3 cường quốc đứng đầu về chinh phục vũ trụ là

Gần đây nhất, hôm 24/06, Reuters cho biết, Bắc Kinh dự kiến thực hiện sứ mệnh đầu tiên đưa người Trung Quốc lên Sao Hỏa vào năm 2033, sau đó là những chuyến đi thường xuyên lên hành tinh đỏ để chiết xuất tài nguyên. Kế hoạch này sẽ thúc đẩy cuộc đua chinh phục Sao Hỏa giữa Mỹ và Trung Quốc. Chương trình chinh phục không gian của Trung Quốc như vậy ngày càng bộc lộ rõ và khiến những đối thủ “nặng ký” còn lại trong không gian, đặc biệt là Mỹ, không khỏi lo ngại.

Tham vọng có từ thời Mao Trạch Đông

Trước hết, cần nói là chương trình không gian của Trung Quốc không phải là gần đây mới có. Trên thực tế, nó được khởi động từ cuối thập niên 1950. Theo bà Isabelle Sourbès-Verger, giám đốc nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu quốc gia Pháp (CNRS), tác giả một cuốn sách về công cuộc chinh phục không gian của Trung Quốc (*), thì ngay cả trước khi Liên Xô lần đầu tiên phóng vệ tinh Sputnik, vào năm 1956,  chủ tịch Trung Quốc khi đó là Mao Trạch Đông đã nhận định Trung Quốc phải trở thành một “cường quốc không gian” để "được các cường quốc công nhận và hiện diện trong thế giới mới đang được mở ra”.

Nhưng khi khởi động chương trình phóng vệ tinh vệ tinh, Trung Quốc, đang phải đối mặt với sự chậm trễ đáng kể về kinh tế và công nghệ so với thế giới, rồi sau đó phải đối mặt với Cách mạng Văn hóa, với hệ quả là "sự vô tổ chức của các nhóm công nghệ và khoa học”. Tuy nhiên theo chuyên gia Pháp Sourbès-Verger, “chính trong bối cảnh đầy biến động đó Trung Quốc phóng thành công vệ tinh đầu tiên vào năm 1970”.

Ba cột trụ trong chính sách không gian của Trung Quốc

Nhà nghiên cứu của Viện Quan hệ quốc tế Pháp Ifri, Marc Julienne, tác giả công trình nghiên cứu “Tham vọng của Trung Quốc trong không gian” (*), giải thích chính từ những năm 1980, sau khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền với chính sách cải cách và mở cửa, chương trình không gian của Trung Quốc mới thực sự có thể “cất cánh” và bao gồm các chương trình “có cấu trúc tốt và trên hết là đầy tham vọng, với ngân sách lớn hơn rất nhiều”.

Kể từ đó, Bắc Kinh đã khắc phục các chậm trễ, với những mục tiêu cụ thể. Mục tiêu đầu tiên luôn là phát triển kinh tế và xã hội. Chuyên gia Isabelle Sourbès-Verger của CNRS nhấn mạnh: “Trung Quốc chưa bao giờ có cơ sở hạ tầng trên mặt đất như chúng ta có thể thấy ở các quốc gia phát triển, dù là viễn thông hay các công cụ quy hoạch và quản lý lãnh thổ. Thế nhưng, Trung Quốc lại là một đất nước rộng mênh mông, với rất đông dân số, nhiều khi dân cư sống ở những khu vực khó tiếp cận”. Chương trình không gian có rất nhiều lợi ích, chẳng hạn trong việc quan sát mặt đất, viễn thông, truyền hình nhà nước, thời tiết …

Khía cạnh thứ hai của chương trình, theo nhà nghiên cứu Marc Julienne, là phục vụ “quốc phòng". Ông nhấn mạnh các ứng dụng không gian có tính chất “kép” : phục vụ cả quân sự và dân sự, và đối với Bắc Kinh, mục tiêu là phải "bảo vệ đất nước trước các cuộc xâm lăng từ bên ngoài, trước sức mạnh của Mỹ và Nga ở biên giới" Trung Quốc.

Cột trụ thứ ba, một trong những cột trụ quan trọng nhất hiện nay, theo chuyên gia Julienne, là "sự cạnh tranh giữa các cường quốc. Các tham vọng và thành tựu trong không gian cho thấy sự hùng mạnh của một cường quốc trên Trái đất : đối với Trung Quốc, không gian là một trong những con đường thực hiện tham vọng trở thành một cường quốc trên thế giới".

Một tham vọng đáng lo ngại

Trên thực tế, các cường quốc khác về không gian đang lo ngại về bước tiến của Trung Quốc. Theo nhà nghiên cứu Isabelle Sourbès-Verger, điều khiến Nga bận tâm là Bắc Kinh có “có dự án chính trị lớn đằng sau chương trình không gian. Trong khi đó, tuy từ lâu nay trong lĩnh vực này Nga đã có nhiều công nghệ vượt trội hơn so với Trung Quốc, nhưng lại đang thiếu các dự án chính trị”. Và trong những năm gần đây, Nga cũng không cho thấy có các thành tựu lớn nào về chinh phục không gian. Do đó, Matxcơva liên minh với Bắc Kinh, chẳng hạn trong một dự án cơ bản về mặt khuất của Mặt trăng. Thế nhưng, “rủi ro là tụt từ vị trí thứ nhất xuống thứ hai, điều không mấy dễ chịu đối với lòng tự hào dân tộc khi người ta đã biết đến sự hùng mạnh thời Liên Xô."

Còn đối với Ấn Độ, New Delhi có quan điểm "nghi kỵ, ngờ vực" Trung Quốc, đặc biệt là về ảnh hưởng trong khu vực ở châu Á. Do đó, New Delhi tìm cách chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc bằng cách đề nghị hợp tác với các nước châu Á khác trong lĩnh vực không gian. Về mối lo của châu Âu, bà Isabelle Sourbès-Verger giải thích là nếu Trung Quốc tiếp tục phát triển các năng lực thương mại, đặc biệt là sản xuất vệ tinh, thì nước này có khả năng sẽ trở thành một đối thủ cạnh tranh trên thị trường thương mại về phóng vệ tinh, vốn đã có sự hiện diện của các công ty của Mỹ.

Cuối cùng, nước lo ngại nhất có lẽ là Mỹ. Washington e ngại khi thấy Trung Quốc có được những năng lực mới trong lĩnh vực mà lâu nay Mỹ vẫn coi là "độc quyền" và lo sợ mất vị trí hàng đầu. Vì thế, Mỹ tìm cách “hãm phanh” đối thủ.

Thái độ xa cách của Mỹ

Do yêu cầu của Mỹ, Trung Quốc không thể gửi phi hành gia lên Trạm không gian quốc tế ISS. Chuyên gia Marc Julienne của Viện Ifri giải thích: "Hoa Kỳ lo sợ về việc bị Trung Quốc bắt kịp về công nghệ và để Trung Quốc tham gia tức là giúp đỡ Bắc Kinh phát triển chương trình không gian của riêng họ và có nguy cơ để rò rỉ bí quyết và công nghệ”. Cũng chính vì thế mà Bắc Kinh cũng không thể phóng vệ tinh được chế tạo bằng các linh kiện của Mỹ.

Vào năm 2011, Quốc Hội Mỹ đã thông qua luật cấm NASA hợp tác với các tổ chức hoặc công ty Trung Quốc trong lĩnh vực không gian, vũ trụ. Nhà nghiên cứu Isabelle Sourbès-Verger lưu ý: “Thực sự Mỹ giữ thái độ xa cách về công nghệ vũ trụ, chủ yếu là từ sau sự kiện Thiên An Môn” và ngân sách của Mỹ cho không gian (50 tỉ đô la) vẫn cao hơn nhiều so với ước tính về ngân sách của Trung Quốc (khoảng 15-20 tỉ đô la).

Nhưng quả thực chính việc Mỹ giữ thái độ xa cách, nhằm tránh để Trung Quốc bắt kịp, lại thúc đẩy Bắc Kinh tự xoay xở phần lớn. Muốn nghiên cứu quỹ đạo trong điều kiện không trọng lực, Trung Quốc đã phát triển trạm vũ trụ của riêng mình (CSS). Trạm CSS đang được lắp ráp và rất có thể đưa Trung Quốc lên vị trí mạnh trong những năm tới, bởi vì Trạm không gian quốc tế ISS sẽ ngừng vận hành sau một vài năm nữa. Nhà nghiên cứu Marc Julienne nhận xét: “Trạm không gian của Trung Quốc có thể trở thành trạm vũ trụ duy nhất, của một Nhà nước, phục vụ nghiên cứu khoa học trên quỹ đạo Trái đất vào cuối thập kỷ này”. Nga và Mỹ chắc chắn có dự án của riêng họ (một trạm trên quỹ đạo Mặt Trăng của Hoa Kỳ), nhưng trạm không gian của Trung Quốc sẽ nhanh chóng được hoàn thành từ nay đến năm 2022.

Bắc Kinh đã tuyên bố mở trạm này cho hoạt động hợp tác quốc tế, dường như là hướng đến Nga và các nước đang phát triển như Pakistan, nhưng với điều kiện mà Bắc Kinh đưa ra, theo lưu ý của Marc Julienne. Nếu ISS là một trạm quốc tế (gồm Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, Canada và 11 nước châu Âu), hoạt động dựa trên các hiệp ước được ký kết giữa các chính phủ, thì trạm không gian mới sẽ là của riêng Trung Quốc. Do đó, sự hợp tác mà Bắc Kinh thông báo sẽ được thực hiện "theo ý muốn và các điều kiện mà Trung Quốc đề ra". Trạm CSS như vậy có thể sẽ trở thành “đòn bẩy ngoại giao đối với các hồ sơ khác về kinh tế và chính trị, vốn không liên quan gì đến không gian”.

Giải trừ quân bị trong không gian

Trung Quốc cũng đang cố gắng kiềm chế các khả năng của đối thủ về không gian. Cùng với Nga, từ nhiều năm nay, Bắc Kinh đề xuất với Liên Hợp Quốc dự thảo hiệp ước nhằm "ngăn chặn cuộc chạy đua vũ trang ngoài không gian". Cả Mỹ và Pháp đều phản đối. Nhà nghiên cứu Julienne nhắc lại Washington tố cáo đó là ý đồ xấu bởi Bắc Kinh và Matxcơva nói đồng thời "Chúng ta phải giải trừ quân bị và cấm đưa vũ khí vào quỹ đạo” và "chúng ta phát triển chúng" với lập luận "chừng nào Mỹ đang phát triển chúng thì chúng tôi phải phòng vệ”. Vì thế, Trung Quốc và Nga có các chương trình tên lửa chống vệ tinh bắn từ Trái đất, vũ khí laser, vũ khí điện từ ... Điều mơ hồ khác là Nga và Trung Quốc không nói liệu họ có loại bỏ các vũ khí trên sau khi hiệp ước được ký kết hay không.

Hơn nữa, một trong những vấn đề lớn đối với Hoa Kỳ là sự thiếu vắng một cơ chế giám sát sau khi văn bản được ký kết, vốn dĩ là một phương thức xác minh phổ biến trong các hiệp ước quốc tế (ví dụ về vũ khí nguyên tử). Cần lưu ý rằng những  loại vũ khí này vẫn đang trong quá trình phát triển và những vũ khí mà một số nước đã làm chủ thì rất khó tháo dỡ (chẳng hạn việc phá hủy vệ tinh).

*

Ghi chú:

(*) https://www.rfi.fr/fr/podcasts/fr%C3%A9quence-asie/20210529-la-chine-%C3%A0-la-conqu%C3%AAte-de-l-espace

Quyết định của Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) cuối tuần qua, lựa chọn Tập đoàn công nghệ SpaceX thực hiện dự án phát triển tàu đổ bộ đưa các phi hành gia lên Mặt Trăng khiến cho cuộc chạy đua thám hiểm đang ngày càng trở nên nóng bỏng hơn. Nếu được thực hiện, đây sẽ là sứ mệnh đưa con người lên Mặt Trăng lần thứ hai sau cuộc đổ bộ lần thứ nhất của tàu Apollo năm 1972.

3 cường quốc đứng đầu về chinh phục vũ trụ là
3 cường quốc đứng đầu về chinh phục vũ trụ là

Ảnh minh họa: Teslarati.com

Theo thông báo của NASA, hợp đồng đưa các nhà du hành lên Mặt Trăng sớm nhất vào năm 2024 được ký kết có trị giá gần 3 tỷ USD. Hợp đồng này sẽ sử dụng tàu vũ trụ nguyên mẫu Starship, được thiết kế cho một phi hành đoàn lớn cùng trang thiết bị cần thiết phục vụ các sứ mệnh khám phá không gian vũ trụ. 

Tàu Starship có thể hạ cánh thẳng đứng trên bề mặt Trái Đất cũng như hành tinh khác trong vũ trụ. Cho đến nay, các chuyến bay thử nghiệm đều chưa thành công nhưng tập đoàn này đang nỗ lực chế tạo các phương tiện thử nghiệm mới.

Chuyên gia NASA Lisa Watdon-Morgan cho biết: “Chúng tôi đã lựa chọn đối tác và chuẩn bị thực hiện giai đoạn tiếp theo. Chúng tôi phải đảm bảo thực hiện các cuộc thử nghiệm vì chúng tôi sẽ không đưa người lên Mặt Trăng cho đến khi các cuộc thử nghiệm thành công”.

Không giống như các cuộc đổ bộ lên Mặt Trăng của tàu Apollo từ năm 1969 đến năm 1972, NASA hiện đang chuẩn bị cho sự hiện diện lâu dài trên Mặt Trăng, một bước đệm cho một kế hoạch thậm chí còn tham vọng hơn, đó là đưa các phi hành gia đến Sao Hỏa. Quyết định này của NASA khiến cho cuộc đua chinh phục Mặt Trăng và các hành tinh khác trong vũ trụ giữa Mỹ với các cường quốc khác trở nên nóng bỏng hơn.

Trong động thái mới nhất, giới khoa học vũ trụ Trung Quốc ngày 24/4 khẳng định nước này là cường quốc vũ trụ, đủ khả năng thám hiểm không gian, khám phá các vùng sâu hơn trong vũ trụ bằng phương tiện không người lái. Giới khoa học nước này cũng không giấu tham vọng sớm đưa người lên Mặt Trăng.

Viện sĩ Viện Khoa học Trung Quốc Diệp Bồi Kiến (Ye Peijian) cho biết: “Chúng tôi đang lên kế hoạch thực hiện các chuyến thăm dò tiểu hành tinh. Chúng tôi sẽ hoàn thành sứ mệnh này trong 10 năm. Chúng tôi cũng hy vọng Trung Quốc sẽ sớm đủ khả năng đưa người lên Mặt Trăng trong tương lai gần”.

Đầu tháng 12/2020, Trung Quốc tuyên bố, tàu thăm dò Hằng Nga 5 đã hạ cánh thành công, cắm quốc kỳ lên bề mặt Mặt Trăng. Đây là lần hạ cánh thành công thứ 3 của Trung Quốc trong vòng 7 năm qua. Từng là nước yếu thế trong cuộc đua không gian, nhiều năm gần đây, Trung Quốc liên tục phát triển các chương trình hàng không vũ trụ với tham vọng chinh phục các vùng lãnh thổ mới.

Đầu tháng 3/2021, Cơ quan Vũ trụ Nga Roscosmos cho biết, nước này và Trung Quốc đã ký bản ghi nhớ về việc cùng xây dựng một trạm vũ trụ Mặt Trăng. Trạm vũ trụ này sẽ được thiết kế như một tổ hợp các cơ sở nghiên cứu thử nghiệm hoạt động trên bề mặt hoặc trên quỹ đạo của Mặt Trăng.

Giới chức Nga cũng tuyên bố sẽ thử các tên lửa đẩy mới vào tiếp tục chương trình thám hiểm Mặt Trăng trong năm nay. Bên cạnh Mỹ, Nga, Trung Quốc một số nước khác như Nhật Bản, Liên minh châu Âu, Ấn Độ, Hàn Quốc, Israel, Nam Phi… cũng công bố các chương trình thám hiểm Mặt Trăng đầy tham vọng thời gian tới.

Bên cạnh Mặt Trăng, chinh phục Sao Hỏa cũng đang trở thành mục tiêu cạnh tranh khốc liệt giữa các nước. Chỉ trong tháng 2 vừa qua, xe tự hành Perseverance của Mỹ, tàu vũ trụ Thiên Vấn-1 của Trung Quốc, Hope của Các Tiểu Vương quốc Arab Thống nhất (UAE) lần lượt ghé thăm sao Hỏa.

Theo giới chuyên gia vũ trụ, các cuộc thăm dò có mục tiêu khác nhau nhưng đều cho thấy sự quan tâm của các cường quốc không gian đến hành tinh Đỏ. Không chỉ nhằm phục vụ các mục đích quân sự và dân sự, cuộc chạy đua vào không gian trong thời gian tới còn liên quan quan đến lợi ích kinh tế ước tính trị giá hàng nghìn tỷ USD./.