức tiền tệ các nghiệp vụ Ktế phát sinh, các sự kiện liên quan đến tình hình tài chính và giải thích kết quả của sự ghi chép này.

Bản chất của kế toán quản trị là gì?

“Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán.” Mục tiêu của kế toán quản trị là cung cấp thông tin cho nhà quản lý nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đạt mục tiêu doanh nghiệp đề ra.

Các chức năng của kế toán là gì?

Kế toán (tiếng Anh là Accounting) là người đảm nhận công việc ghi chép, thu nhận, xử lý và cung cấp các thông tin phản ánh tình hình hoạt động tài chính của một tổ chức, doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước, cơ sở kinh doanh tư nhân,…

Hệ thống thông tin kế toán bao gồm những gì?

Thành phần của hệ thống thông tin kế toán Một hệ thống thông tin kế toán cơ bản thường bao gồm bốn thành phần chính: con người, thủ tục và hướng dẫn, dữ liệu, phần mềm.