Ý nghĩa của placebo trong nghiên cứu khoa học

Hiểu một cách nôm na, giả dược (Placebo) là thuốc nhưng không phải là thuốc, không hề chứa trong mình các thành phần có dược tính, hay nói cách khác là không có khả năng chữa bệnh. Nhưng bệnh nhân, trong điều kiệnkhông biếtđây là giả dược, vẫn thu được những tiến triển tích cực. Tác dụng của giả dược đã được biết tới từ hàng nghìn năm trước nhưng phải đến những năm cuối của thế kỉ 18, khái niệm này mới được công nhận một cách chính thức, được ghi vào trong từ điển y khoa.Rất nhiều các bác sỹ và các nhà khoa học cho rằng, tuy chỉ là một liệu pháp tâm lý nhưng dường như giả dược không chỉ có khả năng đánh lừa người bệnh, mà còn có thể giúp tăng cường quá trình trao đổi chất trong não bộ, tạo ra những phản ứng sinh hóa có tác dụng chữa trị hiệu quả...Thế nhưng, việc sử dụng giả dược bấy lâu nay vẫn gây ra tranh luận gay gắt trong giới y học, đặc biệt là về mặt đạo đức của nó. Để các bệnh nhân không biết họ đang được cho dùng giả dược, các bác sĩ thường phải dày công làm như thật, từ khám bệnh, kê đơn và cả… thu tiền. Nhưng nói một cách nghiêm khắc, bất kể là liệu pháp bằng giả dược có hiệu nghiệm hay không, thì đây vẫn là đang lừa dối bệnh nhân.

Ý nghĩa của placebo trong nghiên cứu khoa học

Trong vòng 7, 8 năm qua, đã có một loạt các thử nghiệm độc lập được thực hiện nhằm xác minh hiệu quả của giả dược trung thực trong các điều kiện khác nhau. Và kết quả thu được rất bất ngờ. Với những nhóm bệnh nhân được uống giả dược, họ được thông báo rõ ràng rằng những viên thuốc này không chưa các thành phần dược tính, thậm chí các nhóm nghiên cứ còn ghi rõ nhãn mác "giả dược" lên trên viên thuốc... Nhưng 59% bệnh nhân được cho uống giả dược vẫn xác nhận rằng những viên thuốc vô dụng kia thực sự đã đem đến những tiến triển có ý nghĩa về mặt lâm sàng.35% số người tham gia điều trị báo cáo có cải thiện về triệu chứng bệnh.Một nghiên cứu năm 2013thực hiện với hơn 700 bác sĩ đa khoa tại Anh Quốc cho thấy hầu hết tất cả các bác sĩ được khảo sát đều đã từng kê một liều giả dược vào thời điểm nào đó trong sự nghiệp của họ. Cụ thể hơn, 10% từng kê những liều giả dược "tinh khiết", có nghĩa là chúng thực sự là các viên đường hay các hoạt chất không có dược tính, trong khi đó 98% đã từng áp dụng một phương pháp điều trị có chứa những giả dược "không tinh khiết", có nghĩa là một loại thuốc có chứa dược tính nhưng không đủ tác dụng cho bệnh nhân đang được điều trị. Những giả dược "không tinh khiết" này có thể là lợi khuẩn chữa bệnh tiêu chảy, cho tới các kháng sinh chống virus.

Ý nghĩa của placebo trong nghiên cứu khoa học

Dần dần khái niệm giả dược được mở rộng hơn nữa. Người ta thấy rằng có thể tác động lên người bệnh không chỉ bằng các viên thuốc hay mũi tiêm placebo mà còn có rất nhiều thủ thuật y tế khác. Ví dụ, khi ta nói với người bệnh rằng đã thực hiện xong phẫu thuật nào đó (như với khối u ác tính trong ổ bụng), trong khi trên thực tế chỉ rạch một đường sau đó khâu lại, thì trong nhiều trường hợp bệnh nhân vẫn cảm thấy tình hình bệnh tật có tiến triển khá hơn. Thậm chí, ở một số bệnh nhân có thể thấy sức khoẻ tốt hơn khi đo thân nhiệt hay huyết áp.Ngày nay, "hiệu ứng placebo" được tạo nên chủ yếu bằng thuốc uống, dung dịch tiêm hay truyền tĩnh mạch, châm cứu và phẫu thuật hình thức (giả vờ) hay cung cấp thông tin giả nhưng có lợi cho bệnh nhân.

Các nghiên cứu cũng cho thấy, giả dược đem lại những hiệu ứng khác nhau đối với những bệnh lý khác nhau. Thông thường, chúng rất hiệu quả trong điều trị bệnh lý dạng tâm thần, tâm sinh lý hay thần kinh, như lo âu, thất vọng, suy nhược, mất ngủ, dị ứng, chàm... và ở mức độ thấp hơn với các bệnh lý như rối loạn chức năng dạ dày, bàng quang hay đái tháo đường."Trong cuộc sống hiện đại, nếu stress đã được chứng minh là có thể làm giảm sức đề kháng của cơ thể, thì ngược lại, những biện pháp giúp ổn định tâm lý, sảng khoái về mặt tinh thần sẽ giúp nâng cao đề kháng của cơ thể để chống lại bệnh tật," Teri Hoenemeyer, một nhà khoa học nghiên cứu về giả dược nhận định.

Ý nghĩa của placebo trong nghiên cứu khoa học

Có thể thấy rằng, placebo thực sự có tác dụng với những ai có niềm tin vào sức mạnh tinh thần của chính bản thân mình để vượt qua bệnh tật. Mặc dù khoa học y học ngày càng tiến bộ và chúng ta không thiếu những những phương pháp điều trị tiên tiến, hiện đại. Chúng ta cũng không thiếu những loại thuốc đặc hiệu. Nhưng ở một góc độ nào đó chúng ta vẫn rất cần placebo. Điều quan trọng là placebo mang lại niềm hy vọng sống cho chính bản thân người bệnh. Và điều đó cũng một lần nữa khẳng định rằng, sức mạnh tinh thần của con người là không có giới hạn.

(Theo Medscape)

• Tính điều kiện: Đây là yếu tố giống như là “phản xạ có điều kiện”. Nếu lần trước người bệnh được điều trị trong môi trường y khoa tốt bao gồm bác sĩ, thuốc điều trị tốt giúp khỏi bệnh, thì lần sau người bệnh sẽ có hiệu ứng tác động điều trị nơi đây giúp đỡ bệnh. Bên cạnh đó, người bệnh nghĩ rằng đang được cho sử dụng “thuốc thật”, thần kinh não bộ sẽ hoạt động bằng cách tạo ra endorphin nội sinh làm giảm các triệu chứng đau và cải thiện bệnh.

Hiệu ứng placebo không có tác dụng điều trị dứt điểm bệnh, mà chỉ có thể cải thiện các triệu chứng hoặc tình trạng sức khỏe ở mức độ cụ thể.

Hiệu ứng placebo có vi phạm tính đạo đức không?

Khi áp dụng phương pháp này, có nghĩa là bác sĩ đang “đánh lừa” bệnh nhân, dù cho thuốc có tác dụng tích cực đi chăng nữa. Bên cạnh đó, việc kê đơn thuốc giả dược để xoa dịu triệu chứng bệnh nhân có thể khiến việc chẩn đoán chính xác về một căn bệnh nghiêm trọng có thể bị trì hoãn, làm cho bệnh có thời gian tiến triển nặng hơn. Bác sĩ và dược sĩ cũng có khả năng gian lận trong chi phí thuốc điều trị.

Hiệu ứng placebo nếu được áp dụng đúng tình huống, đúng cách và có tác dụng như mong muốn vẫn được coi là phương pháp điều trị có hiệu quả.

Hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận về tính ứng dụng của hiệu ứng này, dù kết quả thực tế mà nó đã mang lại như thế nào chăng nữa. Ví dụ, trong việc điều trị một số bệnh nhân bị bỏng nhẹ, thuốc giảm đau opioid không phải lúc nào cũng có thể được sử dụng vì có thể gây suy hô hấp. Trong trường hợp này, một mũi tiêm nước muối được đưa ra dưới vỏ bọc thuốc giảm đau mạnh là đã có thể làm cải thiện triệu chứng đau của bệnh nhân.

Robert Buckman (Anh), bác sĩ ung thư lâm sàng và Giáo sư y khoa, đã kết luận rằng: “Hiệu ứng placebo là những phương thức điều trị đặc biệt dường như có tác dụng đối với hầu hết mọi triệu chứng mà con người biết đến và hoạt động ở ít nhất 30% số bệnh nhân và đôi khi lên đến 60%. Thuốc giả dược không gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng cũng như quá liều. Đây được coi là loại thuốc hiệu quả, an toàn và rẻ tiền nhất trong dược điển của thế giới“.

Hiệu ứng placebo đã được chứng minh qua nhiều thử nghiệm lâm sàng thực tế, đây là coi là phương thức điều trị tích cực về tâm lý thay thế phần nào cho cách điều trị chính thống. Tuy nhiên, bạn cũng cần tỉnh táo khi tự ý mua thuốc vì có thể trì hoãn thời gian chữa trị bệnh mà không hề biết do dùng phải giả dược đấy!

Hoàng Trí HELLO BACSI

Placebo trong tiếng Latinh có nghĩa là "Tôi được yêu thích". Trong y học, đó là các công cụ thay thế hay chữa bệnh bằng tác động "ảo", tức là không hề chữa trị thực sự về lâm sàng đối với bệnh tật, nhưng lại được các bác sĩ kê đơn cho bệnh nhân dưới danh nghĩa thuốc hay trị liệu tương ứng. Nhưng tại sao chúng ta lại vẫn cần tới thứ sản phẩm thay thế đó, lịch sử xung quanh vấn đề này là câu chuyện khá thú vị. Thực tế cho thấy, tuy bề ngoài có vẻ "vô bổ" nhưng chúng vẫn có ứng dụng khá rộng rãi và có hiệu quả nhất định(!). Các nhà khoa học Hoa Kỳ đã nghiên cứu nhiều năm về placebo và đưa ra những kết luận rất đáng quan tâm.

Thuật ngữ "placebo", hay hiệu ứng placebo (placebo effect), chính thức xuất hiện lần đầu vào năm 1894, để chỉ loại thuốc viên "rỗng" (không có dược chất), dùng qua đường uống, không có giá trị chữa bệnh lâm sàng, thường được các bác sĩ kê đơn cho những bệnh nhân ít có biểu hiện bệnh hay triệu chứng lâm sàng rất nghèo nàn, hoặc khi bệnh nhân mắc bệnh tưởng, trên thực tế hoàn toàn khoẻ mạnh. Thông thường, các viên thuốc này có thành phần trung tính và hoàn toàn vô hại, không mang lại tác dụng gì cho cơ thể con người, nói cách khác là không tốt và cũng không xấu, với thành phần chủ yếu là đường hoặc là gluconat canxi.

Ý nghĩa của placebo trong nghiên cứu khoa học

Một ca phẫu thuật placebo.

Có điều đáng ngạc nhiên là sau khi sử dụng những viên "thuốc" này, nhiều người trên thực tế lại cảm thấy sức khỏe của họ được cải thiện hơn nhiều. Ví dụ, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều bệnh viện và cơ sở điều trị dã chiến thiếu thuốc giảm đau trầm trọng, không biết làm thế nào trước những kêu la đòi hỏi của người bệnh, người ta đã có sáng kiến dùng các placebo để thay thế và trong nhiều trường hợp chúng tỏ ra khá hiệu quả, nhiều thương binh và bệnh nhân cảm thấy mình thực sự đỡ đau hơn.

Trước thực tế này, vào năm 1946, Đại học Cornell (Hoa Kỳ) tổ chức hội nghị đầu tiên về tác dụng của placebo lên cơ thể bệnh nhân. Bước phát triển tiếp theo, năm 1955, BS. Henry Beecher ở Boxton (Hoa Kỳ), tác giả của cuốn sách The powerful placebo (Placebo công hiệu) công bố trên tạp chí y học kết quả 15 thử nghiệm lâm sàng trên những người mắc bệnh thực sự thì thấy có 1/3 những trường hợp này bệnh tật đã được cải thiện đáng kể sau khi sử dụng placebo. Tác giả viết rằng, placebo có thể tạo nên những thay đổi đáng kể đối với sức khỏe, trong đó bao gồm những tác động trực tiếp lên các cơ quan bị bệnh, thậm chí tác động đó có biểu hiện rõ nét hơn so với tác động điều trị thông thường. Còn Garry Gold, một nhà khoa học khác từ Đại học Cornell (Hoa Kỳ) cho rằng, placebo có hiệu quả trị liệu rất lớn trong điều trị bệnh tim mạch, ngoài ra chúng còn tạo nên trong cơ thể những phản ứng tương tự như khi uống một chút rượu hay sử đồ uống có caffein.

Dần dần khái niệm placebo được mở rộng hơn nữa. Người ta thấy rằng có thể tác động lên người bệnh không chỉ bằng các viên thuốc hay mũi tiêm placebo mà còn có rất nhiều thủ thuật y tế khác. Ví dụ, khi ta nói với người bệnh rằng đã thực hiện xong phẫu thuật nào đó (như với khối u ác tính trong ổ bụng), trong khi trên thực tế chỉ rạch một đường sau đó khâu lại, thì trong nhiều trường hợp bệnh nhân vẫn cảm thấy tình hình bệnh tật có tiến triển khá hơn. Thậm chí, ở một số bệnh nhân có thể thấy sức khoẻ tốt hơn khi đo thân nhiệt hay huyết áp.

 Ngày nay, hiệu ứng placebo được tạo nên chủ yếu bằng thuốc uống, dung dịch tiêm hay truyền tĩnh mạch, châm cứu và phẫu thuật hình thức (giả vờ) hay cung cấp thông tin giả nhưng có lợi cho bệnh nhân.

Các nghiên cứu cũng cho thấy, placebo đem lại những hiệu ứng khác nhau đối với những bệnh lý khác nhau. Thông thường, chúng rất hiệu quả trong điều trị bệnh lý dạng tâm thần, tâm sinh lý hay thần kinh, như lo âu, thất vọng, suy nhược, mất ngủ, dị ứng, chàm... và ở mức độ thấp hơn với các bệnh lý như rối loạn chức năng dạ dày, bàng quang hay đái tháo đường.

Ý nghĩa của placebo trong nghiên cứu khoa học

Một số loại “thuốc” placebo.

Placebo thường tỏ ra hữu ích khi điều trị bệnh về thần kinh hay một số triệu chứng cơ năng tim mạch như rối loạn nhịp tim, đánh trống ngực, ngoại tâm thu. Ví dụ, bệnh đau đầu có thể được chữa trị bằng thuốc viên "ảo", hoặc giả vờ châm cứu. Đối với những tổn thương nặng bên ngoài cơ thể hay bệnh truyền nhiễm, placebo ít có tác dụng. Điều này cho phép các nhà khoa học kết luận rằng hiệu quả trị liệu của placebo trên thực tế chỉ xuất hiện với các bệnh lý ít nhiều liên quan tới hoạt động của hệ thống thần kinh.

Ngày nay, placebo còn được sử dụng khá thường xuyên trong các thử nghiệm lâm sàng, khi cần tới các nhóm đối chứng. Ví dụ, một nhóm bệnh nhân sử dụng thuốc thật, trong khi nhóm đối chứng chỉ dùng placebo, nhưng không ai trong số họ biết được trên thực tế đang dùng loại nào. Nếu nhóm dùng thuốc thật có tiến triển tích cực, còn nhóm đối chứng không có thay đổi nào đáng kể, thì điều đó có nghĩa là thuốc đã có tác dụng tốt. Tuy nhiên, vẫn có hiện tượng tình trạng sức khoẻ của một số bệnh nhân khá hơn sau khi dùng "thuốc ảo".

Thử nghiệm mang tính cách mạng nhất nhằm nghiên cứu tác dụng của placebo mới được các nhà khoa học tại Đại học Michigan (Hoa Kỳ) tiến hành gần đây. Nhóm các nhà khoa học dưới sự lãnh đạo của Ion-Kar Zubieta đã tiêm dung dịch muối loãng vào hầu họng của 14 người tình nguyện và theo dõi phản ứng của họ thông qua điện não đồ. Thủ tục tiêm dung dịch muối khá đau đớn, nhưng họ giải thích cho riêng một số người tình nguyện rằng họ đã trộn cả thuốc giảm đau vào dung dịch này. Cho dù đó là lời nói dối vì mục đích khoa học đơn thuần, nhưng máy móc đã ghi nhận được sự phản ứng hay sự thay đổi tức thì trong não bộ: các tuyến thần kinh bắt đầu sản sinh ra hormon endorphin, và các cơ quan cảm thụ đau đớn đã bị hormon endorphin cô lập hoàn toàn. Ion-Kar Zubieta cho biết, thí nghiệm này đã bác bỏ quan niệm sai lầm tồn tại từ trước tới nay cho rằng, placebo chỉ gây ra hiệu ứng tâm lý đơn thuần, chứ không tạo nên hiệu ứng cơ học, hóa học nào đối với cơ thể cả, trong khi trên thực tế mối quan hệ giữa thân thể và não bộ là rất rõ ràng, hay nói cách khác là não bộ có vai trò rất quan trọng đối với cơ thể, ngay cả đối với điều trị các tổn thương của cơ thể.

Ngược lại với placebo là liệu pháp nocebo hay hiệu ứng nocebo (nocebo effect), cũng xuất phát từ thuật ngữ bằng tiếng Latinh, có nghĩa là "Tôi chắc chắn bị thương tổn". Trong trường hợp này, sau khi sử dụng thuốc "ảo", một số bệnh nhân thuộc nhóm đối chứng có thể cho rằng, tình hình bệnh tật hay sức khỏe của họ không những không được cải thiện, mà còn có chiều hướng xấu đi. Thông thường, những người này có thiên hướng quá nhạy cảm, phủ nhận tác động tích cực của liệu pháp placebo, luôn bi quan và cho rằng bản thân họ không có khả năng phục hồi sức khỏe hay chiến thắng bệnh tật.

             Đỗ Minh Thái (Tổng hợp theo tài liệu nước ngoài)