10 loại thuốc chống trầm cảm hàng đầu năm 2022

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

10 loại thuốc chống trầm cảm hàng đầu năm 2022
Fluoxetine (Prozac), một loại SSRI
10 loại thuốc chống trầm cảm hàng đầu năm 2022
Cấu trúc hóa học của venlafaxine (Effexor), một loại SNRI

Thuốc chống trầm cảm là thuốc dùng để điều trị rối loạn trầm cảm chính, một số rối loạn lo âu, một số tình trạng đau mãn tính và để giúp kiểm soát một số chứng nghiện.[1] Tác dụng phụ thường gặp của thuốc chống trầm cảm bao gồm khô miệng, tăng cân, chóng mặt, đau đầu và rối loạn chức năng tình dục.[2][3][4][5][6] Hầu hết các loại thuốc chống trầm cảm thường an toàn khi sử dụng, nhưng có thể gây ra suy nghĩ tự tử gia tăng khi trẻ em, thanh thiếu niên và thanh niên sử dụng.[7] Một hội chứng ngừng thuốc có thể xảy ra sau khi ngừng dùng bất kỳ thuốc chống trầm cảm nào giống như trầm cảm tái phát.[8][9]

Một số đánh giá về thuốc chống trầm cảm cho bệnh trầm cảm ở người lớn tìm thấy lợi ích [10][11] trong khi những người khác thì không.[12] Bằng chứng về lợi ích của thuốc ở trẻ em và thanh thiếu niên là không rõ ràng.[13] Có một cuộc tranh luận trong cộng đồng y tế về mức độ ảnh hưởng quan sát của thuốc chống trầm cảm có thể được quy cho hiệu ứng giả dược.[14][15]

Một số liệu pháp điều trị không cần thuốc như: tâm lý trị liệu, sốc điện, châm cứu, thể dục...[16]

Có khoảng 30 loại thuốc chống trầm cảm, phần lớn nằm vào một trong bốn loại sau:

  • Tricyclics (thuốc chống trầm cảm ba vòng)
  • MAOIs (thuốc ức chế enzyme Monoamine oxidase)
  • SSRIs (thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc trên Serotonin)
  • SNRIs (thuốc ức chế tái hấp thu trên Serotonin và Noradrenaline)

Sử dụng trong y tế[sửa | sửa mã nguồn]

Thuốc chống trầm cảm được sử dụng để điều trị rối loạn trầm cảm chính và các tình trạng khác, bao gồm một số rối loạn lo âu, một số tình trạng đau mãn tính và để giúp kiểm soát một số chứng nghiện. Các thuốc chống trầm cảm thường được sử dụng kết hợp với nhau.[1]

Rối loạn trầm cảm chính[sửa | sửa mã nguồn]

Hướng dẫn của Viện Sức khỏe và Chăm sóc Sức khỏe (NICE) năm 2009 của Vương quốc Anh cho thấy thuốc chống trầm cảm không nên được sử dụng thường xuyên để điều trị trầm cảm nhẹ, vì tỷ lệ lợi ích/rủi ro là thấp. Các hướng dẫn khuyến cáo rằng điều trị chống trầm cảm được xem xét sử dụng với:

  • Những người có tiền sử trầm cảm vừa hoặc nặng,
  • Những người bị trầm cảm nhẹ đã có mặt trong một thời gian dài,
  • Là một điều trị thứ hai cho trầm cảm nhẹ vẫn tồn tại sau các can thiệp khác,
  • Là một điều trị đầu tay cho trầm cảm vừa hoặc nặng.

Các hướng dẫn lưu ý thêm rằng điều trị chống trầm cảm nên được sử dụng kết hợp với các can thiệp tâm lý xã hội trong hầu hết các trường hợp, nên được tiếp tục trong ít nhất sáu tháng để giảm nguy cơ tái phát và SSRIs thường được dung nạp tốt hơn các thuốc chống trầm cảm khác.[17]

Hướng dẫn điều trị của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ khuyến cáo rằng điều trị ban đầu nên được điều chỉnh riêng dựa trên các yếu tố bao gồm mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng, rối loạn cùng tồn tại, kinh nghiệm điều trị trước đó và sở thích của người bệnh. Các lựa chọn có thể bao gồm dược trị liệu, tâm lý trị liệu, liệu pháp điện từ (ECT), kích thích từ xuyên sọ (TMS) hoặc liệu pháp ánh sáng. Họ đề nghị dùng thuốc chống trầm cảm như một lựa chọn điều trị ban đầu ở những người bị trầm cảm nhẹ, trung bình hoặc nặng, nên dùng cho tất cả những người bị trầm cảm nặng trừ khi có kế hoạch dùng ECT.[18]

Một số đánh giá về thuốc chống trầm cảm ở người lớn bị trầm cảm tìm thấy lợi ích [10][11] trong khi những người khác thì không.[12]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

10 loại thuốc chống trầm cảm hàng đầu năm 2022
St John's wort

Trước thập niên 50, nhóm thuốc gây nghiện opioic và amphetamines là những thuốc thông thường sử dụng điều trị bệnh trầm cảm. Sau khi các nhóm này bị quản lý chặt chẽ do nhiều tác dụng phụ và gây nghiện.[19] Cao chiết từ thực vật St John's wort cũng có thể sử dụng như "thuốc bổ thần kinh" để làm giảm nhẹ triệu chứng bệnh trầm cảm.[20]

Isoniazid, iproniazid, imipramine[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1951, Irving Selikoff và Edward Robitzek, làm việc cho bệnh viện Sea View Hospital trên đảo Staten Island, đã bắt đầu thử nghiệm lâm sàng với thuốc kháng lao của hãng Hoffman-LaRoche là isoniazid và iproniazid trên những bệnh nhân có tiên lượng xấu. Kết quả là tinh thần bệnh nhân được cải thiện hơn và họ chấp hành kỉ luật hơn."[21] Triển vọng từ ca thử lâm sàng trên đã tạo ra dư luận sôi nổi.

Năm 1952, Khi nghiên cứu tác dụng phụ gây kích động của isoniazid, bác sĩ tâm thần Max Lurie thử nghiệm trên các bệnh nhân. Trong những năm sau đó, Max Lurie và Harry Salzer ghi nhận rằng isoniazid cải thiện được tình trạng trầm cảm ở 2 phần 3 bệnh nhân của họ và đặt ra khái niệm chống trầm cảm.[22] Một sự kiện tương tự cũng xảy ra ở Paris, Ở đây Jean Delay, trưởng khoa tâm thần tại bệnh viện Sainte-Anne Hospital tiếp nhận thông tin về tác dụng này từ các đồng nghiệp là bác sĩ phổi tại bệnh viện Cochin Hospital. Năm 1952, trước Lurie và Salzer, Delay đã ghi nhận ảnh hưởng có lợi của isoniazid trên bệnh nhân trầm cảm tại khu dân cư Jean-Francois Buisson.[23] Vì độc hại của iproniazid nên tác dụng chống trầm cảm của chúng ít được quan tam,[22] Mặc dù chúng vẫn còn được sử dụng điều trị bệnh lao]]. Cơ chế chống trầm cảm của isoniazid vẫn chưa rõ. Nhưng có thể suy đoán rằng là do ức chế diamine oxidase, kèm theo ức chế yếu monoamine oxidase A.[24]

Thế hệ thuốc chống trầm cảm thứ 2[sửa | sửa mã nguồn]

Thuốc chống trầm cảm trở thành thuốc kê đơn vào những năm 1950. Theo ước tính có hơn 50 đến 100 cá nhân trên một triệu sử dụng những thuốc mới điều trị trầm cảm. Các công ty dược phẩm không thấy triển vọng kinh doanh ở thị trường nhỏ vé này. Doanh số bán hàng của thuốc chống trầm cảm trong suốt những năm 1960 duy trì thấp so với doanh số của thuốc an thần khác.[25] chúng được tiếp thị sử dụng cho mục đích khác.[26] Imipramine vẫn được sử dụng phổ biến và nhiều thế hệ sau đã được giới thiệu. Việc sử dụng thuốc ức chế monoamine oxidase(MAOI) gia tăng sau khi dạng thuốc thuận nghịch được phát triển và giới thiệu, chúng chỉ tác dụng trên loại MAO-A, do dó thuốc trở nên an toàn hơn khi sử dụng.[26][27]

vào những năm 1960, Người ta nhận thấy cơ chế tác dụng của nhóm chống trầm cảm ba vòng là ức chế tái hấp thu norepinephrine. Tuy nhiên, tái hấp thu norepinephrine trở nên liên quan đến tác dụng kích thích. nhóm chống trầm cảm ba vòng thế hệ sau được cho là có ảnh hưởng lên serotonin được đưa ra vào năm 1969 bởi Carlsson và Lindqvist cũng như là Lapin và Oxenkrug.

Các nhà nghiên cứu đã bắt đầu quá trình thiết kế thuốc để cô lập các dẫn chất kháng histamine có hệ thống chọn lọc mục tiêu. Chất đầu tiên được cấp bản quyền là zimelidine vào năm 1971, Trong khi các thuốc được thử lâm sàng đầu tiên là indalpine. Fluoxetine được Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chấp nhận đưa thị trường Mỹ vào năm 1988, trở thành thuốc SSRI đầu tiên. Fluoxetin được phát triển tại tập đoàn dược phẩm Eli Lilly and Company vào đầu những năm 1970 bởi Bryan Molloy, Klaus Schmiegel, David Wong và các cộng sự.[28][29] SSRIs được biết đến như "thuốc chống trầm cảm thế hệ mới" cùng với các nhóm thuốc mới như SNRIs và NRIs có tác dụng chọn lọc và đa dạng.[30]

St John's wort bị loại ra ở hầu hết các quốc gia trong suốt thế kỉ 19 and 20, ngoại trừ Đức, nơi mà cao chiết của Hypericum cuối cùng cũng được cấp phép, đóng gói và kê đơn. Những thử nghiệm nhỏ được thực hiện trong những năm 1970 và 1980, và được chú ý hơn vào những năm 1990 nhờ một nghiên cứu meta-analysis.[31] Hiện nay, thuốc này vẫn được sử dụng như là một thuốc không kê đơn (OTC) tại nhiều quốc gia. Nghiên cứu vẫn được tiếp tục để tìm hiểu về thành phần hoạt tính hyperforin và làm sáng tỏ cơ chế hoạt động của chúng.[32][33]

Tác dụng[sửa | sửa mã nguồn]

10 loại thuốc chống trầm cảm hàng đầu năm 2022
Wikipedia tiếng Việt không bảo đảm và không chịu trách nhiệm về tính pháp lý và độ chính xác của các thông tin có liên quan đến y học và sức khỏe. Độc giả cần liên hệ và nhận tư vấn từ các bác sĩ hay các chuyên gia. Khuyến cáo cẩn thận khi sử dụng các thông tin này. Xem chi tiết tại Wikipedia:Phủ nhận y khoa và Wikipedia:Phủ nhận về nội dung.

Một số thuốc chống trầm cảm (SSRI và SNRI) làm tăng các chất kích thích hoạt động thần kinh trong não, trong khi một số khác (TCTC 3 vòng và MAOI) làm kéo dài hoạt động của những chất này. Thuốc chống trầm cảm được dùng ít nhất 10 ngày mới có hiệu quả và sau 8 tuần mới có tác dụng hoàn toàn.

Tác dụng phụ[sửa | sửa mã nguồn]

Phần lớn các thuốc chống trầm cảm gây khô miệng, rối loạn thị giác, chóng mặt, ngủ gà, táo bón, tiểu khó. Các triệu chứng này có thể gia tăng khi điều trị lâu dài. Dùng quá liều có thể gây rối loạn nhịp tim, co giật, hôn mê, có khi chết.

Các thuốc kê đơn thông dụng[sửa | sửa mã nguồn]

10 loại thuốc chống trầm cảm hàng đầu năm 2022
Structural formula of the SSRI escitalopram, in its free base form.

Hoa kỳ: Các thuốc chống trầm cảm được kê đơn phổ biến được đưa ra thị trường năm 2010[34] là:

Sertraline Zoloft SSRI 33,409,838
Citalopram Celexa SSRI 27,993,635
Fluoxetine Prozac SSRI 24,473,994
Escitalopram Lexapro SSRI 23,000,456
Trazodone Desyrel SARI 18,786,495
Duloxetine Cymbalta SNRI 14,591,949
Paroxetine Paxil SSRI 12,979,366
Amitriptyline Elavil TCA 12,611,254
Venlafaxine XR Effexor XR SNRI 7,603,949
Bupropion XL Wellbutrin NDRI 7,317,814
Mirtazapine Remeron TeCA 6,308,288
Venlafaxine ER Effexor SNRI 5,526,132
Bupropion SR NDRI 4,588,996
Desvenlafaxine Pristiq SNRI 3,412,354
Nortriptyline Sensoval TCA 3,210,476
Bupropion ER NDRI 3,132,327
Venlafaxine Effexor SNRI 2,980,525
Bupropion Wellbutrin XL NDRI 753,516

Cộng hòa liên bang Đức: thuốc chống trầm cảm được kê đơn phổ biến nhất tại Đức được báo cáo là cao chiết xuất của Hypericum perforatum (St John's wort).[35]

Hà Lan: Tại Hà Lan, paroxetine, đưa ra thị trường với tên Seroxat là thuốc chống trầm cảm được kê đơn phổ biến nhất, theo sau là các thuốc thuộc nhóm chống trầm cảm ba vòng amitriptyline, citalopram và venlafaxine.[36]

Nhóm thuốc MAOIs hiệu quả như nhóm chống trầm cảm ba vòng, Dù vậy nhóm thuốc MAOIs vẫn ít được sử dụng hơn bởi vì chúng có nhiều tác dụng phụ và bị tương tác nhiều hơn so với nhóm chống trầm cảm ba vòng.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Trầm cảm
  • Trầm cảm sau sinh
  • Trầm cảm theo mùa

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lưu ý khi dùng thuốc chống trầm cảm Lưu trữ 2006-09-29 tại Wayback Machine - TS. Bùi Quang Huy (Sức khỏe và Đời sống)
  • Thuốc chống trầm cảm và những lưu ý khi dùng
  • Trầm cảm khi mang thai

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Jennings, Leigh (2018). “Chapter 4: Antidepressants”. Trong Grossberg, George T.; Kinsella, Laurence J. (biên tập). Clinical psychopharmacology for neurologists: a practical guide. Springer. tr. 45–71. doi:10.1007/978-3-319-74604-3_4. ISBN 978-3-319-74602-9.
  2. ^ Healy D, Noury LJ, Manginb D (tháng 5 năm 2018). “Enduring sexual dysfunction after treatment with antidepressants, 5α-reductase inhibitors and isotretinoin: 300 cases”. International Journal of Risk & Safety in Medicine. 29 (3): 125–134. doi:10.3233/JRS-180744. PMC 6004900. PMID 29733030.
  3. ^ Bahrick, Audrey S. (2008). “Persistence of Sexual Dysfunction Side Effects after Discontinuation of Antidepressant Medications: Emerging Evidence”. The Open Psychology Journal. 1: 42–50. doi:10.2174/1874350100801010042.
  4. ^ Taylor MJ, Rudkin L, Bullemor-Day P, Lubin J, Chukwujekwu C, Hawton K (tháng 5 năm 2013). “Strategies for managing sexual dysfunction induced by antidepressant medication”. The Cochrane Database of Systematic Reviews. 5 (5): CD003382. doi:10.1002/14651858.CD003382.pub3. PMID 23728643.
  5. ^ Kennedy SH, Rizvi S (tháng 4 năm 2009). “Sexual dysfunction, depression, and the impact of antidepressants”. Journal of Clinical Psychopharmacology. 29 (2): 157–64. doi:10.1097/jcp.0b013e31819c76e9. PMID 19512977.
  6. ^ Serotonin and noradrenaline reuptake inhibitors (SNRI); selective serotonin reuptake inhibitors (SSRI) – Persistent sexual dysfunction after drug withdrawal (EPITT no 19277), ngày 11 tháng 6 năm 20191, EMA/PRAC/265221/2019, Pharmacovigilance Risk Assessment Committee (PRAC)
  7. ^ “Revisions to Product Labeling” (PDF). FDA. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2018.
  8. ^ Wilson, E; Lader, M (tháng 12 năm 2015). “A review of the management of antidepressant discontinuation symptoms”. Therapeutic Advances in Psychopharmacology. 5 (6): 357–68. doi:10.1177/2045125315612334. PMC 4722507. PMID 26834969.
  9. ^ Gabriel, M; Sharma, V (ngày 29 tháng 5 năm 2017). “Antidepressant discontinuation syndrome”. Canadian Medical Association Journal. 189 (21): E747. doi:10.1503/cmaj.160991. PMC 5449237. PMID 28554948.
  10. ^ a b Cipriani, Andrea; Furukawa, Toshi A; Salanti, Georgia; Chaimani, Anna; Atkinson, Lauren Z; Ogawa, Yusuke; Leucht, Stefan; Ruhe, Henricus G; Turner, Erick H (2018). “Comparative efficacy and acceptability of 21 antidepressant drugs for the acute treatment of adults with major depressive disorder: a systematic review and network meta-analysis”. The Lancet. 391 (10128): 1357–1366. doi:10.1016/S0140-6736(17)32802-7. ISSN 0140-6736. PMC 5889788. PMID 29477251.
  11. ^ a b Barth, Michael; Kriston, Levente; Klostermann, Swaantje; Barbui, Corrado; Cipriani, Andrea; Linde, Klaus (2018). “Efficacy of selective serotonin reuptake inhibitors and adverse events: Meta-regression and mediation analysis of placebo-controlled trials”. British Journal of Psychiatry. 208 (2): 114–119. doi:10.1192/bjp.bp.114.150136. ISSN 0007-1250. PMID 26834168.
  12. ^ a b Jakobsen, JC; Gluud, C; Kirsch, I (ngày 25 tháng 9 năm 2019). “Should antidepressants be used for major depressive disorder?”. BMJ Evidence-based Medicine: bmjebm–2019–111238. doi:10.1136/bmjebm-2019-111238. PMID 31554608.
  13. ^ Cipriani, Andrea; Zhou, Xinyu; Del Giovane, Cinzia; Hetrick, Sarah E; Qin, Bin; Whittington, Craig; Coghill, David; Zhang, Yuqing; Hazell, Philip (2016). “Comparative efficacy and tolerability of antidepressants for major depressive disorder in children and adolescents: a network meta-analysis”. The Lancet. 388 (10047): 881–890. doi:10.1016/S0140-6736(16)30385-3. ISSN 0140-6736. PMID 27289172. When considering the risk-benefit profile of antidepressants in the acute treatment of major depressive disorder, these drugs do not seem to offer a clear advantage for children and adolescents.
  14. ^ Kirsch, Irving (2014). “Antidepressants and the Placebo Effect”. Zeitschrift für Psychologie. 222 (3): 128–134. doi:10.1027/2151-2604/a000176. ISSN 2190-8370. PMC 4172306. PMID 25279271.
  15. ^ Turner, Erick H; Rosenthal, Robert (2008). “Efficacy of antidepressants”. BMJ. 336 (7643): 516–517. doi:10.1136/bmj.39510.531597.80. ISSN 0959-8138. PMC 2265347. PMID 18319297.
  16. ^ http://www.cet.org/eng/Therapy_ExposureRisks_ENG.html Lưu trữ 2013-02-08 tại Wayback Machine[cần chú thích đầy đủ][nguồn y khoa không đáng tin cậy?]
  17. ^ “Depression in adults: The treatment and management of depression in adults”. NICE guidelines [CG90]. National Institute for Health and Care Excellence (UK). tháng 10 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2015.
  18. ^ “Practice Guideline for the Treatment of Patients With Major Depressive Disorder” (PDF). PsychiatryOnline .
  19. ^ Weber, Matthias M; Emrich, Hinderk M (1988). “Current and Historical Concepts of Opiate Treatment in Psychiatric Disorders”. International Clinical Psychopharmacology. 3 (3): 255–66. doi:10.1097/00004850-198807000-00007. PMID 3153713.
  20. ^ Czygan, Franz-C. (2003). “Kulturgeschichte und Mystik des Johanniskrauts: Vom 2500 Jahre alten Apotropaikum zum aktuellen Antidepressivum” [From a 2500 year old apotropic comes a current antidepressive. The cultural history and mistique of St. John's wort]. Pharmazie in unserer Zeit (bằng tiếng Đức). 32 (3): 184–90. doi:10.1002/pauz.200390062. PMID 12784538.
  21. ^ Selikoff, Irving J.; Robitzek, EH (1952). “Tuberculosis Chemotherapy with Hydrazine Derivatives of Isonicotinic Acid”. CHEST Journal. 21 (4): 385–438. doi:10.1378/chest.21.4.385. PMID 14906149.
  22. ^ a b Healy, D (2001). “The Antidepressant Drama”. Trong Weissman, MM (biên tập). The treatment of depression: bridging the 21st century. American Psychiatric Pub. tr. 10–1. ISBN 978-0-88048-397-1. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2009.
  23. ^ Healy, David (1996). The psychopharmacologists: interviews. London: Chapman and Hall. tr. 8. ISBN 978-1-86036-008-4.
  24. ^ Healy, David (1998). The Psychopharmacologists: Volume 2. A Hodder Arnold Publication. tr. 132–4. ISBN 978-1-86036-010-7.
  25. ^ http://www.cmcsb.com/tranquil.htm Lưu trữ 2012-09-16 tại Wayback Machine[cần chú thích đầy đủ][nguồn y khoa không đáng tin cậy?]
  26. ^ a b Healy, David (1999). “The Three Faces of the Antidepressants: A Critical Commentary on the Clinical-Economic Context of Diagnosis”. The Journal of Nervous & Mental Disease. 187 (3): 174–80. doi:10.1097/00005053-199903000-00007. PMID 10086474.
  27. ^ Pletscher, A. (1991). “The discovery of antidepressants: A winding path”. Experientia. 47 (1): 4–8. doi:10.1007/BF02041242. PMID 1999242.
  28. ^ Domino, EF (1999). “History of modern psychopharmacology: A personal view with an emphasis on antidepressants”. Psychosomatic Medicine. 61 (5): 591–8. PMID 10511010.
  29. ^ Wong, DT; Bymaster, FP; Horng, JS; Molloy, BB (1975). “A new selective inhibitor for uptake of serotonin into synaptosomes of rat brain: 3-(p-trifluoromethylphenoxy). N-methyl-3-phenylpropylamine”. The Journal of Pharmacology and Experimental Therapeutics. 193 (3): 804–11. PMID 1151730.
  30. ^ Freeman, H. (1996). “Tolerability and safety of novel antidepressants”. European Psychiatry. 11: 206s. doi:10.1016/0924-9338(96)88597-X.
  31. ^ Linde, K.; Ramirez, G.; Mulrow, C. D; Pauls, A.; Weidenhammer, W.; Melchart, D. (1996). “St John's wort for depression--an overview and meta-analysis of randomised clinical trials”. BMJ. 313 (7052): 253–8. doi:10.1136/bmj.313.7052.253. PMC 2351679. PMID 8704532.
  32. ^ Müller, W (2003). “Current St. John's wort research from mode of action to clinical efficacy”. Pharmacological Research. 47 (2): 101–9. doi:10.1016/S1043-6618(02)00266-9. PMID 12543057.
  33. ^ Nathan, P. J. (2001). “Hypericum perforatum (St John's Wort): A non-selective reuptake inhibitor? A review of the recent advances in its pharmacology”. Journal of Psychopharmacology. 15 (1): 47–54. doi:10.1177/026988110101500109. PMID 11277608.
  34. ^ “Top 200 generic drugs by units in 2010” (PDF). “Top 200 brand drugs by units in 2010” (PDF).
  35. ^ Tyler, VE (1999). “Herbs Affecting the Central Nervous System”. Trong Janick J (biên tập). Perspectives on New Crops and New Uses. ASHS Press. tr. 528. ISBN 978-0-9615027-0-6. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2009.
  36. ^ “GIPdatabank”. Gipdatabank.nl. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2008.

Trầm cảm là một vấn đề sức khỏe tâm thần bắt đầu thường xuyên nhất ở tuổi trưởng thành sớm. Nó cũng phổ biến hơn ở phụ nữ. Tuy nhiên, bất cứ ai ở mọi lứa tuổi đều có thể đối phó với trầm cảm.

Trầm cảm ảnh hưởng đến bộ não của bạn, vì vậy các loại thuốc hoạt động trong não của bạn có thể chứng minh có lợi. Thuốc chống trầm cảm thông thường có thể giúp giảm bớt các triệu chứng của bạn, nhưng cũng có nhiều lựa chọn khác.

Mỗi loại thuốc được sử dụng để điều trị trầm cảm hoạt động bằng cách cân bằng một số hóa chất trong não của bạn gọi là chất dẫn truyền thần kinh. Những loại thuốc này hoạt động theo những cách hơi khác nhau để giảm bớt các triệu chứng trầm cảm của bạn.

Nhiều loại thuốc phổ biến cho trầm cảm rơi vào các nhóm thuốc sau:

  • Các chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI)
  • Các chất ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine (SNRI)
  • Thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCA)
  • Thuốc chống trầm cảm Tetracyclic
  • Dopamine tái hấp thu
  • Thuốc đối kháng thụ thể 5-HT1A
  • Thuốc đối kháng thụ thể 5-HT2
  • Thuốc đối kháng thụ thể 5-HT3
  • Thuốc ức chế monoamine oxyase (MAOIS)
  • Thuốc đối kháng Noradrenergic

Thuốc chống trầm cảm không điển hình, mà don don rơi vào các loại thuốc này, và các chất bổ sung tự nhiên, như St. John, Wort, cũng có sẵn.

Đọc để tìm hiểu thêm về cách tất cả các loại thuốc này hoạt động và tác dụng phụ tiềm ẩn của chúng.

SSRI là loại thuốc chống trầm cảm được kê đơn phổ biến nhất. Sự mất cân bằng của serotonin có thể đóng một vai trò trong trầm cảm. Những loại thuốc này chống lại các triệu chứng trầm cảm bằng cách giảm tái hấp thu serotonin trong não của bạn. Hiệu ứng này để lại nhiều serotonin có sẵn để làm việc trong não của bạn.

SSRI bao gồm:

  • Sertraline (Zoloft)
  • Fluoxetine (Prozac, Sarafem)
  • Citalopram (Celexa)
  • Escitalopram (Lexapro)
  • paroxetine (Paxil, Pexeva, Brisdelle)
  • Fluvoxamine (Luvox)

Tác dụng phụ phổ biến của SSRI bao gồm:

  • buồn nôn
  • khó ngủ
  • lo lắng
  • run rẩy
  • Các vấn đề tình dục

Tìm hiểu thêm: Những gì bạn nên biết về các chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI).

SNRI giúp cải thiện nồng độ serotonin và norepinephrine trong não của bạn. Điều này có thể làm giảm các triệu chứng trầm cảm. Những loại thuốc này bao gồm:

  • desvenlafaxine (Pristiq, Khedezla)
  • Duloxetine (Cymbalta)
  • Levomilnacipran (Fetzima)
  • Venlafaxine (Effexor)

Ngoài việc điều trị trầm cảm, duloxetine cũng có thể làm giảm đau. Điều này rất quan trọng vì đau mãn tính có thể dẫn đến trầm cảm hoặc làm cho nó tồi tệ hơn. Trong một số trường hợp, những người bị trầm cảm trở nên nhận thức rõ hơn về đau nhức. Một loại thuốc điều trị cả trầm cảm và đau, chẳng hạn như duloxetine, có thể hữu ích cho những người này.

Tác dụng phụ phổ biến của SNRI bao gồm:

  • buồn nôn
  • khó ngủ
  • lo lắng
  • run rẩy
  • Các vấn đề tình dục

Tìm hiểu thêm: Những gì bạn nên biết về các chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI).

SNRI giúp cải thiện nồng độ serotonin và norepinephrine trong não của bạn. Điều này có thể làm giảm các triệu chứng trầm cảm. Những loại thuốc này bao gồm:

  • desvenlafaxine (Pristiq, Khedezla)
  • Duloxetine (Cymbalta)
  • Levomilnacipran (Fetzima)
  • Venlafaxine (Effexor)
  • Ngoài việc điều trị trầm cảm, duloxetine cũng có thể làm giảm đau. Điều này rất quan trọng vì đau mãn tính có thể dẫn đến trầm cảm hoặc làm cho nó tồi tệ hơn. Trong một số trường hợp, những người bị trầm cảm trở nên nhận thức rõ hơn về đau nhức. Một loại thuốc điều trị cả trầm cảm và đau, chẳng hạn như duloxetine, có thể hữu ích cho những người này.
  • Tác dụng phụ phổ biến của SNRI bao gồm:
  • buồn ngủ
  • sự mệt mỏi
  • táo bón

khô miệng

  • TCA thường được kê đơn khi SSRI hoặc thuốc chống trầm cảm khác làm việc. Nó không được hiểu đầy đủ về cách các loại thuốc này hoạt động để điều trị trầm cảm.
  • Các vấn đề tình dục
  • lo lắng
  • run rẩy

Các vấn đề tình dục

  • Tìm hiểu thêm: Những gì bạn nên biết về các chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI).
  • SNRI giúp cải thiện nồng độ serotonin và norepinephrine trong não của bạn. Điều này có thể làm giảm các triệu chứng trầm cảm. Những loại thuốc này bao gồm:
  • desvenlafaxine (Pristiq, Khedezla)

Duloxetine (Cymbalta)

Levomilnacipran (Fetzima)

Venlafaxine (Effexor)

  • khó ngủ
  • lo lắng
  • run rẩy
  • Các vấn đề tình dục
  • Tìm hiểu thêm: Những gì bạn nên biết về các chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI).
  • Các vấn đề tình dục

Tìm hiểu thêm: Những gì bạn nên biết về các chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI).

SNRI giúp cải thiện nồng độ serotonin và norepinephrine trong não của bạn. Điều này có thể làm giảm các triệu chứng trầm cảm. Những loại thuốc này bao gồm:

  • buồn nôn
  • khó ngủ
  • run rẩy
  • Các vấn đề tình dục
  • Tìm hiểu thêm: Những gì bạn nên biết về các chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI).

SNRI giúp cải thiện nồng độ serotonin và norepinephrine trong não của bạn. Điều này có thể làm giảm các triệu chứng trầm cảm. Những loại thuốc này bao gồm:

desvenlafaxine (Pristiq, Khedezla)

Duloxetine (Cymbalta)

  • buồn nôn
  • khó ngủ
  • khó ngủ

lo lắng

run rẩy

  • khó ngủ
  • Các vấn đề tình dục
  • Các vấn đề tình dục

Tìm hiểu thêm: Những gì bạn nên biết về các chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI).

SNRI giúp cải thiện nồng độ serotonin và norepinephrine trong não của bạn. Điều này có thể làm giảm các triệu chứng trầm cảm. Những loại thuốc này bao gồm:

  • Các vấn đề tình dục
  • buồn nôn

khó ngủ

lo lắng

Maois bao gồm:

  • Isocarboxazid (Marplan)
  • Phenelzine (Nardil)
  • Selegiline (EMSAM), xuất hiện như một bản vá qua transdermal
  • tranylcypromine (Parnate)

Maois cũng có nhiều tác dụng phụ. Chúng có thể bao gồm:

  • buồn nôn
  • chóng mặt
  • buồn ngủ
  • khó ngủ
  • bồn chồn

Mirtazapine (Remeron) được sử dụng chủ yếu cho trầm cảm. Nó làm thay đổi một số hóa chất trong não của bạn để giảm bớt các triệu chứng trầm cảm.

Tác dụng phụ phổ biến bao gồm:

  • buồn ngủ
  • chóng mặt
  • Tăng cân

Các loại thuốc trầm cảm khác không rơi vào các lớp điển hình. Chúng được gọi là thuốc chống trầm cảm không điển hình. Tùy thuộc vào tình trạng của bạn, bác sĩ của bạn có thể kê đơn một trong những lựa chọn thay thế này.

Ví dụ, olanzapine/fluoxetine (Symbyax) là một thuốc chống trầm cảm không điển hình. Nó được sử dụng để điều trị rối loạn lưỡng cực và trầm cảm lớn mà không đáp ứng với các loại thuốc khác.

Hỏi bác sĩ nếu điều trị bằng thuốc thay thế là một lựa chọn tốt cho bạn. Họ có thể nói với bạn nhiều hơn.

Tiếp tục đọc: Thuốc trầm cảm và tác dụng phụ.

Thuốc để điều trị trầm cảm thường đi kèm với tác dụng phụ. Những thay đổi cụ thể mà bạn có thể trải nghiệm phụ thuộc một phần vào loại thuốc mà bạn đang dùng.

Tác dụng phụ phổ biến:

  • Các triệu chứng tiêu hóa: khó tiêu, tiêu chảy, táo bón, mất cảm giác thèm ăn indigestion, diarrhea, constipation, loss of appetite
  • Cảm giác bệnh tật: đau đầu, chóng mặt, khô miệng, đổ mồ hôi headache, dizziness, dry mouth, sweating
  • Lo lắng: kích động, run rẩy, cảm giác lo lắng agitation, shakiness, nervous feeling
  • Nhịp tim thay đổi: đánh trống ngực, nhịp tim nhanh palpitations, fast heartbeat
  • Thay đổi tầm nhìn: Tầm nhìn mờ blurry vision
  • Thay đổi cân nặng: Giảm cân hoặc tăng cân bất ngờ unexpected weight loss or weight gain
  • Rối loạn chức năng tình dục: ham muốn tình dục thấp low sex drive
  • Thay đổi giấc ngủ: Mất ngủ insomnia

Bạn có thể trải nghiệm một số, nhiều, hoặc không có tác dụng phụ này.

Rủi ro sức khỏe tiềm ẩn:

  • Hội chứng serotonin. Hội chứng serotonin xảy ra khi nồng độ serotonin quá cao, thường là do kết hợp thuốc chống trầm cảm tăng nồng độ serotonin. Các triệu chứng bao gồm nhầm lẫn, co giật cơ, co giật, nhịp tim không đều hoặc vô thức. Serotonin syndrome occurs when serotonin levels are too high, usually because of combining antidepressants that raise serotonin levels. Symptoms include confusion, muscle twitching, seizures, irregular heartbeat, or unconsciousness.
  • Hạ natri máu. Hạ natri máu (natri máu thấp) là sự sụt giảm nguy hiểm của nồng độ muối trong cơ thể, thường được người lớn tuổi trải qua thuốc chống trầm cảm. Các triệu chứng bao gồm đau đầu, đau cơ, mất phương hướng, kích động hoặc co giật.. Hyponatremia (low blood sodium) is a dangerous drop in salt levels in the body, usually experienced by older adults taking antidepressants. Symptoms include headache, muscle pain, disorientation, agitation, or seizures.
  • Bệnh tiểu đường. Những người dùng thuốc chống trầm cảm có thể có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2 cao hơn. People who take antidepressants may be at greater risk of developing type 2 diabetes.
  • Suy nghĩ tự tử. Đôi khi mọi người, đặc biệt là những người trẻ tuổi, nghĩ về việc tự làm hại bản thân khi lần đầu tiên họ bắt đầu dùng thuốc chống trầm cảm. Trợ giúp có sẵn từ bác sĩ, dòng khủng hoảng hoặc phòng cấp cứu gần nhất. Sometimes people, particularly younger people, think about self-harm when they first start taking antidepressants. Help is available from your doctor, crisis line, or nearest emergency room.

Những rủi ro sức khỏe này xảy ra ít thường xuyên hơn các tác dụng phụ phổ biến của thuốc chống trầm cảm. Chúng đều là những điều kiện nghiêm trọng mà bạn có thể nhận được hỗ trợ từ bác sĩ hoặc chuyên gia sức khỏe tâm thần.

Thuốc chống trầm cảm, nói chung, có hiệu quả đối với trầm cảm từ trung bình đến nặng. Nhiều người nhận được một số giảm bớt các triệu chứng trầm cảm bằng cách dùng thuốc chống trầm cảm.

Một số phân tích gần đây đã xem xét sâu hơn về việc liệu thuốc chống trầm cảm có hoạt động hay không, và những nghiên cứu này hỗ trợ hiệu quả của chúng.

Một đánh giá năm 2018 về các thử nghiệm đo lường hiệu quả của 21 loại thuốc chống trầm cảm cho thấy mỗi loại thuốc này hoạt động tốt hơn giả dược. Đánh giá đã phân tích 522 nghiên cứu được thực hiện từ năm 1979 đến 2016, liên quan đến tổng cộng 116.477 người.

Một bài báo năm 2019 đã xem xét các nghiên cứu trước đây từ năm 1990 đến tháng 6 năm 2019 về hiệu quả chống trầm cảm. Các tác giả lưu ý tất cả các đánh giá thường cho thấy thuốc chống trầm cảm có hiệu quả, nhưng chỉ có hiệu quả nhẹ. Họ kết luận lợi ích chống trầm cảm là tối thiểu và tăng nguy cơ tác động có hại. Tuy nhiên, bài báo tuyên bố rằng nghiên cứu bổ sung là cần thiết để xác nhận hoặc tranh chấp rằng có nguy cơ có nguy cơ ảnh hưởng có hại.

Một phân tích dữ liệu năm 2020 cũng đã xem xét dữ liệu được công bố trước đây về hiệu quả chống trầm cảm. Nghiên cứu này đã đi đến kết luận ít lạc quan hơn về mức độ hiệu quả của thuốc chống trầm cảm.

Nghiên cứu đã xem xét liệu các phân tích trước đây có đánh giá thấp hiệu quả của thuốc chống trầm cảm hay không, do việc sử dụng quy mô xếp hạng trầm cảm Hamilton (HDRS). Với việc sử dụng một phép đo thay thế, quy mô xếp hạng trầm cảm Montgomery-Asberg (MADRS), các nhà nghiên cứu nhận thấy các nghiên cứu trước đây không đánh giá thấp hiệu quả. Nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng thuốc chống trầm cảm trên thực tế có thể không hoạt động tốt cho người bình thường.

Các nhà nghiên cứu cũng đã xem xét tính hiệu quả của thuốc chống trầm cảm trên các nhóm người, chẳng hạn như người lớn tuổi, trẻ em và thanh thiếu niên.

Một đánh giá năm 2020 về các nghiên cứu liên quan đến những người trên 65 tuổi được tìm thấy trung bình 50,7 % số người đạt được ít nhất 50 % trầm cảm, dựa trên HDR. Phân tích này đã xem xét 44 nghiên cứu với tổng cộng 6.373 người.

Một phân tích tổng hợp năm 2020 của các đánh giá trước đây đã xem xét hiệu quả và khả năng dung nạp thuốc chống trầm cảm ở những người dưới 18 tuổi. Những loại thuốc này được kê đơn cho trẻ em và thanh thiếu niên vì nhiều lý do. Đối với rối loạn trầm cảm lớn, phân tích tổng hợp chỉ tìm thấy fluoxetine (prozac) hoạt động tốt hơn giả dược. Đánh giá bao gồm 34 thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát liên quan đến 14 thuốc chống trầm cảm được chỉ định cho rối loạn trầm cảm lớn ở những người dưới 18 tuổi.

Bạn có thể quan tâm đến các lựa chọn tự nhiên để điều trị trầm cảm của bạn. Một số người sử dụng các phương pháp điều trị này thay vì thuốc, và một số sử dụng chúng như một phương pháp điều trị bổ sung cho thuốc chống trầm cảm của họ.

Thánh John John Wort là một loại thảo mộc mà một số người đã cố gắng cho trầm cảm. Theo Trung tâm Sức khỏe Bổ sung và Tích hợp Quốc gia, thảo mộc có thể có tác dụng tích cực nhẹ hoặc nó có thể không hoạt động tốt hơn giả dược. Loại thảo mộc này cũng gây ra nhiều tương tác thuốc có thể nghiêm trọng.

Thánh John John Wort tương tác với nhiều loại thuốc. Các loại thảo mộc có thể làm giảm hiệu quả của chúng hoặc gây ra tác dụng phụ tiêu cực. Bao gồm các:

  • Thuốc antiseizure
  • Cyclosporine
  • Một số loại thuốc tim
  • Một số thuốc trị ung thư
  • Một số thuốc HIV
  • một số statin
  • thuốc tránh thai
  • Warfarin (Coumadin)
  • Thuốc chống trầm cảm theo toa

Bổ sung S-adenosylmethionine (giống nhau) là một lựa chọn tự nhiên khác mà một số người đã cố gắng giảm bớt các triệu chứng trầm cảm của họ. Tương tự có thể giúp điều trị đau khớp, nhưng ở đó, không có nhiều hỗ trợ để cho thấy rằng nó giúp giảm trầm cảm. Điều trị này cũng có thể tương tác với thuốc theo toa.

Nhận thêm thông tin: Thánh John John có an toàn không?

Khi bạn quyết định dùng thuốc chống trầm cảm là phù hợp với bạn, có thể mất thời gian để tìm đúng. Mỗi người trải qua trầm cảm hơi khác nhau, vì vậy không có loại thuốc phù hợp với một kích cỡ nào.

Bạn có thể làm việc với bác sĩ để tìm thuốc hiệu quả và dễ uống. Một số yếu tố cần xem xét bao gồm:

  • Sức khỏe tổng thể của bạn. Một số thuốc chống trầm cảm có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các khía cạnh khác của sức khỏe thể chất hoặc tinh thần của bạn, vì vậy bác sĩ của bạn sẽ xem xét các điều kiện từ trước và các yếu tố sức khỏe khác. Some antidepressants can negatively affect other aspects of your physical or mental health, so your doctor will review preexisting conditions and other health factors.
  • Các loại thuốc khác. Thuốc chống trầm cảm có thể tương tác với các loại thuốc theo toa khác. Antidepressants can interact with other prescription medications.
  • Phản ứng phụ. Thuốc trầm cảm có thể gây ra các tác dụng phụ khiến bạn khó quản lý. Depression medication can cause side effects that make it hard for you to manage.
  • Chi phí kê đơn. Khả năng chi trả của thuốc và bảo hiểm là một yếu tố đối với nhiều người. Affordability of medication and insurance coverage is a factor for many people.
  • Tần suất của liều. Một thuốc chống trầm cảm hoạt động tốt nhất khi bạn sử dụng nó theo lịch trình thường xuyên theo quy định. Nếu đây là một thách thức, nó có thể là một cái gì đó để xem xét với bác sĩ của bạn khi chọn thuốc chống trầm cảm. An antidepressant works best when you take it on a regular schedule as prescribed. If this is a challenge, it may be something to consider with your doctor when choosing an antidepressant.

Bạn có thể phải uống thuốc trong 6 đến 8 tuần trước khi bạn bắt đầu cảm nhận đầy đủ các hiệu ứng, nhưng bạn có thể bắt đầu nhận thấy một số lợi ích trong vòng 2 đến 4 tuần đầu tiên.

Một số người chọn chuyển đổi thuốc hoặc ngừng dùng thuốc chống trầm cảm. Bác sĩ của bạn có thể giúp bạn thực hiện những thay đổi này, vì vậy hãy nói chuyện với họ nếu bạn cảm thấy thuốc không hoạt động cho bạn. Nếu bạn ngừng thuốc chống trầm cảm đột ngột, nó có thể gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng.

Khi nói đến điều trị trầm cảm, những gì làm việc cho một người có thể không làm việc cho người khác. Tìm đúng loại thuốc cho trầm cảm của bạn có thể mất thời gian.

Nếu bạn bắt đầu dùng thuốc cho trầm cảm, có thể mất thời gian để xác định liều điều trị phù hợp với bạn và bạn có thể cần phải thử một số loại thuốc khác nhau.

Hỏi bác sĩ của bạn sẽ mất bao lâu để thuốc của bạn hoạt động. Nếu các triệu chứng trầm cảm của bạn đã cải thiện sau đó, hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn. Họ có thể đề xuất một loại thuốc khác có thể hiệu quả hơn trong việc làm giảm trầm cảm của bạn.

10 loại thuốc chống trầm cảm hàng đầu là gì?

10 loại thuốc chống trầm cảm hàng đầu được kê đơn phổ biến nhất ở Hoa Kỳ bao gồm:..
Duloxetine (cymbalta).
Desvenlafaxine (Pristiq).
Vilazodone (VIIBRYD).
Citalopram (Celexa).
Sertraline (Zoloft).
Thuốc phổ biến nhất cho trầm cảm là gì?
Những loại được kê đơn phổ biến nhất bao gồm: các chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI) là loại thuốc chống trầm cảm được kê đơn nhiều nhất và bao gồm: fluoxetine.Citalopram.Sertraline.
Escitalopram (Lexapro).

Thuốc chống trầm cảm được kê đơn số 1 là gì?

Các thuốc chống trầm cảm phổ biến nhất là gì?Sertraline hydrochloride, được sử dụng cho nhiều rối loạn sức khỏe tâm thần và tâm trạng, là thuốc chống trầm cảm được kê đơn nhiều nhất trong danh sách với hơn 18 triệu đơn thuốc vào năm 2021.Sertraline hydrochloride, used for multiple mental health and mood disorders, is the most prescribed antidepressant on the list with more than 18 million prescriptions in 2021.

5 thuốc chống trầm cảm hàng đầu là gì?

Các chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI) là loại thuốc chống trầm cảm phổ biến nhất được kê đơn ...
Citalopram (Celexa).
Escitalopram (Lexapro).
Fluoxetine (Prozac).
Paroxetine (Paxil).
Sertraline (Zoloft).

Thuốc phổ biến nhất cho trầm cảm là gì?

Những loại được kê đơn phổ biến nhất bao gồm: các chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI) là loại thuốc chống trầm cảm được kê đơn nhiều nhất và bao gồm: fluoxetine.Citalopram.Sertraline.Selective serotonin reuptake inhibitors (SSRIs) are the most prescribed type of antidepressant and include: Fluoxetine. Citalopram. Sertraline.