100 bản nhạc chế hàng đầu 2012 năm 2022

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Show

100 bản nhạc chế hàng đầu 2012 năm 2022
Một em bé đang nhảy theo điệu nhảy của Baby Shark. Video này vượt mặt Despacito để trở thành video có nhiều lượt xem nhất YouTube nhờ lượng khán giả nhỏ tuổi đông đảo.

YouTube là một trang web chia sẻ video của Mỹ có trụ sở tại San Bruno, California. Khi nó được thành lập vào năm 2005, trang web có phần "được xem nhiều nhất", liệt kê các video được xem nhiều nhất trên trang web. Mặc dù video được xem nhiều nhất ban đầu là các video lan truyền, chẳng hạn như Evolution of Dance và Charlie Bit My Finger, nhưng khi Lady Gaga ra mắt " Bad Romance" vào năm 2009 thì các video được xem nhiều nhất ngày càng liên quan đến video âm nhạc. Mặc dù các video được xem nhiều nhất không còn được liệt kê trên trang web, nhưng vẫn đạt được vị trí đầu danh sách vẫn được xem là một kỳ công to lớn.

Vào tháng 11 năm 2005, một quảng cáo của Nike có cầu thủ bóng đá người Brazil Ronaldinho đã trở thành video đầu tiên đạt một triệu lượt xem.[1]

Câu lạc bộ tỷ lượt xem[sửa | sửa mã nguồn]

Một thước đo về sự nổi tiếng của một video được nói là Câu lạc bộ tỷ lượt xem, chỉ ra các video có trên 1 tỷ lượt xem từ ngày tải lên của nó.[2]

Vào tháng 12 năm 2012, "Gangnam Style" trở thành video đầu tiên vượt qua mốc 1 tỷ lượt xem.[3] Đến tháng 6 năm 2015, chỉ có hai video "Gangnam Style" và "Baby" đã đạt tới một tỷ lượt xem. Tuy nhiên, đến tháng 9, có tới 10 video đã làm như vậy.[4] Tính đến tháng 9 năm 2019, 167 video trong danh sách đã vượt quá một tỷ lượt xem, trong đó có 78 trong số đó vượt quá hai tỷ lượt xem; tám trong số đó vượt quá ba tỷ lượt xem. "Despacito" đã trở thành video đầu tiên đạt tới ba tỷ lượt xem vào ngày 4 tháng 8 năm 2017, tiếp theo là "See You Again" vào ngày 6 tháng 8 năm 2017[5][6], và sau đó vào ngày 25 tháng 11 năm 2017, "Gangnam Style" trở thành video thứ ba cán mốc ba tỷ lượt xem, theo sau là "Shape of You" vào ngày 7 tháng 1 năm 2018, thực hiện điều đó trong 343 ngày; vào ngày 31 tháng 3 năm 2018, "Uptown Funk" trở thành video thứ năm vượt mốc 3 tỷ lượt xem.[5][6][7] Vào ngày 11 tháng 10 năm 2017, "Despacito" đã trở thành video đầu tiên vượt quá 4 tỷ lượt xem.[8]

Vào tháng 10 năm 2017, năm video đạt được một tỷ lượt xem nhanh nhất là "Hello" (87 ngày), "Despacito" (96 ngày), "Shape of You" (97 ngày), "Mi Gente" (102 ngày) và "Échame la Culpa" (111 ngày)[9]

Năm video đạt được hai tỷ lượt xem nhanh nhất là "Despacito" (154 ngày), "Shape of You" (187 ngày), "Chantaje" (379 ngày), "Sorry" (394 ngày) và "See You Again" (515 ngày).[10]

Vào tháng 1 năm 2018, Justin Bieber là nghệ sỹ duy nhất có năm video vượt quá một tỷ lượt xem, trong khi đó Katy Perry, Nicky Jam, Shakira và Taylor Swift có bốn. Calvin Harris, Ariana Grande, Bruno Mars, Adele, BTS, The Chainsmokers và BLACKPINK cùng có ba, và Fifth Harmony, Psy, Ellie Goulding, The Weeknd, Ed Sheeran, Eminem, Maluma, J Balvin, Ricky Martin, kênh Get Movies, Sia, Rihannah, Twenty One Pilots và Luis Fonsi đều có hai. Taylor Swift, Shakira, Katy Perry và Ed Sheeran là những nghệ sĩ có hai video vượt quá hai tỷ lượt xem. Đặc biệt Ed Sheeran dạo gần đây đã đạt được thành tích có video ca nhạc mang tên ''Shape Of You'' đã vượt quá 4 tỷ lượt xem.

Đầu tháng 11 năm 2020, Baby Shark vượt Despacito trở thành video có nhiều lượt xem nhất YouTube.

Những video hàng đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Bảng dưới đây liệt kê hơn 30 video có nhiều lượt xem nhất Youtube, với tổng cộng được làm tròn đến 10 triệu lượt xem gần nhất, kênh và ngày tải lên.[A]

Top 30 video có nhiều lượt xem nhất Youtube[11]
Vị trí Tên video Đăng tải / nghệ sĩ Lượt xem (tỷ) Ngày đăng Chú thích
1. "Baby Shark Dance"[12] Pinkfong 11,317 17 tháng 6 năm 2016 [B]
2. "Despacito"[14] Luis Fonsi 7,967 12 tháng 1 năm 2017 [C]
3. "Johny Johny Yes Papa"[20] LooLoo Kids 6,455 8 tháng 10 năm 2016 [D]
4. "Shape of You"[21] Ed Sheeran 5,802 30 tháng 1 năm 2017 [E]
5. "See You Again"[23] Wiz Khalifa 5,630 6 tháng 4 năm 2015 [F]
6. "Bath Song"[28] Cocomelon – Nursery Rhymes 5,604 2 tháng 5 năm 2018 [G]
7. "Phonics Song with Two Words"[29] ChuChu TV 4,872 6 tháng 3 năm 2014
8. "Uptown Funk"[30] Mark Ronson 4,689 19 tháng 11 năm 2014 [H]
9. "Learning Colors – Colorful Eggs on a Farm"[31] Miroshka TV 4,619 27 tháng 2 năm 2018 [I]
11. "Gangnam Style"[32] Psy 4,541 15 tháng 7 năm 2012 [J]
10. "Masha and the Bear – Recipe for Disaster"[36] Get Movies 4,506 31 tháng 1 năm 2012 [K]
12. "Wheels on the Bus"[37] Cocomelon – Nursery Rhymes 4,354 24 tháng 5 năm 2018
13. "Dame Tu Cosita"[38] El Chombo 4,059 5 tháng 4 năm 2018
14. "Sugar"[39] Maroon 5 3,755 14 tháng 1 năm 2015
15. "Axel F"[40] Crazy Frog 3,506 16 tháng 6 năm 2009
16. "Roar"[41] Katy Perry 3,651 5 tháng 9 năm 2013
17. "Counting Stars"[42] OneRepublic 3,640 31 tháng 5 năm 2013
18. "Sorry"[43] Justin Bieber 3,583 22 tháng 10 năm 2015
19. "Thinking Out Loud"[44] Ed Sheeran 3,494 7 tháng 10 năm 2014
22. "Dark Horse"[45] Katy Perry 3,341 20 tháng 2 năm 2014
23. "Faded"[46] Alan Walker 3,337 3 tháng 12 năm 2015
21. "Girls Like You"[47] Maroon 5 3,328 31 tháng 5 năm 2018
20. "Let Her Go"[48] Passenger 3,292 25 tháng 7 năm 2012
24. "Bailando"[49] Enrique Iglesias 3,264 11 tháng 4 năm 2014
25. "Lean On"[50] Major Lazer 3,257 22 tháng 3 năm 2015
27. "Perfect"[51] Ed Sheeran 3,247 9 tháng 11 năm 2017
28. "Waka Waka (This Time for Africa)"[52] Shakira 3,241 4 tháng 6 năm 2010
26. "Shake It Off"[53] Taylor Swift 3,204 18 tháng 8 năm 2014
29. "Mi Gente"[54] J Balvin 3,129 29 tháng 6 năm 2017
30. "Hello"[55] Adele 3,008 22 tháng 10 năm 2015
Tính đến ngày 1 tháng 6 năm 2022

Các video được xem nhiều nhất trong lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Bảng dưới đây liệt kê các video đã từng là video được xem nhiều nhất của YouTube, từ tháng 10 năm 2005 đến nay.

  Kỷ lục hiện tại (⁂)

  Kỷ lục cũ (*)

  Video đã bị xóa khỏi YouTube (‡)

Tên video Người tải lên Lượt xem* Ngày tải lên Ngày đạt được Số ngày giữ Tham khảo Chú thích
"Baby Shark Dance"[12] Pinkfong Baby Shark - Kids' Songs & Stories 7,037,500,000 17 tháng 6 năm 2016 2 tháng 11 năm 2020 739
"Despacito"[14] Luis Fonsi 2,993,700,000 12 tháng 1 năm 2017 4 tháng 8 năm 2017 1.186 [56] [C]
"See You Again"[23] Wiz Khalifa 2,894,000,000 6 tháng 4 năm 2015 10 tháng 7 năm 2017 25 [24]
"Gangnam Style"⁂[32] Psy 803,700,000 15 tháng 7 năm 2012 24 tháng 11 năm 2012 1.689 [33] [J]
"Baby"*[57] Justin Bieber 245,400,000 19 tháng 2 năm 2010 16 tháng 7 năm 2010 862 [58] [L]
"Bad Romance"[61] Lady Gaga 178,400,000 24 tháng 11 năm 2009 14 tháng 4 năm 2010 93 [62] [M]
"Charlie Bit My Finger"‡[65] HDCYT 128,900,000 22 tháng 5 năm 2007 25 tháng 10 năm 2009 171 [66]
"Evolution of Dance"[67] Judson Laipply 118,900,000 6 tháng 4 năm 2006 2 tháng 5 năm 2009 176 [68]
"Girlfriend"‡[69][70] RCA Records 92,600,000 27 tháng 2 năm 2007 17 tháng 7 năm 2008 289 [71]
"Evolution of Dance"[67] Judson Laipply 78,400,000 6 tháng 4 năm 2006 15 tháng 3 năm 2008 124 [72]
"Music Is My Hot Hot Sex"‡[73] CLARUSBARTEL72 76,600,000 9 tháng 4 năm 2007 1 tháng 3 năm 2008 14 [74] [N]
"Evolution of Dance"*[67] Judson Laipply 10,600,000 6 tháng 4 năm 2006 19 tháng 5 năm 2006 652 [77] [O]
"Pokemon Theme Music Video"‡[78] Smosh 4,300,000 28 tháng 11 năm 2005 12 tháng 3 năm 2006 68 [79] [P]
"Myspace – The Movie"‡[82][83] eggtea 2,700,000 31 tháng 1 năm 2006 18 tháng 2 năm 2006 22 [84]
"Phony Photo Booth"‡[85] mugenized 3,400,000 1 tháng 12 năm 2005 21 tháng 1 năm 2006 28 [86] [Q]
"The Chronic of Narnia Rap"‡[87] youtubedude 2,300,000 18 tháng 12 năm 2005 9 tháng 1 năm 2006 12 [88]
"Ronaldinho: Touch of Gold"‡*[89] Nikesoccer 255,000 21 tháng 10 năm 2005 31 tháng 10 năm 2005 70 [90] [R]
"I/O Brush"‡*[92] larfus 247,000 5 tháng 10 năm 2005 29 tháng 10 năm 2005 2 [93]
"Me at the zoo"[94] jawed 1 23 tháng 4 năm 2005 23 tháng 4 năm 2005 1 [95]
Tính đến 11 tháng 11, 2022

*Số lượt xem gần đúng của mỗi video đã trở thành video được xem nhiều nhất của YouTube.

Dòng thời gian video được xem nhiều nhất (tháng 10 năm 2005 – tháng 11 năm 2021)

100 bản nhạc chế hàng đầu 2012 năm 2022

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Danh sách video Ấn Độ được xem nhiều nhất YouTube
  • Danh sách video có nhiều lượt thích nhất YouTube
  • Danh sách video có nhiều lượt không thích nhất YouTube
  • Danh sách những video được xem nhiều nhất trong 24 giờ đầu tiên
  • Danh sách những trailer được xem nhiều nhất trong 24 giờ đầu tiên
  • Danh sách những kênh được đăng ký nhiều nhất YouTube
  • Danh sách những kênh được xem nhiều nhất YouTube

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Một số video có thể không xem được trên toàn cầu do sự hạn chế truy cập trên một số quốc gia.
  2. ^ "Baby Shark Dance" là video thứ 5 đạt 4 tỷ lượt xem vào 25 tháng 11 năm 2019; video thứ 2 đạt 5 tỷ lượt xem vào 3 tháng 4 năm 2020; video thứ 2 đạt 6 tỷ lượt xem vào 16 tháng 7 năm 2020; video thứ 2 đạt 7 tỷ lượt xem vào 29 tháng 10 năm 2020; video đầu tiên đạt 8 tỷ lượt xem vào 23 tháng 2 năm 2021; và video đầu tiên đạt 9 tỷ lượt xem vào 20 tháng 7 năm 2021. Nó vượt "Despacito" vào 1 tháng 11 năm 2020 để trở thành video có nhiều lượt xem nhất Youtube.[13]
  3. ^ a b "Despacito" là video đầu tiên đạt 3 tỷ lượt xem vào 4 tháng 8 năm 2017;[15] video đầu tiên đạt 4 tỷ lượt xem vào 11 tháng 11 năm 2017;[16] video đầu tiên đạt 5 tỷ lượt xem vào 5 tháng 4 năm 2018;[17] video đầu tiên đạt 6 tỷ lượt xem vào 24 tháng 2 năm 2019;[18] video đầu tiên đạt 7 tỷ lượt xem vào 10 tháng 10 năm 2020;[19] Đây là video được yêu thích nhiều nhất YouTube với hơn 46 triệu lượt thích tính đến tháng 11 năm 2021.
  4. ^ "Johny Johny Yes Papa" là video thứ sáu đạt 4 tỷ lượt xem vào 12 tháng 10 năm 2020; và là video thứ năm đạt 5 tỷ lượt xem vào 19 tháng 3 năm 2021.
  5. ^ "Shape of You" là video thứ hai đạt 4 tỷ lượt xem vào 7 tháng 1 năm 2019;[22] video thứ ba đạt 5 tỷ lượt xem vào 1 tháng 10 năm 2020.
  6. ^ "See You Again" vượt qua "Gangnam Style" trở thành video có nhiều lượt xem nhất vào 10 tháng 7 năm 2017;[24] video thứ hai đạt 2 tỷ lượt xem vào 3 tháng 9 năm 2016;[25] video thứ hai đạt 3 tỷ lượt xem vào 6 tháng 8 năm 2017;[26] video thứ ba đạt 4 tỷ lượt xem vào 7 tháng 2 năm 2019; video thứ tư đạt 5 tỷ lượt xem vào 9 tháng 3 năm 2021;[27] và video có nhiều lượt thích thứ nhì với hơn 36 triệu lượt thích tính đến tháng 11 năm 2020.
  7. ^ "Bath Song" bởi Cocomelon là video thứ mười đạt 4 tỷ lượt xem vào 10 tháng 5 năm 2021.
  8. ^ "Uptown Funk" là video thứ bảy đạt 4 tỷ lượt xem vào 8 tháng 11 năm 2020.
  9. ^ "Learning Colors – Colorful Eggs on a Farm" là video thứ chín đạt 4 tỷ lượt xem vào 4-6 tháng 5 năm 2021.
  10. ^ a b "Gangnam Style" vượt qua "Baby" trở thành video có nhiều lượt xem nhất Youtube vào 24 tháng 11 năm 2012;[33] video đầu tiên đạt 1 tỷ lượt xem vào 21 tháng 12 năm 2012;[3] video thứ hai đạt được 2 tỷ lượt xem vào 30 tháng 5 năm 2014;[34] video thứ ba đạt 3 tỷ lượt xem vào 25 tháng 11 năm 2017; video thứ tám đạt 4 tỷ lượt xem vào 4 tháng 3 năm 2021.[35]
  11. ^ "Recipe for Disaster" là video thứ tư đạt 4 tỷ lượt xem vào 31 tháng 7 năm 2019.
  12. ^ "Baby" là video đầu tiên đạt 500 triệu lượt xem vào 28 tháng 3 năm 2011.[59][60]
  13. ^ "Bad Romance" là video đầu tiên đạt 200 triệu lượt xem vào 9 tháng 5 năm 2010.[63][64]
  14. ^ "Music is My Hot Hot Sex" là video đầu tiên đạt 100 triệu lượt xem vào 11 tháng 3 năm 2008.[75] Người tải lên xóa video đó bốn ngày sau đó, và "Evolution of Dance" lại trở thành video có nhiều lượt xem nhất.[76]
  15. ^ "Evolution of Dance" là video đầu tiên đạt 20 triệu lượt xem vào 5 tháng 6 năm 2006;[75] video đầu tiên đạt 50 triệu lượt xem vào 7 tháng 6 năm 2007.[75] Đây là video duy nhất trong danh sách này đứng thứ nhất trong hai khoảng thời gian khác nhau.
  16. ^ "Pokemon Theme Music Video" là video đầu tiên đạt 10 triệu lượt xem vào 6 tháng 5 năm 2006.[80] Nó bị rút khỏi YouTube vào tháng 6 năm 2007 do lỗi vi phạm bản quyền.[81]
  17. ^ "Phony Photo Booth" trở thành video đầu tiên đạt 5 triệu lượt xem vào 8 tháng 2 năm 2006.[80] Nó được xóa khỏi YouTube vào 18 tháng 2 năm 2006 do lỗi vi phạm bản quyền.
  18. ^ "Ronaldinho: Touch of Gold" trở thành video đầu tiên đạt 500,000 lượt xem vào 3 tháng 11 năm 2005;[80][91] first video to reach 2 million views on December 12, 2005.[80]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “2005: Nike video featuring Ronaldinho becomes first YouTube film to reach one million views”. The Drum.
  2. ^ Spanos, Brittany (13 tháng 10 năm 2015). “The Billion View Club: YouTube's Most Watched Music Videos”. Rolling Stone. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2019.
  3. ^ a b Gruger, William (21 tháng 12 năm 2012). “PSY's 'Gangnam Style' Video Hits 1 Billion Views, Unprecedented Milestone”. Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2012.
  4. ^ Spanos, Brittany (ngày 13 tháng 10 năm 2015). “The Billion View Club: YouTube's 10 Most Watched Videos”. Rolling Stone. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2015.
  5. ^ a b Schneider, Marc (ngày 12 tháng 1 năm 2016). “A Billion Views on YouTube? Once Exclusive Club Is Getting Crowded”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2016.
  6. ^ a b McIntyre, Hugh (ngày 6 tháng 8 năm 2017). “Wiz Khalifa & Charlie Puth's 'See You Again' Has Now Hit Three Billion Views On YouTube”. Forbes. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2017.
  7. ^ McIntyre, Hugh (ngày 25 tháng 11 năm 2017). “Psy's 'Gangnam Style' Finally Reaches 3 Billion Views On YouTube”. Forbes. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2017.
  8. ^ McIntyre, Hugh (ngày 11 tháng 10 năm 2017). “'Despacito' Is The First Video To Reach 4 Billion Views On YouTube”. Forbes. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2017.
  9. ^ Kaufman, Gil (ngày 4 tháng 8 năm 2017). “Crunching the Numbers Behind 'Despacito's Rise to the No. 1 All-Time Spot on YouTube”. Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2017.
  10. ^ “Fastest to 2 billion”. Kworb. ngày 15 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2017.
  11. ^ Most Viewed Videos of All Time • (Over 450M views) - YouTube
  12. ^ a b “Baby Shark Dance #babyshark Most Viewed Video Animal Songs PINKFONG Songs for Children”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  13. ^ Kaufman, Gil (2 tháng 11 năm 2020). “'Baby Shark' Swims Past 'Despacito' to Become Most-Viewed YouTube Video of All-Time”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2020.
  14. ^ a b “Luis Fonsi – Despacito ft. Daddy Yankee”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  15. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên 3billion
  16. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên 4billion
  17. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên 5billion
  18. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên 6billion
  19. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên 7billion
  20. ^ “Johny Johny Yes Papa 👶 THE BEST Song for Children | LooLoo Kids”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  21. ^ “Ed Sheeran – Shape of You [Official Video]”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  22. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên ShapeofYou4
  23. ^ a b “Wiz Khalifa – See You Again ft. Charlie Puth [Official Video] Furious 7 Soundtrack”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  24. ^ a b France, Lisa Respers (11 tháng 7 năm 2017). “'See You Again' takes YouTube top spot”. CNN. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2017.
  25. ^ “Wiz Khalifa, Charlie Puth's 'See You Again' Gets 16,000 YouTube Views Per Hour On Its Path To Two Billion”. 3 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2020.
  26. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên SeeYouAgain3
  27. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên SeeYouAgain4
  28. ^ “Bath Song | CoCoMelon Nursery Rhymes & Kids Songs”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  29. ^ “Phonics Song with TWO Words – ABC Alphabet Songs with Sounds for Children”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  30. ^ “Mark Ronson – Uptown Funk ft. Bruno Mars”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  31. ^ “Учим цвета-Разноцветные яйца на ферме”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  32. ^ a b “PSY – GANGNAM STYLE (강남스타일) M/V”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  33. ^ a b Kosner, Anthony Wing (24 tháng 11 năm 2012). “PSY's Gangnam Style Tops Bieber's Baby To Become Most Viewed YouTube Video Ever”. Forbes. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2013.
  34. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên billboardbillion2
  35. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Gangnam3
  36. ^ “Маша и Медведь (Masha and The Bear) – Маша плюс каша (17 Серия)”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  37. ^ “Wheels on the Bus | CoCoMelon Nursery Rhymes & Kids Songs”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  38. ^ “El Chombo – Dame Tu Cosita feat. Cutty Ranks (Official Video)”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  39. ^ “Maroon 5 – Sugar”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  40. ^ “Crazy Frog – Axel F”. YouTube. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2021.
  41. ^ “Katy Perry – Roar (Official)”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  42. ^ “OneRepublic – Counting Stars”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  43. ^ “Justin Bieber – Sorry (PURPOSE : The Movement)”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  44. ^ “Ed Sheeran – Thinking Out Loud [Official Video]”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  45. ^ “Katy Perry – Dark Horse (Official) ft. Juicy J”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  46. ^ “Alan Walker – Faded”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  47. ^ “Maroon 5 – Girls Like You ft. Cardi B”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  48. ^ “Passenger | Let Her Go (Official Video)”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  49. ^ “Enrique Iglesias – Bailando (Español) ft. Descemer Bueno, Gente De Zona”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  50. ^ “Major Lazer & DJ Snake – Lean On (feat. MØ) (Official Music Video)”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  51. ^ “Ed Sheeran – Perfect (Official Music Video)”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  52. ^ “Shakira – Waka Waka (This Time for Africa) (The Official 2010 FIFA World Cup™ Song)”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  53. ^ “Taylor Swift – Shake It Off”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  54. ^ “J. Balvin, Willy William – Mi Gente (Official Video)”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  55. ^ “Adele – Hello”. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  56. ^ McIntyre, Hugh. “'Despacito' Has Just Become the Most Popular Video of All Time on YouTube”. Forbes. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2017.
  57. ^ “Justin Bieber – Baby ft. Ludacris”. YouTube. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2021.
  58. ^ Kaufman, Gil (16 tháng 7 năm 2010). “Justin Bieber Beats Lady Gaga In YouTube Video Popularity – For Now”. MTV News. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2014.
  59. ^ Kirkpatrick, Marshall (27 tháng 3 năm 2011). “Bieber's 'Baby' Will Hit 500m Views Today; It's Also The Most Hated Video on YouTube (For Now)”. readwrite. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  60. ^ Sciarretto, Amy (28 tháng 3 năm 2011). “Justin Bieber's 'Baby' Viewed 500 Million Times On YouTube”. Pop Crush. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  61. ^ “Lady Gaga – Bad Romance”. YouTube. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2021.
  62. ^ O'Neill, Megan (14 tháng 4 năm 2010). “Lady Gaga's Bad Romance Is Officially The Most Viewed Video On YouTube Ever”. SocialTimes. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  63. ^ Wei, Will (7 tháng 5 năm 2010). “Lady Gaga's 'Bad Romance' Will Be YouTube's First Video To Hit 200 Million Views”. Business Insider. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  64. ^ “Bad Romance By Lady Gaga Becomes First YouTube Video To Hit 200 Million Views”. Pulse 2.0. 9 tháng 5 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  65. ^ “Charlie bit my finger – again !”. YouTube. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2021.
  66. ^ Chú thích:
    • Hutcheon, Stephen (4 tháng 11 năm 2009). “Once bitten, now watched by millions on YouTube”. The Sydney Morning Herald. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
    • “History of the Most Viewed YouTube Video”. Google Sheets and Wayback Machine. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  67. ^ a b c “Evolution of Dance”. YouTube. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2021.
  68. ^ Chú thích:
    • “History of the Most Viewed YouTube Video”. Google Sheets and Wayback Machine. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
    • “Most Viewed Chart on YouTube on the Wayback Machine on July 8, 2009, 22:33:57 (UTC)”. Wayback Machine. 8 tháng 7 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  69. ^ “Avril Lavigne – Girlfriend”. YouTube. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  70. ^ “Avril Lavigne – Girlfriend”. YouTube. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2017.
  71. ^ Chú thích:
    • Gannes, Liz (18 tháng 7 năm 2008). “Avril Ascends, But YouTube Withholds Her Crown”. Gigaom. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
    • Van Buskirk, Eliot (18 tháng 7 năm 2008). “Avril Lavigne Expects $2 Million From YouTube Despite Gamed Play Count”. Wired. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
    • “History of the Most Viewed YouTube Video”. Google Sheets and Wayback Machine. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  72. ^ Chú thích:
    • “History of the Most Viewed YouTube Video”. Google Sheets and Wayback Machine. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
    • Hutcheon, Stephen (17 tháng 3 năm 2008). “Mystery over zapped Hot Hot Sex YouTube clip”. The Sydney Morning Herald. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  73. ^ “CANSEI DE SER SEXY Music is My Hot Hot Sex”. YouTube. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  74. ^ Chú thích:
    • “History of the Most Viewed YouTube Video”. Google Sheets and Wayback Machine. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
    • Dover, Danny (8 tháng 3 năm 2008). “YouTube's New #1 Video: The Unprecedented Rise and the Mobocracy that Led to its Fall”. Moz. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
    • Hutcheon, Stephen (23 tháng 3 năm 2008). “YouTube yobs chase top video off the charts”. The Sydney Morning Herald. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  75. ^ a b c “History of the Most Viewed YouTube Video”. Google Sheets and Wayback Machine. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  76. ^ Hutcheon, Stephen (17 tháng 3 năm 2008). “Mystery over zapped Hot Hot Sex YouTube clip”. The Sydney Morning Herald. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  77. ^ Chú thích:
    • “Judson Laipply (featured in the #1 most viewed video on youtube)”. The Speakers Group. 30 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
    • “History of the Most Viewed YouTube Video”. Google Sheets and Wayback Machine. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  78. ^ “Pokemon Theme Music Video”. YouTube. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  79. ^ Chú thích:
    • “History of the Most Viewed YouTube Video”. Google Sheets and Wayback Machine. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
    • “Most Viewed Chart on YouTube on the Wayback Machine on March 14, 2006, 12:07:24 (UTC)”. Wayback Machine. 14 tháng 3 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
    • Heffernan, Virginia (4 tháng 4 năm 2006). “Comic shorts, home on the Web”. The New York Times. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  80. ^ a b c d “History of the Most Viewed YouTube Video”. Google Sheets and Wayback Machine. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  81. ^ “YouTube takes down popular Smosh Pokemon video”. The Utube Blog. 14 tháng 6 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  82. ^ “Myspace – THE MOVIE!”. YouTube. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  83. ^ “myspace: the movie”. YouTube. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2018.
  84. ^ Chú thích:
    • “History of the Most Viewed YouTube Video”. Google Sheets and Wayback Machine. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
    • “Most Viewed Chart on YouTube on the Wayback Machine on February 18, 2006, 21:43:25 (UTC)”. Wayback Machine. 18 tháng 2 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  85. ^ “Jay Leno Phony Photo Booth”. YouTube. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
  86. ^ Chú thích:
    • “History of the Most Viewed YouTube Video”. Google Sheets and Wayback Machine. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
    • “Jay Leno Phony Photo Booth on YouTube on the Wayback Machine on February 2, 2006, 10:43:42 (UTC)”. Wayback Machine. 1 tháng 12 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
  87. ^ “SNL – The Chronic of Narnia Rap”. YouTube. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
  88. ^ Chú thích:
    • “History of the Most Viewed YouTube Video”. Google Sheets and Wayback Machine. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
    • “SNL – The Chronic of Narnia Rap on YouTube on the Wayback Machine on January 9, 2006, 01:30:48 (UTC)”. Wayback Machine. 18 tháng 12 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
  89. ^ “Ronaldinho: Touch of Gold”. YouTube. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  90. ^ Chú thích:
    • “History of the Most Viewed YouTube Video”. Google Sheets and Wayback Machine. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
    • “Ronaldinho: Touch of Gold on YouTube on the Wayback Machine on November 2, 2005, 10:21:32 (UTC)”. Wayback Machine. 21 tháng 10 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  91. ^ “Celebrating ten years since Ronaldinho broke the Internet with the first YouTube video to reach 1 million views”. Nike Soccer Twitter. 24 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  92. ^ “I/O Brush”. YouTube. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  93. ^ Chú thích:
    • “History of the Most Viewed YouTube Video”. Google Sheets and Wayback Machine. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
    • “I/O Brush on YouTube on the Wayback Machine on October 29, 2005, 5:03:49 (UTC)”. Wayback Machine. 5 tháng 10 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2005. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  94. ^ “Me at the zoo”. YouTube. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2021.
  95. ^ “YouTube's 10th Anniversary: Watch the Top 10 Most Viewed Videos to Date”. The Hollywood Reporter. 14 tháng 2 năm 2015.

Bởi Matthew Rudd | Ngày 31 tháng 1 năm 2022

    Chúng tôi đếm ngược 20 nhạc cụ pop hàng đầu của chúng tôi & NBSP;

    100 bản nhạc chế hàng đầu 2012 năm 2022

    Trong khi sức mạnh giọng hát, sự hiện diện trên sân khấu và sự lôi cuốn của một người đứng đầu tốt luôn luôn tiện dụng khi tạo ra sự nghiệp trong Pop, có đủ ví dụ trong thập niên 80 để chứng minh rằng những người mua kỷ lục rất vui khi được tận hưởng cơ hội đánh giá cao tài liệu mà không bị phân tâm.

    Các hành động nhà, nhạc jazz và cổ điển thường dựa hoàn toàn vào các nhạc sĩ thủ công, trong khi các chủ đề truyền hình và điểm phim không ca sĩ cũng thu hút được rất nhiều sự chú ý.

    Vì vậy, ở đây, 20 nhạc cụ pop hàng đầu của chúng tôi, tất cả đều cần phải lọt vào top 40 để đủ điều kiện - và nơi có các mẫu hoặc sự bùng nổ ngẫu nhiên, chúng tôi đã bao gồm chúng nếu chúng tôi có thể tưởng tượng Smash Hits không cần xuất bản một bản nhạc trữ tình

    20 nhạc cụ pop hàng đầu thập niên 80

    20 - Jazz Carnival: Azymuth

    Một lát của funk nhạc jazz Brazil không ngừng nghỉ, ngây ngất, hoàn chỉnh với các hiệu ứng âm thanh đầu thập niên 80 được cung cấp vào top 20 trong tuần mở đầu năm 1980, di sản của Rio Trio được thể hiện tốt bằng nhịp điệu samba tại nơi làm việc ở đây và nhịp điệu và chính vẫn còn Không đổi trong khi một bản solo điện tử ngẫu hứng khác nhau tiếp theo từ tiếp theo. Bên cạnh thành công của nó, họ đã chuyển đến Hoa Kỳ sau đó để quảng bá thương hiệu MPB (Music Musica nổi tiếng Brasileira) của họ, phát hành một số album mà không tìm thấy thành công thương mại tương tự.

    19 - Riders in the Sky: The Shadows

    Bóng tối đã quyết tâm làm bất cứ điều gì họ muốn trong sự nghiệp sau này, biết rằng đó là luôn luôn có đủ sự quan tâm. Trong album hiện đại của họ, String of Hits, thành công cuối cùng của họ trong bảng xếp hạng Singles là phiên bản do Fender của The Classic Country Storyteller mà họ không thể tạo ra nhiều bóng hơn nếu họ thử.String Of Hits, their last success in the singles chart was a Fender-led version of the classic country storyteller that they couldn’t have made more Shadows if they’d tried.

    Album đã thực hiện số 1 và đĩa đơn đã đạt đến số 12 vào năm 1980, sau 10 thành công hàng đầu vào cuối thập niên 70 với Don Don Cry For Me Argentina và Cavatina (còn được biết đến với chủ đề từ The Deer Hunter).Don’t Cry For Me Argentina and Cavatina (otherwise known as the theme from The Deer Hunter).

    18 - Ngôi nhà hoang dã thực sự: Raúl Orellana

    Stomper điên cuồng và rất thời gian, với bản nhạc piano-thiết kế hợp âm và một số ít các bài phát âm thư viện được lấy mẫu, cộng với tài liệu tham khảo tiêu đề từ Iggy Pop.

    Razón de ser của Barcelona DJ và nhà sản xuất Orellana đã đưa guitar Tây Ban Nha tỉ mỉ vào hồ sơ của anh ấy, và nó sớm trở thành yếu tố thống trị trong những gì, về sự phản ánh, một ca khúc mâu thuẫn; Ngôi nhà rất cơ bản, hiệu quả đòi hỏi nhạc sĩ đáng chú ý. Được hỗ trợ bởi số lượng ngày càng tăng của các chương trình nhạc khiêu vũ trên đài phát thanh, nó đã lọt vào vị trí top 30 vào năm 1989.razón de ser of Barcelona DJ and producer Orellana was putting meticulous Spanish guitar into his records, and it soon becomes the dominant factor in what is, on reflection, a contradictory track; very basic, effective house that requires noticeable musicianship. Aided by the growing number of dance music shows on radio, it reached a Top 30 position in 1989.

    Kiểm tra 20 hợp tác nhạc pop hàng đầu của chúng tôi

    17 - Cacharpaya: Incantation

    Một bộ sưu tập các nhạc sĩ nhân viên tại công ty múa ba lê cổ điển Rambert đã tình nguyện học các nhạc cụ truyền thống để nhạc phim chính xác một sản xuất mới dựa trên sự áp bức chính trị, sử dụng âm nhạc của một nhóm dân gian Chile.

    Chương trình thành công đến nỗi nhóm đã được cung cấp một thỏa thuận của bữa tiệc của người ăn xin, chọn tên của họ là một phần mở rộng của 'Inca' và đường đua dẫn đầu Panpipe với sự gia tăng của nó trong thời gian cuối cùng đã nâng cao lông mày của Chartwatcher .12 Năm 1982.

    16 - Chi Mai: Ennio Morricone

    Viết một thập kỷ trước và được sử dụng trong vô số bộ phim và quảng cáo, Chi Mai (tiếng Ý cho ‘bất cứ ai) đã bắt gặp một cách thuyết phục khi nó được chọn làm chủ đề chính cho BBC2, Philip Madoc đang giới thiệu về cuộc sống và thời gian của David Lloyd George vào năm 1981.Chi Mai (Italian for ‘whoever’) caught on conclusively when it was chosen as the main theme to BBC2’s Philip Madoc-headlining The Life And Times Of David Lloyd George in 1981.

    Haunting và austated, đó là một trong những bất ngờ lớn nhất của thập kỷ khi nó kết thúc ở vị trí số 2 trong một hai tuần, chỉ bị đình trệ bởi thành công của Bucks Fizz, tại Eurovision. Chân & Co đã đội những chiếc mũ lông rộng vành và váy đỏ với viền dài cho đầu trang.the decade’s biggest surprises when it ended up at No.2 for a fortnight, stalled only by Bucks Fizz’s success at Eurovision. Legs & Co donned wide-brimmed feathery hats and red dresses with long hems for Top Of The Pops.

    15 - et les oiseaux Chantaient (và những con chim đang hát): những người ngọt ngào

    Lấy một chuỗi hợp âm tròn, hình tròn, được chơi chậm trên piano điện, và sau đó dán keo trên những con chim mùa xuân chung với cuckoo hogging giai đoạn kỳ lạ, và bạn có một trong những đĩa đơn kỳ lạ hơn của thập kỷ.

    Trẻ sức của nhạc sĩ người Thụy Sĩ Alain Morisod, nó bắt đầu với tư cách là Le Lac de Côme, số 1 ở Canada, trước khi anh trai của Morisod, đề nghị tước nó xuống chỉ một bàn phím cơ bản và thêm hợp xướng Dawn được báo trước. Nó đạt đến số 4 vào năm 1980.it started out as Le Lac De Côme, a No.1 in Canada, before Morisod’s brother suggested stripping it down to just a basic keyboard underscore and adding the heralded dawn chorus. It reached No.4 in 1980.

    Đọc thêm: 20 bản phát hành hàng đầu

    14 - Chủ đề Phó Miami: Jan Hammer

    Biểu đồ rất dễ tiếp thu - có lẽ đôi khi hơi dễ tiếp nhận - với nhạc chủ đề từ các chương trình truyền hình trong thập niên 80, nhưng một ngoại lệ tốt là phần mở đầu của Supercool Detective Series, được cô đọng xuống chỉ chưa đầy một phút khi đi kèm với Mở hình ảnh của hồng hạc, lướt gió, bikini và limousine.

    Đoạn riff chính được tổng hợp là một chút có thể hát, mặc dù tiếng vang, lên, crescendo bằng ngón chân là điểm nổi bật. Nó đứng đầu bảng xếp hạng ở Mỹ và đạt được số 5 đáng kính ở Anh.

    13 - Toccata: bầu trời

    Toccata và fugue in d minor, để dán nhãn chính xác, là một tác phẩm của Johann Sebastian Bach và, nhờ một sự sắp xếp rock prog liên quan đến những cái tên lừng lẫy như hoa Herbie, bassist cho tất cả mọi người, và guitar cổ điển John Williams, nó đã tìm thấy .5 trong các bảng xếp hạng năm 1980. to label it correctly, was a Johann Sebastian Bach composition and, thanks to a prog rock arrangement involving names as illustrious as Herbie Flowers, bassist to all, and classical guitarist John Williams, it found its way to No.5 in the charts in 1980.

    Sky được hình thành đặc biệt để tạo ra các phiên bản đương đại của các tác phẩm cổ điển nhưng đĩa đơn này chỉ đơn thuần là một sự chuyển hướng ngắn gọn để được hoan nghênh thương mại, vì chúng hầu như không bận tâm với bảng xếp hạng sau đó, thích tập trung vào các album.

    Đọc thêm: Top 20 Album Reunion

    12 - The Scratch: Bề mặt tiếng ồn

    Nhiều sự tốt lành nhạc jazz. Surface Noise là một bút danh cho nhà sản xuất người Anh Chris Palmer, người có một studio và một nhãn hiệu tên là Groove Productions. Nó tuân theo một công thức tiêu chuẩn cho các bản nhạc giới hạn Jazz, nhưng bassline của nó đặc biệt đầy thịt, có thể nghe được một cách ấn tượng và chiếm ưu thế ngay cả khi dòng giai điệu tổng hợp ban đầu được thay thế bằng một solo saxed rõ ràng.

    Chân & Co đã bắt đầu, xung quanh, phía sau và dưới một chiếc ghế sofa khổng lồ cho cách giải thích Pops của họ vào năm 1980 khi đường đua đạt đến đỉnh điểm ở số 26.Top Of The Pops interpretation in 1980 as the track peaked at No.26.

    11 - Mùa hè điên rồ: Kool & The Gang

    Một mặt hàng chủ lực của các khu vực thư giãn trong những ám ảnh nhạc jazz khi những người bảo trợ rãnh thành một nhịp đập giữa nhịp độ khói và quãng tám đang nhảy từ Moog. Nó phát triển với sự bùng nổ lấy mẫu, và cho đến nay đã bị tước bỏ các bộ phận hơn 100 lần, đáng chú ý nhất là vào mùa hè của DJ Jazzy Jeff và The Fresh Prince, người gật đầu với tựa đề trong câu cuối cùng của họ.Summertime by DJ Jazzy Jeff And The Fresh Prince, who nodded to the title in their final verse.

    Xuất thân từ Album của Kool & The Gang 1974 Light of Worlds, bài hát đủ điều kiện ở đây với tư cách là một mặt A của Jones vs Jones và là một cặp họ đã lọt vào top 20 của Vương quốc Anh vào năm 1981.Light Of Worlds, the song qualifies here as the double A-side of Jones Vs Jones and as a pair they made the UK Top 20 in 1981.

    10 - Bữa tiệc vườn: Mezzoforte

    Một cuộc hôn nhân mê hoặc xung quanh với ý tưởng hợp nhất, với những huyền thoại nhạc jazz tiếng Iceland tương phản với sax chính với một solo flugelhorn to lớn để tạo ra một mứt tuyệt vời, trên một rãnh vui vẻ không bao giờ gây ra .

    Phần đồng thau cung cấp kỷ luật trong một mảnh phụ thuộc vào niềm vui và tự do của nó, và bản nhạc đã chịu đựng rất lâu sau khi đạt 20 đỉnh cao nhất vào năm 1983, nhờ quảng cáo và vỏ bọc chậm hơn của Herb Alpert.fun and freedom, and the track endured long after its Top 20 peak in 1983, thanks to commercials and a slower cover by Herb Alpert.

    9 - & nbsp; The Jack That House Build: Jack ’n Chill Chill

    Nhà sản xuất thương mại Ed Stratton đã sử dụng thời gian rảnh rỗi của mình tại đài phát thanh nơi anh làm việc để tạo ra hồ sơ nhà riêng của mình, chồng chất các mẫu khác nhau mà anh đã lưu trữ và sử dụng câu cảm thán mở trên cơ thể của bạn, cũng như một vài 'yeah' từ Evelyn 'Champagne' Vua là liên lạc cá nhân của bạn.Jack Your Body, as well as a few ‘yeah’ cutaways from Evelyn ‘Champagne’ King’s Your Personal Touch.

    Mỗi thanh của một nhịp điệu ngoan cường đều có một cái gì đó khác nhau trên đó, làm cho nó trở thành một ca khúc thực sự thú vị. Nó đã thất bại ban đầu vào phiên bản đầu tiên vào năm 1987, nhưng sự bùng nổ của ngôi nhà đầu năm 1988 cuối cùng đã đưa nó vào top 10.

    Đọc thêm: 20 lượt truy cập ngôi nhà hàng đầu

    8 - Được nối với kinh điển, Dàn nhạc Hoàng gia Philharmonic & NBSP;

    Cổ điển Disco Disco không phải là một thể loại mà nhiều người đã xem xét trước thí nghiệm nuôi dưỡng lông mày của nhạc trưởng ELO Louis Clark, có Dàn nhạc Hoàng gia Philharmonic thực hiện các tác phẩm kinh điển thiết yếu cho quần chúng-Tchaikovsky, Mozart, Handel, v.v. Những ngón tay của Fiddlers trên lửa sau khi thể hiện nhanh nhất trong năm 1812 trong sự tồn tại.1812 Overture in existence.

    Highbrow Souls, hấp dẫn để xem bên trong một cửa hàng HMV trông như thế nào, mua đủ để bán chạy hơn Duran Duran, Liên đoàn Human và Spandau ballet và đưa nó lên vị trí số 2 vào năm 1981.

    7 - Peter Gunn: Nghệ thuật tiếng ồn có Duane Eddy

    Tay guitar huyền thoại ở New York đã đánh số 6 vào năm 1959 với chủ đề GROWLY (được viết bởi Henry Mancini) cho loạt mắt tư nhân Mỹ, và 27 năm sau được mời làm bụi bespoke Gretsch 6120 của mình và làm lại nó trong cùng một cách thẳng thắn Cách, ướp trong các nhịp đập thương hiệu của Art of Noise, kiềm chế chuỗi và cách phát âm chữ ký 'Tum Tum Tum'.

    Được hỗ trợ bởi một video xuất sắc cho phép Rik Mayall, trong Trench Coat và Trilby, để đi vòng quanh với tư cách là Tec Tec, nó đạt số 8 ở Anh.

    6 - Chariots of Fire: Vangelis

    Sự hoàn hảo xung quanh, khi nghệ sĩ piano Hy Lạp đã nghĩ ra một dòng giai điệu thú vị nhất như một chủ đề điện tử hoàn hảo và một nguyên mẫu cho các bản nhạc để theo dõi, hiện đại hóa một bộ phim thời kỳ.and an archetype for soundtracks to follow, modernising a period film.

    Đó là một phần cập nhật của điện tử ngang, trái ngược với một bộ phim những năm 1920 được thêm vào bí ẩn của nó, và việc sử dụng nó kể từ khi các sự kiện thể thao lớn đã mang lại tính xác thực suốt đời, lên đến đỉnh Lễ khai mạc Thế vận hội 2012 tại London. Nó đã thực hiện số 12 vào năm 1981.It made No.12 in 1981.

    Đọc thêm: Bài hát hàng đầu năm 1981

    5 - Axel F: Harold Faltermeyer

    Bốn nhà tổng hợp được yêu cầu thực hiện chủ đề thập niên 80 chắc chắn cho cảnh sát Beverly Hills, với bộ phim buôn bán gầm rú tại phòng vé giúp nó trở thành một hit khổng lồ ở khắp mọi nơi được phát hành.Beverly Hills Cop, with the film’s roaring trade at the box office helping it become an enormous hit everywhere it was released.

    Ba cái móc đặc biệt đều hòa quyện với nhau, có một phần giữa hiệu ứng Marimba tuyệt vời và công việc Moog tối cao của Wiz Bàn phím Đức cho một bassline cực kỳ quan trọng. Vì vậy, tốt, ngay cả ếch điên cũng không thể phá hỏng nó. Nó đã đến số 2 và ở đó ba tuần sau chị gái Sledge.Crazy Frog couldn’t ruin it. It got to No.2 and stayed there for three weeks behind Sister Sledge.

    4 - Rockit: Herbie Hancock

    Nghệ sĩ dương cầm nhạc jazz Herbie Hancock, đã chùn bước vào đầu những năm 80, vì vậy người quản lý 25 tuổi của ông đã tranh thủ tài liệu sản xuất ngầm để sử dụng liên lạc của họ để làm cho anh ta một kỷ lục có liên quan đến thời đại. Máy trộn bàn xoay D.ST đã cung cấp các vết xước sau khi Hancock rất ấn tượng với công việc của mình trong một hộp đêm ở New York, và chính Hancock đã thêm giai điệu synth đặc biệt.career was faltering in the early 80s, so his 25-year-old manager enlisted underground producers Material to use their contacts to make him a record relevant to the times. Turntable mixer D.ST provided the scratches after Hancock was impressed with his work in a New York nightclub, and Hancock himself added the distinctive synth melody.

    Kết quả là bản hit toàn cầu đầu tiên có tính năng gãi, được yêu thích bởi những người đột phá và người hâm mộ điện tử, và ở Anh, nó đạt vị trí số 8.

    3 - & NBSP; Bang Thái Bình Dương: 808 Bang

    Một bài quốc ca Haçienda và một chuẩn mực cho bối cảnh câu lạc bộ đang phát triển của Manchester; Thật vậy, một trường phái tư tưởng duy trì phần nhạc cụ pop Acid House Acid Pop dựa trên Sax thực sự đã tạo ra Milieu khiêu vũ sẽ xác định phần lớn những năm đầu thập niên 1990, mặc dù nó thực sự rất dễ nhảy.

    Được ghi nhận cho một hành động của Manchester được đặt theo tên của máy trống của họ, bao gồm chủ sở hữu của một nhãn hiệu độc lập mát mẻ và hai khách hàng của cửa hàng thu âm của anh ấy, hành trình năm 1989 của nó tiếp tục đến Ibiza, sau đó là danh sách phát radio, và cuối cùng, top 10.Top 10.

    2 - & nbsp; sự trở lại của Los Palmas 7: Madness

    "Phục vụ nam!" Đó không phải là một lời bài hát, phải không? Hai phút rưỡi của Mike Barson tự nhiên ghép một số hợp âm với nhau tại piano, được ghi lại tại chỗ với tư cách là ban nhạc, người đã đặt rất nhiều về các nhạc cụ, nhận ra một cách muộn màng trong album sắp phát hành năm 1980.Absolutely.

    Mark Bedford và Daniel Woodgate đã nhận được các khoản tín dụng sáng tác để thêm bass và trống bằng tai, và nó đã tạo ra số 7 vào năm 1981. Ngôi nhà của chúng tôi sau đó biến một chút leng keng nhanh nhẹn này thành một con cáo đang vui vẻ.No.7 in 1981. The musical Our House later turned this bit of brisk tinkling fluff into a beguiling foxtrot.

    Đọc thêm: Bài hát điên rồ hàng đầu

    1 - Chủ đề của Crockett từ: Jan Hammer

    Ban đầu được nghe từ năm 1984 trên tập phim Miami Phó CALDERONE, Return Part 1 - Danh sách đình đám, Trung sĩ Thám tử không phải của Don Johnson, SOCKST, chỉ mới được đưa vào album nhạc nền thứ hai của chương trình ba năm sau đó.Miami Vice episode Calderone’s Return Part 1 – The Hit List, namechecking Don Johnson’s sockless detective sergeant, it was only when included on the show’s second soundtrack album three years later that it caught on.

    Một mảnh điện tử êm dịu, mịn màng và đơn giản là nó có một con giun tai ngay lập tức cho một giai điệu chính, và một sự thay đổi của chìa khóa cho phép các hòa âm tiếp quản và bộ gõ phát triển, với một bản độc tấu guitar Strident sau đó chơi móc chính.it had an instant earworm for a main melody, and a change of key that allowed the harmonies to take over and the percussion to grow, with a strident guitar solo then playing the main hook.

    Điều đặc biệt hài lòng là bài hát trở lại sự khởi đầu xung quanh của nó trước khi phai. Rất hữu ích cho thanh thiếu niên tự giảng dạy trên Casio Synths, nó đã leo lên nhẹ nhàng lúc đầu trước khi đạt đến số 2 vào mùa thu năm 1987, chỉ được bán chạy hơn bởi Bee Gees.

    Sau đó được bao phủ bởi mọi ban nhạc nhạc cụ tồn tại, nó cũng gần như lọt vào top 40 một lần nữa vào năm 1991, nhờ sự bao gồm nổi bật (và phản ánh, không được khuyến khích) vào một chiến dịch quảng cáo dài cho NatWest, ban đầu bị chế giễu để kể chuyện về một câu chuyện cười Thực tập sinh điền vào máy rút tiền và cố gắng kéo cô gái xinh đẹp trong văn phòng phát triển kinh doanh.

    Nó không phải là tất cả công việc, công việc, công việcwork, work…

    Kiểm tra 20 album đoàn tụ hàng đầu của chúng tôi tại đây