100 bài hát disco hàng đầu mọi thời đại năm 2022

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Show

Believe
100 bài hát disco hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Album phòng thu của Cher
Phát hành22 tháng 10 năm 1998
Thu âmTháng 6 – Tháng 8, 1998
Thời lượngbdtshfhhx43:59
Hãng đĩa

  • Wea
  • Warner Bros.

Sản xuất

  • Mark Taylor
  • Brian Rawling
  • Junior Vasquez
  • Todd Terry
  • Rob Dickins (điều hành sản xuất)

Thứ tự album của Cher
It's a Man's World
(1995)
Believe
(1998)
If I Could Turn Back Time: Cher's Greatest Hits
(1999)
Đĩa đơn từ Believe

  1. "Believe"
    Phát hành: 19 tháng 10 năm 1998
  2. "Strong Enough"
    Phát hành: 19 tháng 2 năm 1999
  3. "All or Nothing"
    Phát hành: 7 tháng 6 năm 1999
  4. "Dov'è l'amore"
    Phát hành: 25 tháng 10 năm 1999

Believe là album phòng thu thứ 22 của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Cher, phát hành ngày 22 tháng 10 năm 1998 bởi Wea và được phân phối tại Bắc Mỹ bởi Warner Bros.. Sau thất bại của album phòng thu trước, It's a Man's World (1995), hãng đĩa của cô đã khuyến khích nữ ca sĩ trở lại phòng thu để theo đuổi một định hướng hướng âm nhạc mới. Quá trinh ghi âm cho album đã được diễn ra vào mùa hè năm 1998 tại Dreamhouse Studios ở London và Soundworks Studios ở New York dưới sự chỉ đạo của hai nhà sản xuất Anh là Mark Taylor và Brian Rawling. Album là một lời tri ân của Cher đến người chồng cũ của cô là Sonny Bono, người đã qua đời vào đầu năm đó.

Believe đánh dấu sự thay đổi hoàn toàn về mặt âm nhạc so với những tác phẩm trước của cô, bao gồm việc kết hợp giữa dance-pop và Eurodance, bên cạnh nhiều thể loại nhạc khác nhau như techno, house, disco và Latin với nội dung lời bài hát đề cập đến những chủ đề như tự do, Chủ nghĩa cá nhân và những mối quan hệ tình cảm. Nó cũng áp dụng nhiều kỹ thuật công nghệ ghi âm mới của thời đại, như việc sử dụng AutoTune, và sau này đã trở nên phổ biến với tên gọi " hiệu ứng Cher ".[1] Sau khi phát hành, album nhận được những phản ứng trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc, những người đánh giá cao màn trình diễn thanh nhạc của Cher, trong khi chỉ thích quá trình sản xuất tổng thể của nó. Believe đã nhận được ba đề cử giải Grammy tại lễ trao giải thường niên lần thứ 42, bao gồm Album Pop xuất sắc nhất, Thu âm của năm và Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất cho bài hát chủ đề, và chiến thắng giải sau cùng.

Về mặt thương mại, Believe đã gặt hái nhiều thành công vượt trội, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Áo, Canada, Đan Mạch, Đức, New Zealand và Bồ Đào Nha, và lọt vào top 5 ở Bỉ, Phần Lan, Pháp, Hungary, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, cũng như lọt vào top 10 ở hầu hết những quốc gia khác. Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Billboard 200 và được chứng nhận bốn đĩa Bạch kim từ Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Mỹ (RIAA), công nhận bốn triệu bản đã được tiêu thụ tại đây. Đây được xem là album thành công nhất trong sự nghiệp âm nhạc của Cher, với doanh số tiêu thụ trên toàn cầu được ước tính là 10 triệu bản.[2]

Bốn đĩa đơn được phát hành từ album. Đĩa đơn đầu tiên, "Believe", đã trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại với 10 triệu bản và đứng đầu các bảng xếp hạng ở 23 quốc gia.[3] "Strong Enough" được phát hành như là đĩa đơn thứ hai từ album, và lọt vào top 5 ở nhiều thị trường như Áo, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh. Hai đĩa đơn cuối cùng, "All or Nothing" và "Dov'è l'amore" chỉ gặt hái những thành công khiêm tốn trên các bảng xếp hạng. Để quảng bá cho Believe, Cher thực hiện chuyến lưu diễn thứ sáu trong sự nghiệp của cô với tên gọi Do You Believe? Tour đã trở thành một trong những chuyến lưu diễn đạt doanh thu cao nhất của một nghệ sĩ nữ lúc bấy giờ.

Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

Believe – Bản tiêu chuẩn
STTTựa đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Believe"

  • Brian Higgins
  • Stuart McLennen
  • Paul Barry
  • Steven Torch
  • Matthew Gray
  • Timothy Powell

  • Mark Taylor
  • Brian Rawling

3:59
2."The Power"

  • Tommy Simms
  • Judson Spence

  • Junior Vasquez

3:56
3."Runaway"

  • Taylor
  • Barry

  • Taylor
  • Rawling

4:46
4."All or Nothing"

  • Taylor
  • Barry

  • Taylor
  • Rawling

3:57
5."Strong Enough"

  • Taylor
  • Barry

  • Taylor
  • Rawling

3:44
6."Dov'è l'amore"

  • Taylor
  • Barry

  • Taylor
  • Rawling

4:18
7."Takin' Back My Heart"

  • Diane Warren

  • Taylor
  • Rawling

4:32
8."Taxi Taxi"

  • Todd Terry
  • Mark Jordan

  • Terry

5:04
9."Love Is the Groove"

  • Betsy Cook
  • Bruce Woolley

  • Terry

4:31
10."We All Sleep Alone" (Todd Terry Remix)

  • Desmond Child
  • Jon Bon Jovi
  • Richie Sambora

  • Terry

5:10
Tổng thời lượng:43:59
Believe – Bản giới hạn tại Nhật/Úc
STTTựa đềSáng tácSản xuấtThời lượng
11."Believe" (Club 69 Future Full Mix)

  • Higgins
  • McLennen
  • Barry
  • Torch
  • Gray
  • Powell

9:20
12."Believe" (Xenomania Mix)

  • Higgins
  • McLennen
  • Barry
  • Torch
  • Gray
  • Powell

4:20
Tổng thời lượng:57:39
Chú thích
  • "Believe" bao gồm những đoạn nhạc mẫu từ "Prologue" và "Epilogue" trình diễn bởi Electric Light Orchestra từ album thứ hai của họ Time.

Xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Frere-Jones, Sasha (ngày 9 tháng 6 năm 2008). “The Gerbil's Revenge”. The New Yorker. Condé Nast. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2012. In the manual accompanying Auto-Tune’s fifth-release version, the zero speed setting is described as 'the Cher Effect.'
  2. ^ a b “Cher Says 'Farewell' With 50-City Tour”. Billboard. ngày 1 tháng 5 năm 2002. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2016.
  3. ^ Alicia Diaz Dennis (ngày 11 tháng 12 năm 2008). “Fashion Influential #63: Cher”. Zimbio. Livingly Media. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2015.
  4. ^ "Australiancharts.com – Cher – Believe". Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  5. ^ "Austriancharts.at – Cher – Believe" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  6. ^ "Ultratop.be – Cher – Believe" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  7. ^ "Ultratop.be – Cher – Believe" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  8. ^ “RPM Top 100 CDs”. RPM. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  9. ^ "Cher Chart History (Canadian Albums)". Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  10. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  11. ^ "Dutchcharts.nl – Cher – Believe" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  12. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  13. ^ "Cher: Believe" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  14. ^ "Lescharts.com – Cher – Believe". Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  15. ^ “Cher - Offizielle Deutsche Charts” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  16. ^ "Album Top 40 slágerlista – 1999. 18. hét" (bằng tiếng Hungaria). MAHASZ. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  17. ^ a b “Gli album più venduti del 1999”. Hit Parade Italia. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  18. ^ シェールのアルバム売り上げランキング (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  19. ^ "Charts.nz – Cher – Believe". Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  20. ^ "Norwegiancharts.com – Cher – Believe". Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  21. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  22. ^ 14 tháng 3 năm 1999/40/ "Official Scottish Albums Chart Top 100". Official Charts Company. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  23. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  24. ^ "Swedishcharts.com – Cher – Believe". Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  25. ^ "Swisscharts.com – Cher – Believe". Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  26. ^ "Cher | Artist | Official Charts". UK Albums Chart. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  27. ^ "Cher Chart History (Billboard 200)". Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  28. ^ “Cher Chart History”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2017.
  29. ^ “Jahreshitparade Alben 1998” (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  30. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2016.
  31. ^ “Topp 40 Album Julen 1998” (bằng tiếng Na Uy). VG-lista. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  32. ^ “End of Year Album Chart Top 100 - 1998”. Official Charts Company. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  33. ^ “ARIA Charts - End Of Year Charts - Top 100 Albums 1999”. ARIA. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  34. ^ “Jahreshitparade Alben 1999” (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  35. ^ “Jaaroverzichten 1999” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  36. ^ “Rapports annueles 1999” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  37. ^ “Top Albums/CDs - Volume 70, No. 8, ngày 13 tháng 12 năm 1999”. RPM. ngày 13 tháng 12 năm 1999. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  38. ^ “Chart of the Year 1999”. Mogens Nielsen. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  39. ^ “Jaaroverzichten - Album 1999” (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  40. ^ a b “The Year in Music: 1999” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2015.
  41. ^ “Classement Albums - année 1999” (bằng tiếng Pháp). SNEP. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  42. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  43. ^ “Top Selling Albums of 1999”. RIANZ. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  44. ^ “Topp 40 Album Vinter 1999” (bằng tiếng Na Uy). VG-lista. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  45. ^ “Swiss Year-end Charts 1999”. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  46. ^ “End of Year Album Chart Top 100 - 1999”. Official Charts Company. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  47. ^ “Myydyimmät ulkomaiset albumit vuonna 2000” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  48. ^ “Best-selling Albums”. Austriancharts.at (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2010.
  49. ^ “Discos de Oro y Platino” (bằng tiếng Tây Ban Nha). CAPIF. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2015.
  50. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2000 Albums”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  51. ^ “Austrian album certifications – Cher – Believe” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Nhập Cher vào ô Interpret (Tìm kiếm). Nhập Believe vào ô Titel (Tựa đề). Chọn album trong khung Format (Định dạng). Nhấn Suchen (Tìm)
  52. ^ “Ultratop − Goud en Platina – 1999”. Ultratop & Hung Medien / hitparade.ch.
  53. ^ “Canada album certifications – Cher – Believe”. Music Canada.
  54. ^ a b “Finland album certifications – Cher – Believe” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  55. ^ “France album certifications – Cher – Believe” (bằng tiếng Pháp). Syndicat national de l'édition phonographique.
  56. ^ “Les Albums Platine:” (bằng tiếng Pháp). Infodisc.fr. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
  57. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Cher; 'Believe')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
  58. ^ “Japan album certifications – シェール – ビリーヴ” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Nhật Bản. Chọn 1999年7月 trong menu thả xuống
  59. ^ “Certificaciones – Cher” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas.
  60. ^ “Netherlands album certifications – Cher – Believe” (bằng tiếng Hà Lan). Nederlandse Vereniging van Producenten en Importeurs van beeld - en geluidsdragers.
  61. ^ “NZ_chart book_Cher.pdf” (PDF).
  62. ^ “Norwegian album certifications – Cher – Believe”. IFPI Norway. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
  63. ^ “Poland album certifications – Cher – Believe” (bằng tiếng Ba Lan). ZPAV.
  64. ^ Fernando Salaverri (tháng 9 năm 2005). Sólo éxitos: año a año, 1959–2002 (ấn bản 1). Spain: Fundación Autor-SGAE. ISBN 84-8048-639-2.
  65. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2000” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Thụy Điển.
  66. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Awards (Cher; 'Believe')”. IFPI Switzerland. Hung Medien.
  67. ^ “Britain album certifications – Cher – Believe” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Chọn albums trong bảng chọn Format. Chọn Multi-Platinum trong nhóm lệnh Certification. Nhập Believe vào khung "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter
  68. ^ “Cher Releases First New Album In 12 Years 'Closer To The Truth' Out On October 14th 2013”. ngày 23 tháng 8 năm 2013.
  69. ^ “American album certifications – Cher – Believe” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Album rồi nhấn Search
  70. ^ Caulfield, Keith (ngày 7 tháng 8 năm 2015). “Cher Reflects on 50 Years on the Billboard Charts: 'I Got You Babe,' 'Believe' & Beyond”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2015.
  71. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 1999”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Cher.com > Music > Believe
  • Cher trên IMDb

Nếu có một thể loại và kỷ nguyên âm nhạc khiến mọi người đi trên sàn nhảy hơn bất kỳ loại nào khác, thì đó là vũ trường của cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980.

Chắc chắn, một số người ở Hoa Kỳ cuối cùng đã tuyên bố rằng 'vũ trường hút', nhưng hơn 40 năm sau âm nhạc vũ trường vẫn khiến chúng ta cảm thấy tốt và bị chạm vào chân.

Từ Bee Gees đến Gloria Gaynor đến ... The Rolling Stones?! ... Chúng tôi đã chọn những bài hát nhảy tốt nhất để tạo nên một danh sách nhạc hoàn hảo.

  • John Paul Young - 'Tình yêu ở trên không'

    Ca sĩ người Úc John Paul Young đã ghi được một cú đánh lớn vào năm 1977 với tiếng nổ vũ trường lãng mạn này.

    Sau đó, nó được sử dụng làm giai điệu chủ đề cho bộ phim Strictly Ballroom năm 1992 của Baz Luhrmann.

  • Tập đoàn Hues - 'Rock the Boat'

    Ca khúc năm 1973 này đã mất một thời gian để trở thành hit mà nó xứng đáng, nhưng nhờ những vở kịch nặng nề trong các câu lạc bộ New York, nó đã trở thành một yêu thích vũ trường.

    Bài hát đặc trưng cho Fleming Williams về giọng hát chính ngay trước khi anh ấy rời nhóm.

  • Điều thực sự - 'bạn đối với tôi là tất cả'

    Nhóm linh hồn người Anh The Real Thing đã tìm thấy sự nổi tiếng về cơ hội gõ cửa, và vào năm 1976, họ đã phát hành giai điệu vũ trường tuyệt vời này.

    Đó là một thành công lớn, mang đến cho nhóm một đĩa đơn số một của Vương quốc Anh.

  • Boney M - 'Rasputin'

    Không thường xuyên bạn có được một quốc ca khiêu vũ cũng là một bài học lịch sử nhỏ.

    • Câu chuyện về ... 'Rasputin'

    Câu chuyện Bonkers của Boney M về "cỗ máy tình yêu lớn nhất của Nga" đã hồi sinh khi một bản phối lại đạt được bảng xếp hạng Vương quốc Anh vào năm 2021.

  • Rod Stewart - 'da ya nghĩ tôi gợi cảm?'

    Rod Stewart không thể giúp đỡ nhưng cho Disco đi cho album Blondes năm 1978 của mình có nhiều niềm vui hơn.

    Không phải ai cũng là một người hâm mộ, nhưng bạn phải thừa nhận đó là một trong những bài hát hấp dẫn nhất từ ​​những năm 1970.

  • Baccara - 'vâng thưa ngài, tôi có thể boogie'

    Baccara là các vũ công Flamenco Tây Ban Nha Mayte Mateos và Maria Mendiola, những người được phát hiện trên đảo Fuerteventura ở Quần đảo Canary bởi giám đốc điều hành của RCA Records Leon Deane.

    Bộ đôi này đã sớm ghi lại bản nhạc này và nó đã cho họ một cú đánh số một trên khắp thế giới, bao gồm cả Vương quốc Anh.

  • Tavares - 'Thiên đường phải mất một thiên thần'

    Ban nhạc Mỹ Tavares ban đầu ghi lại đây là một ca khúc sáu phút vào năm 1976.

    Ca khúc lãng mạn với dòng Chatup seedy là một cú hích lớn trên khắp thế giới, đạt vị trí thứ 4 ở Anh.

  • Andy Gibb - 'Shadow Dancing'

    Với việc Bee Gees tiếp quản các bảng xếp hạng sau sự thống trị của cơn sốt đêm thứ bảy của họ, không lâu trước khi em trai của họ Andy Gibb tham gia cùng họ.

    Trong một thời gian, anh ta được cho là nhạc pop lớn nhất hành tinh, và bài hát này là một bài hát lớn cho Andy ở Mỹ.

  • Labelle - 'Lady Marmalade'

    "Voulez-Vous Coucher avec Moi?"

    Sau đó, một cú đánh số một lớn từ nhạc nền Moulin Rouge, đây là bài hát nhảy múa nhảy múa quyến rũ cuối cùng từ Patti Labelle và các cô gái của cô.

  • Dân làng - 'YMCA'

    Chắc chắn, nó rất hay vượt quá niềm tin - nhưng 'YMCA' vẫn là một bài hát nhảy tuyệt vời trong suốt những năm sau đó.

    Đây là một trong số ít các bài hát bán hơn 10 triệu bản sao trên toàn thế giới và trở thành một bài hát đồng tính.

  • KC & The Sunshine Band - 'Tối nay xuống'

    "Hãy nhảy một chút, làm một tình yêu nhỏ, xuống tối nay!"

    Một bài quốc ca khiêu vũ thực sự từ KC và các chàng trai, đây là ban nhạc đầu tiên trong số năm người đứng đầu bảng xếp hạng Hoa Kỳ.

  • George McCrae - 'Rock Your Baby'

    Đây là một hit quốc tế khổng lồ vào năm 1974, và được cho là bản hit thực sự đầu tiên trên khắp thế giới đã giới thiệu thể loại này cho dòng chính.

    Nó đã bán được hơn 10 triệu bản, và đã được Benny và Bjorn của Abba trích dẫn như một nguồn cảm hứng lớn về 'Nữ hoàng nhảy múa'.

  • Boney M - 'Daddy Cool'

    Anthem Disco năm 1976 này là lần đầu tiên của Boney M ở Anh.

    Được sản xuất và đồng sáng tác bởi người sáng lập của nhóm Frank Farian, ông cũng cung cấp các phần giọng nam trong hồ sơ.

  • Các cô gái thời tiết - 'Đàn ông mưa'

    Được phát hành vào năm 1982, điều này thực sự hơi muộn trong ngày cho các bản hit vũ trường.

    Nó ban đầu được dự định cho Donna Summer, và sau đó được cung cấp cho Diana Ross, Cher và Barbra Streisand, tất cả đều từ chối nó. Cuối cùng, nó rơi vào lòng của các cô gái thời tiết, và nó trở thành một giai điệu mang tính biểu tượng của thập niên 80.

  • Trái đất, Gió & Lửa - 'Wonderland Boogie'

    Mặt hàng chủ lực của vũ trường này là Trái đất, Gió & Lửa ở đỉnh cao của sức mạnh của họ vào năm 1979, với Maurice White đi cho nó ở phía trước.

    Không thể không đứng dậy trên đôi chân của bạn với cái này.

  • McFadden & Whitehead - 'Không phải bây giờ không ngăn cản chúng tôi'

    Ca khúc này được cho là về kinh nghiệm của cộng đồng người Mỹ gốc Phi vào thời điểm đó, và sau khi tìm thấy thành công, thậm chí còn được gọi là "quốc ca đen mới".

    Được phát hành vào năm 1979, nó là một hit top 5 ở Anh.

  • Lipps Inc - 'Thị trấn vui nhộn'

    Một trong những bài hát tuyệt vời, và những gì một bài hát có một cú đánh.

    Đó là một thành công lớn ở Mỹ và số hai ở Anh, và được viết trong khi ban nhạc đang sống ở Minneapolis với ước mơ chuyển đến New York.

  • Bee Gees - 'Bạn nên nhảy'

    Các bài hát của Bee Gees Disco được sử dụng trong Saturday Night Fever, với John Travolta ở chế độ nhảy cao điểm.

    Nó thực sự đã được ghi lại một năm trước cho album trước của họ, Childs of the World, và đã giúp ra mắt ban nhạc với tên Disco Kings.

  • Candi Staton - 'Trái tim trẻ, chạy miễn phí'

    Theo Candi Station, bài hát này đã diễn ra sau một cuộc trò chuyện mà cô ấy có với nhà sản xuất David Crawford: "Anh ấy luôn hỏi tôi: 'Điều gì đang xảy ra trong cuộc sống của bạn' ... và tôi đã ở với một người mà tôi không nên ở cùng và nó Thật khó để thoát khỏi đó ... mối quan hệ rất lạm dụng.

    "Tôi [nhận thấy] rằng [Crawford] đã ghi chú, và anh ấy nói, 'Bạn biết đấy, tôi sẽ viết cho bạn một bài hát. Tôi sẽ viết cho bạn một bài hát sẽ tồn tại mãi mãi'".

    Và anh ấy đã đúng!

  • Chị Sledge - 'Chúng tôi là gia đình'

    Được viết và sản xuất bởi các ngôi sao sang trọng Nile Rodgers và Bernard Edwards, bài hát này đã trở thành những giai điệu đặc trưng của chị em Sledge và một món đồ vũ trường.

    Bernard và Nile vẫn chưa thoải mái tiếp cận các nghệ sĩ tên tuổi với các bài hát mới của họ, và vì vậy thay vào đó đề xuất hành động được thành lập ít nhất của nhãn hiệu. Nếu họ có một kỷ lục hit, thì họ có thể tham gia thử thách viết những ngôi sao lớn hơn. Không cần phải nói rằng kỹ thuật này đã hoạt động!

  • Yvonne Elliman - 'Nếu tôi không thể có bạn'

    Ban đầu, Bee Gees có ý định ghi lại bản nhạc sàn nhảy này, và Yvonne Elliman dự kiến ​​ghi lại bản ballad 'tình yêu của bạn sâu sắc như thế nào', cho Saturday Night Fever.

    Tuy nhiên, nhà sản xuất Robert Stigwood nói rằng điều này nên được đảo ngược, và hóa ra đó là một cơn đột quỵ của thiên tài. Mặc dù vậy, Bee Gees đã ghi lại phiên bản của riêng họ cho 'Stayin' Alive 'B-Side.

  • Chic - 'Thời gian tốt đẹp'

    Một bản nhạc cổ điển thuần túy từ Nile Rodgers và Bernard Edwards, điều này cuối cùng trở thành một trong những bài hát được lấy mẫu nhiều nhất trong lịch sử.

    Lời bài hát bao gồm một tài liệu tham khảo về 'Ngày hạnh phúc là ở đây một lần nữa', và các dòng dựa trên lời bài hát đặc trưng trong 'Khoảng một phần tư đến chín'. Nile Rodgers đã nói rằng những lời bài hát thời kỳ trầm cảm lớn này đã được sử dụng như một cách ẩn giấu để nhận xét về các vấn đề kinh tế hiện tại ở Hoa Kỳ.

  • The Four Seasons - 'Tháng 12 '63 (ôi thật là một đêm)'

    Điều này đã chứng kiến ​​Four Seasons trở lại với một vũ trường vào năm 1975. Mặc dù vậy, đó thực sự không phải là Frankie Valli về giọng hát chính! Frankie cung cấp giọng hát ủng hộ trong khi Gerry Polci dẫn đầu.

    Theo đồng tác giả Bob Gaudio, lời bài hát ban đầu được thiết lập vào năm 1933 với tiêu đề 'ngày 5 tháng 12 năm 1933', và đã tổ chức sự bãi bỏ & nbsp; Cấm, & nbsp; nhưng lời bài hát đã được thay đổi bởi & nbsp; Frankie Valli & nbsp; Parker để định vị lại bài hát như một cái nhìn hoài cổ về chuyện đầu tiên của một chàng trai trẻ với một người phụ nữ.

  • Harold Melvin & The Blue Ghi chú - 'Đừng để tôi theo cách này'

    Với Teddy Pendergrass về giọng hát chính, Anthem linh hồn này đã không thành công trong một vài năm cho đến khi thành công của một phiên bản vũ trường tuyệt vời khác của Thelma Houston vào năm 1977.

    The Communards sau đó đã ghi được một trang bìa nhảy của thập niên 80 với nó một thập kỷ sau đó.

  • The Rolling Stones - 'Miss You'

    Không ai quá tốt cho vũ trường, ngay cả những viên đá lăn.

    Mick Jagger và Ronnie Wood đã khăng khăng rằng nó không được coi là một bài hát vũ trường, trong khi Keith Richards nói: "'Miss You' là một bản thu âm tốt chết tiệt; nó được tính là một."

    Nó trở thành kỷ lục số một và số một của Stones ở Hoa Kỳ, vào năm 1978.

  • The Jacksons - 'Đổ lỗi cho Boogie'

    Ban đầu là một hit cho Mick Jackson (không có liên quan), Jacksons đã biến nó thành một giai điệu vũ trường truyền nhiễm với giọng hát của Michael.

    Nó tiếp tục trở thành một trong những bài hát đặc trưng của Jacksons và là tiền thân của Michael trở thành một biểu tượng nhạc pop.

  • The O'Jays - 'Tàu tình yêu'

    Được phát hành trở lại vào năm 1972 khi Disco thậm chí không phải là một điều, nó có thể dễ dàng lập luận rằng đây là bài hát đã khởi động toàn bộ thể loại.

    Ca khúc tích cực đã cho O'Jays duy nhất duy nhất của họ ở Hoa Kỳ.

  • Trammps - 'Disco Inferno'

    Đốt cháy em bé! Khi bạn nghĩ về vũ trường, rất có thể đây là một trong những bài hát đầu tiên xuất hiện trong đầu.

    Đáng ngạc nhiên là nó không phải là một hit lúc đầu, nhưng một khi nó được đưa vào nhạc nền cho Saturday Night Fever, nó đã trở nên mãi mãi liên quan đến thể loại này.

  • Barry White - 'Bạn là người đầu tiên, cuối cùng, mọi thứ của tôi'

    Được phát hành vào năm 1974, bài hát này ban đầu được viết hơn 21 năm trước bởi Peter Radcliffe như một bài hát đồng quê, trước khi Barry White hoàn toàn làm lại nó và đưa nó lên số một ở Anh.

    Nó đã nhận một hợp đồng thuê mới của cuộc sống vào những năm 1990, khi nhân vật Ally McBeal John đã sử dụng nó như một bài hát chủ đề cá nhân của riêng mình, dẫn đến Barry xuất hiện như chính mình trong chương trình truyền hình.

  • Bee Gees - 'Stayin' Alive '

    The Bee Gees đã viết bài hát này trong vài ngày sau khi được nhà sản xuất Robert Stigwood liên lạc. RSO Records muốn bài hát được đặt tên là ‘Đêm thứ bảy, theo tiêu đề của bộ phim, nhưng họ đã thêm‘ Fever, để bao gồm tiêu đề bài hát của ‘Night Fever.

    • Câu chuyện về ... 'Stayin' Alive '

    Barry Gibb nói về đường đua: Người dân kêu cứu. Những bài hát tuyệt vọng. Đó là những người trở thành người khổng lồ. Ngay khi bạn nắm bắt được điều đó trong hồ sơ, nó vàng.

  • KC và ban nhạc ánh nắng mặt trời - 'Đó là cách (tôi thích nó)'

    Các âm bội tình dục của ca khúc này đã phải được giảm bớt khi phát radio, nhưng điều đó không ngăn được nó trở thành một megahit cho KC và ban nhạc ánh nắng năm 1975.

    Nó đã trở thành một mặt hàng chủ lực trong phần còn lại của thập kỷ, và đã cho ban nhạc một hit số một của Mỹ.

  • Blondie - 'Heart of Glass'

    Bài hát này đã chứng kiến ​​Blondie thực sự đạt được dòng chính, đạt vị trí số một ở Anh vào năm 1979.

    Chuyển từ rock sang một sự rung cảm vũ trường, bài hát này được viết như một bản nhạc chậm hơn có tựa đề 'Một khi tôi có một tình yêu' vài năm trước.

    Debbie Harry sau đó đã nói rằng "là một trong những bài hát đầu tiên Blondie đã viết, nhưng đã nhiều năm trước khi chúng tôi ghi lại nó đúng cách. Chúng tôi đã thử nó như một bản ballad, như reggae, nhưng nó không bao giờ hoạt động" và đó Về bất cứ ai. Họ chỉ là một tiếng rên rỉ về tình yêu đã mất. "

  • Trái đất, Gió & Lửa - 'Tháng Chín'

    Disco Kings Earth, Wind and Fire đã ghi được một bản hit quốc tế lớn với bài hát lạc quan này vào năm 1978.

    Mặc dù nhiều lý thuyết về tầm quan trọng của ngày 21 tháng 9 đã được đề xuất, nhạc sĩ Maurice White tuyên bố anh ta chỉ đơn giản là chọn ngày 21 do cách nó nghe khi anh ta hát nó.

    Vợ ông, Marilyn White tuyên bố rằng ngày 21 tháng 9 là ngày đáo hạn của con trai họ, Kahbran.

  • Donna Summer - 'Tôi cảm thấy tình yêu'

    Có một vài bản ghi đã thay đổi thế giới âm nhạc nhiều như 'I Feel Love' của Donna Summer. Đĩa đơn được cho là đã mở ra kỷ nguyên Electronica, nhờ vào sản phẩm Lucious từ nhà sản xuất Giorgio Moroder và Pete Bellotte.

    Được phát hành vào năm 1977, nó đã đi trước nhiều năm và kết nối vũ trường với synthpop và thậm chí cả nhạc nhà.

    Moroder mô tả Summer là "một ca sĩ vô cùng tài năng, người có thể ứng biến nhưng cũng rất kỷ luật".

  • Sylvester - 'Bạn làm cho tôi cảm thấy (thật sự thật)' '

    Bài hát này ban đầu được thu âm là một bài hát phúc âm piano giữa nhịp độ. Tuy nhiên, sau khi nhà sản xuất Patrick Cowley xem một buổi tập của bài hát tại một vũ trường San Francisco, anh đã đề nghị phối lại nó.

    Kết quả là một trong những hồ sơ vũ trường tiên phong nhất, sử dụng các thiết bị và hiệu ứng điện tử sớm, đây sẽ là một ảnh hưởng lớn đến âm nhạc trong suốt thập kỷ tới.

  • Chic - 'Le Freak'

    Một kiệt tác vũ trường khác từ Bernard Edwards và Nile Rodgers, đây là một câu lạc bộ lớn cho nhóm vào năm 1978.

    Lời bài hát của Bữa tiệc tham khảo Nightclub Studio 54, đặc biệt là hàng đợi khách hàng dài nổi tiếng của nó, khách hàng độc quyền và người gác cửa khó chịu.

  • ABBA - 'Nữ hoàng khiêu vũ'

    ABBA đã xoay sở để duy trì sự phù hợp và là một trong những nhóm nhạc pop vĩ đại nhất từ ​​trước đến nay, bằng cách hợp nhất Glam Pop với vũ trường vào cuối những năm 1970. Đỉnh sáng tạo của họ là chất độn nhảy tuyệt đẹp này.

    • Câu chuyện về ... 'Nữ hoàng nhảy múa'

    Có lẽ bài hát được yêu thích nhất của ABBA, đó là bức thư tình hoàn hảo để nhảy và tự nhảy.

  • Gloria Gaynor - 'Tôi sẽ sống sót'

    Mặc dù là một bên B ban đầu, điều này đã trở thành một trong những bài hát lớn nhất mọi thời đại.

    • Câu chuyện về ... 'Tôi sẽ sống sót'

    Bài hát là một bài quốc ca nữ, và về việc tiếp tục sau một mối quan hệ tồi tệ. Kể từ đó, nó đã mang lại ý nghĩa khác cho những người đã vượt qua mọi tình huống khó khăn, nhưng nhà văn Dino Fekaris tiết lộ đó là về việc bị sa thải bởi Motown Records, nơi ông là một nhà văn nhân viên.

    Bản thân Gloria Gaynor đã từng nói: "Tôi yêu hiệu ứng trao quyền, tôi yêu hiệu ứng đáng khích lệ. Đó là một lời bài hát vượt thời gian giải quyết mối quan tâm vượt thời gian."

  • Michael Jackson - 'Đừng dừng lại cho đến khi bạn có đủ'

    Đối với album Off The Wall của Michael Jackson, anh ấy đã bước lên một sự sáng tạo và thu âm một số bài hát ngon nhất của những năm 1970.

    Một bài hát như vậy là bài hát xuất sắc này là một trong những bài hát tuyệt vời cuối cùng của phong trào vũ trường.

  • Bee Gees - 'Sốt đêm'

    Với tất cả mọi thứ đã xảy ra trong kỷ nguyên vũ trường, đỉnh cao tuyệt đối phải là nhạc phim hoàn hảo đáng ngạc nhiên của Bee Gees cho Saturday Night Fever, cung cấp âm nhạc cho John Travolta đưa nó đến thời điểm chính thống nhất của nó.

    Anh em nhà Gibb đã thu âm một số bài hát xuất sắc trong giai đoạn này, nhưng đây là bài hát sàn nhảy cuối cùng đã tóm tắt giai đoạn này một cách hoàn hảo, và khiến bạn muốn lấy chiếc lược của mình, những chiếc pháo nổi hay nhất và sải bước những thứ thú vị của bạn.

  • Bài hát Disco số 1 của mọi thời đại là gì?

    Không có bài hát là biểu hiện của kỷ nguyên vũ trường nhiều hơn Le Freak.Chic đã ghi được một đĩa đơn số một ở Hoa Kỳ với chất độn Dancefloor này đề cập đến Studio 54 trong lời bài hát của nó.Sau khi phát hành vào cuối năm 1978, Chic đã đạt được doanh số bảy triệu của Le Freak và ghi được bài hát số ba năm 1979.Le Freak. Chic scored a number one single in the U.S. with this dancefloor filler that mentions Studio 54 in its lyrics. Upon its release in late-1978, Chic achieved seven-million sales of Le Freak and scored the number three song of 1979.

    Bài hát vũ trường số một năm 1977 là gì?

    "Phải từ bỏ nó" là một số một cho Marvin Gaye.Got to Give It Up" was a number one for Marvin Gaye.

    Bài hát vũ trường số một năm 1980 là gì?

    1980: Đĩa đơn Top 100 Soul/Funk/Disco.

    Bài hát vũ trường số một năm 1979 là gì?

    Rod Stewart đứng ở vị trí số 1 trong bốn tuần liên tiếp với Da Da Ya nghĩ tôi gợi cảm?Trống và bass trong bài hát đó?Chắc chắn là vũ trường.Da Ya Think I'm Sexy?” The drums and bass in that song? Definitely disco.