Ý nghĩa của chiến dịch Tây Nguyên trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là

Phát biểu tại hội thảo, Trung tướng Nguyễn Tân Cương nhấn mạnh: Tây Nguyên có vị trí chiến lược rất quan trọng, nên Mỹ-ngụy đã biến nơi đây thành một căn cứ chiến lược lớn, hòng đè bẹp cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương, ngăn chặn sự chi viện của ta từ miền Bắc vào và từ rừng núi xuống đồng bằng Khu 5.

Để mở đường cho Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị về giải phóng miền Nam trong năm 1975, tháng 1-1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp quán triệt và quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh nam Tây Nguyên (Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức), thực hiện chia cắt chiến lược và tạo thế chiến lược mới trên chiến trường toàn miền Nam.

Chiến dịch Tây Nguyên-mở đầu Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 thắng lợi vang dội có ý nghĩa cả về chính trị và quân sự. Thắng lợi quan trọng này đã góp phần vào việc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, đầy gian khổ hy sinh, nhưng rất anh dũng, kiên cường của quân dân ta, là thắng lợi mang ý nghĩa dân tộc và ý nghĩa thời đại sâu sắc, là kết quả sự nỗ lực vượt bậc, chiến đấu hy sinh, nêu cao tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Ý nghĩa của chiến dịch Tây Nguyên trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là
Ý nghĩa của chiến dịch Tây Nguyên trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là
Ý nghĩa của chiến dịch Tây Nguyên trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là
Ý nghĩa của chiến dịch Tây Nguyên trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là
Ý nghĩa của chiến dịch Tây Nguyên trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là
Đoàn Chủ tịch điều hành hội thảo.

Tại hội thảo, các ý kiến và tham luận của đại biểu nhấn mạnh: Xuất phát từ vị trí chiến lược trọng yếu của Tây Nguyên trong chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc và thực tế tình hình trên chiến trường đang có thuận lợi nên Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã chọn Tây Nguyên làm điểm mở đầu, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh nam Tây Nguyên, thực hiện chia cắt chiến lược và tạo thế chiến lược mới trên chiến trường toàn miền Nam. Thắng lợi to lớn của Chiến dịch Tây Nguyên đã tạo ra sự thay đổi căn bản về so sánh lực lượng và thế chiến lược có lợi cho ta, còn địch bị suy sụp và tan rã về chiến lược, dẫn đến co cụm và bị động đối phó trên các chiến trường. Chiến thắng Tây Nguyên đã mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam để quân và dân ta tiếp tục thực hiện các đòn tiến công quân sự lớn, phát triển Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Hội thảo khoa học “Chiến thắng Tây Nguyên mở đầu Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975”, đã góp phần làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của Chiến dịch Tây Nguyên, khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, tầm nhìn chiến lược của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, mở đầu Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đánh dấu bước phát triển đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, mang tầm vóc và có ý nghĩa lịch sử to lớn.

Tin, ảnh: LÊ QUANG HỒI

“Đòn điểm huyệt” táo bạo và chính xác này đã làm cho quân địch tê liệt và rối loạn ngay từ khi mở màn, tạo ra tình thế và thời cơ thuận lợi để quân và dân ta làm nên thắng lợi “thần tốc” của một cuộc tổng tiến công lớn nhất trong lịch sử quân sự nước nhà. Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyênlà sự kết tinh nhiều yếu tố hợp thành sức mạnh chiến đấu vô địch của quân và dân ta. Trong đó, nhân tố chính trị, tinh thần đóng một vai trò đặc biệt quan trọng.

Nhân tố chính trị, tinh thần của một đội quân, một dân tộc trong mỗi cuộc chiến tranh là một hệ thống phức hợp những giá trị và sự ý thức về những giá trị ấy, tạo nên trạng thái cảm xúc, tâm lý tích cực giúp cho mỗi cá nhân nói riêng, cả một đội quân, một dân tộc nói chung luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù.

Điều đó được biểu hiện cụ thể ở việc mỗi người luôn nhận thức đúng đắn về tính chính nghĩa của cuộc chiến tranh mà mình theo đuổi, ở trạng thái quyết tâm cao độ, ở ý chí sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách, ở niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng. Trong mối quan hệ với các nhân tố khác để tạo nên sức mạnh chiến đấu của một đội quân, nhân tố chính trị, tinh thần đóng vai trò nền tảng, là chất xúc tác để nhân lên sức mạnh, giúp cho một đội quân có thể vượt qua được sự chênh lệch, thua kém trong tương quan so sánh tiềm lực vật chất, vũ khí, trang bị để giành thắng lợi cuối cùng.

Ý nghĩa của chiến dịch Tây Nguyên trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là
Ý nghĩa của chiến dịch Tây Nguyên trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là
Ý nghĩa của chiến dịch Tây Nguyên trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là
Ý nghĩa của chiến dịch Tây Nguyên trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là
Ý nghĩa của chiến dịch Tây Nguyên trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là
Đoàn xe vận tải 238 vận chuyển hàng hóa cho chiến dịch Tây Nguyên. Ảnh tư liệu TTXVN

Toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta nói chung, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, trong đó có chiến dịch Tây Nguyên nói riêng là minh chứng sống động và thuyết phục cho điều đó. Với sức mạnh của nhân tố chính trị, tinh thần, dân tộc ta - một dân tộc còn nghèo nàn, lạc hậu, vừa phải trải qua những năm tháng bị chiến tranh tàn phá nặng nề - đã chiến đấu và chiến thắng đế quốc Mỹ.

Đó là một thắng lợi vĩ đại, thần kỳ, khiến cả nhân loại và chính kẻ thù phải ngỡ ngàng, nhưng hoàn toàn không phải là một thắng lợi “phi lý”, mà chính nó đã phản ánh đầy đủ nhất quy luật của chiến tranh, đó là “mạnh được, yếu thua”. Xuyên suốt cuộc chiến, những kẻ cầm đầu đế quốc Mỹ đã không thể hiểu ra điều đó, để rồi phải đến nhiều năm sau, họ mới nhận ra điều gì đã biến Quân đội nhân dân Việt Nam trở nên mạnh hơn Quân đội Mỹ, đó chính là nhân tố chính trị, tinh thần. Như chính tướng Mc Namara sau này đã phải thừa nhận với Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Mỹ đã thất bại vì không hiểu gì về lịch sử, truyền thống và văn hóa Việt Nam, thất bại vì chưa đánh giá đúng vai trò nhân tố chính trị, tinh thần của nhân dân Việt Nam.

Chiến dịch Tây Nguyên, chúng ta đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để mỗi cán bộ, chiến sĩ bước vào trận với trạng thái tâm lý tích cực nhất. Những điều kiện ấy bao gồm:

Thứ nhất, quân dân ta đã có sự chuẩn bị chu đáo cho chiến dịch. Ngay sau khi Hiệp định Paris được ký kết (27-1-1973), Đảng ta vẫn luôn nhận định dù Mỹ đã rút quân khỏi Việt Nam, nhưng chúng sẽ không từ bỏ dã tâm xâm lược, cố tình xâm phạm hiệp định. Vì vậy, ngày 28-1-1973, chỉ một ngày sau khi ký kết Hiệp định Paris, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra lời kêu gọi: “Cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất lớn, nhưng cuộc đấu tranh của nhân dân ta còn phải tiếp tục củng cố những thắng lợi giành được và tiến lên giành những thắng lợi mới”.

Quán triệt và thực hiện lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương, bộ đội ra trên các chiến trường chấp hành nghiêm chỉ thị, mệnh lệnh của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh về sẵn sàng chiến đấu. Cuối tháng 1 năm 1973, Thường vụ Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên ra Nghị quyết “Tình hình và nhiệm vụ mới”, xác định nhiệm vụ của lực lượng vũ trang Tây Nguyên là: Khẩn trương, tích cực củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng chiến đấu của cả ba thứ quân đáp ứng tình hình nhiệm vụ mới.

Ngày 13-10-1973, Ban Chấp hành Trung ương ra Nghị quyết số 21 về “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới”. Ngày 14-2-1974, Quân ủy Trung ương đã phổ biến cho Đảng ủy và Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên về chủ trương của Nghị quyết Trung ương 21, đồng thời chỉ rõ: “Cách mạng miền Nam có thể phải trải qua nhiều bước quá độ và chỉ có thể giành được thắng lợi bằng con đường bạo lực cách mạng”.

Bất kể trong tình huống nào cũng phải nắm vững thời cơ, nắm vững đường lối chiến lược tiến công. Căn cứ vào tình hình cụ thể của chiến trường, tháng 10-1974, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền Nam - Bắc giải phóng hoàn toàn miền Nam trong thời gian 1975 - 1976, đồng thời còn dự kiến: “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.

Ngày 5-2-1975, tại Sở Chỉ huy tiền phương của Bộ ở Tây Nguyên, đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh tuyên bố thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên và công bố quyết định thành lập Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên: Đồng chí Đại tá Đặng Vũ Hiệp được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Chiến dịch; đồng chí Trung tướng Hoàng Minh Thảo được chỉ định làm Phó bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Chiến dịch. Lực lượng của ta khi bước vào chiến dịch bao gồm: Lực lượng bộ binh, gồm 5 sư đoàn: Sư đoàn 316, Sư đoàn 10, Sư đoàn 3 (thiếu), Sư đoàn 320, Sư đoàn 968 và 4 trung đoàn độc lập: Trung đoàn 25, Trung đoàn 271, Trung đoàn 95A, Trung đoàn 95B; lực lượng binh chủng gồm: Trung đoàn Tăng thiết giáp 273; 2 Trung đoàn pháo binh (40, 675), 3 trung đoàn cao xạ (234, 232, 593), 2 Trung đoàn công binh (5 và 575), Trung đoàn Đặc công 198 và 1 Tiểu đoàn đặc công của Bộ; cùng với đó là các lực lượng địa phương đông đảo.

Trên nền tảng của chiến tranh nhân dân phát triển đến đỉnh cao, ta không chỉ xây dựng được lực lượng mạnh với khả năng tác chiến binh chủng hợp thành, mà còn có sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng hậu cần, kỹ thuật phục vụ cho tác chiến ở các quy mô, cả chiến lược và chiến dịch. Với lực lượng đó, chúng ta đã tạo một sức mạnh vật chất vượt trội so với đối phương, nhất là trên những địa bàn chiến lược.

Như vậy, có thể thấy chúng ta đã có cả một quá trình dài chuẩn bị một cách toàn diện cho Chiến dịch Tây Nguyên, tạo sức mạnh vật chất vượt trội so với đối phương, đảm bảo chắc chắn cho thắng lợi. Đây chính là yếu tố đặc biệt quan trọng giúp cho quân dân ta củng cố niềm tin và ý chí quyết thắng khi bước vào chiến dịch.

Thứ hai, chúng ta có nghệ thuật quân sự độc đáo. Chiến dịch Tây Nguyên thể hiện nghệ thuật nghi binh lừa địch tài tình của ta. Từ tháng 1-1975, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã chọn Tây Nguyên làm chiến dịch mở đầu và quyết định “Lấy Buôn Ma Thuột làm trận then chốt quyết định của Chiến dịch Tây Nguyên”. Tuy nhiên, nếu địch phát hiện được ý định này, tăng cường lực lượng cho Buôn Ma Thuột thì ta sẽ gặp nhiều khó khăn.

Vì vậy, ngoài các lực lượng đứng chân tại chiến trường, ta rút Sư đoàn 968 từ chiến trường Nam Lào về thế chỗ cho Sư đoàn 10 và 320 ở Bắc tỉnh Kon Tum và Tây tỉnh Pleiku làm nhiệm vụ nghi binh. Các hoạt động nghi binh sau đó đã được quân ta thực hiện một cách hoàn hảo, tới mức đến tận ngày 8 và 9 tháng 3 năm 1975, khi quân ta đánh vào quận lỵ Thuần Mẫn và quận lỵ Đức Lập, khiến Buôn Ma Thuột bị sơ hở rõ rệt mà tướng Phạm Văn Phú của vẫn không đoán biết được ý đồ tác chiến của ta.

Mãi đến 4 giờ sáng ngày 10-3-1975, khi xe tăng của ta đã tiến vào Buôn Ma Thuột, Đại tá Lê Khắc Hy, Tham mưu trưởng Quân khu 2 - Quân đoàn 2 quân đội Sài Gòn vào phòng ngủ đánh thức, tướng Phạm Văn Phú mới biết Buôn Ma Thuột là mục tiêu chính của ta thì đã quá muộn.

Có thể nói, nghệ thuật quân sự đặc sắc của Việt Nam đã được vận dụng đặc biệt hiệu quả trong Chiến dịch Tây Nguyên. Chính điều này góp phần rất quan trọng củng cố niềm tin của cán bộ, chiến sĩ vào sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, thêm quyết tâm thắng lợi.

Thứ ba, chúng ta có hậu phương vững chắc. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, khi bước vào Chiến dịch Tây Nguyên nói riêng, Quân đội ta luôn có một điểm tựa vững chắc từ hậu phương. Đó không chỉ là sự ủng hộ trực tiếp của nhân dân đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, của hậu phương chiến lược miền Bắc, mà còn bao gồm cả sự ủng hộ cả vật chất và tinh thần của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.

Đối với miền Nam, miền Bắc có ý nghĩa không chỉ là nơi cung cấp nhân tài, vật lực với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, mà còn là một định hướng hiện hữu để nhân dân miền Nam chiến đấu, chiến thắng. Quá trình chuẩn bị và bước vào cuộc chiến dịch, bằng nguồn lực tại chỗ, bằng cả nguồn lực từ sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã cung cấp tối đa sức mạnh vật chất cho chiến trường. Một đội quân luôn có hậu phương vững chắc làm điểm tựa chắc chắn sẽ trở thành một đội quân hùng mạnh.

Thứ tư, công tác đảng, công tác chính trị trong chiến dịch đóng vai trò quan trọng. Xuyên suốt cả trước, trong và sau Chiến dịch Tây Nguyên, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị luôn được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, trực tiếp là Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đặc biệt quan tâm, chú trọng.

Trước chiến dịch, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị được tập trung vào lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị lực lượng, xây dựng kế hoạch tác chiến, hạ quyết tâm chiến đấu và quyết nghị chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo chiến dịch; quán triệt chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của cấp trên, ra chỉ thị và kế hoạch công tác đảng, công tác chính trị; tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, khơi sâu lòng căm thù giặc và ý chí quyết tâm chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ; phát động thi đua giết giặc lập công; kiện toàn cấp ủy, tổ chức đảng, điều động cán bộ tăng cường.

Trong chiến dịch, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị tập trung vào việc thường xuyên, liên tục củng cố ý chí quyết tâm chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ; tuyên truyền, cổ động, cổ vũ chiến trường; thường xuyên, kịp thời củng cố, kiện toàn, bổ sung các cấp ủy, chỉ huy bảo đảm giữ vững lãnh đạo, chỉ huy trong suốt quá trình tác chiến; triển khai công tác dân vận, địch vận; làm tốt công tác chính sách với thương binh, liệt sĩ. Tất cả những hoạt động đó đã trực tiếp góp phần cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ vượt qua mọi hy sinh gian khổ, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao.

Thứ năm, những thắng lợi thực tiễn trên chiến trường làm đòn bẩy. Đây là thành tố đóng vai trò rất quan trọng, trực tiếp tạo nên niềm tin, ý chí quyết thắng của quân và dân ta. Chúng ta bước vào Chiến dịch Tây Nguyên với tâm thế của những người đang trên đường đi tới ngày thắng lợi cuối cùng, khi mà đã từng bước và liên tục đánh bại Mỹ xuyên suốt hơn hai mươi năm kháng chiến. Chúng ta đã khiến cho tất cả các chiến lược chiến tranh tinh vi nhất của Mỹ áp dụng ở Việt Nam đều thất bại, từ “chiến tranh đơn phương”, “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” đến “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Đặc biệt, sự thảm bại của Mỹ trong “Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không” lịch sử cuối năm 1972 đã thêm một lần vạch trần toàn bộ bản chất dối trá, phản động cũng như sự bất lực của Mỹ, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Paris, đồng thời đã tiếp thêm tinh thần chiến đấu cho quân và dân ta.

Ngược lại, những thất bại liên tiếp trên chiến trường đã khiến cho tinh thần chiến đấu của quân địch sa sút đến cực độ. Thực tế diễn biến của Chiến dịch Tây Nguyên và những chiến dịch tiếp nối sau đó đã cho thấy, ta càng đánh càng mạnh, khí thế quyết chiến quyết thắng càng dâng cao; địch càng đánh càng thua, hoàn toàn mất ý chí chiến đấu. Chính điều đó đã mở ra cơ hội để quân dân ra rút ngắn thời gian thực hiện giải phóng miền Nam từ 2 năm đến 1 năm và cuối cùng là trước mùa mưa năm 1975.

Như vậy, quân dân ta đã bước vào Chiến dịch Tây Nguyên với trạng thái tâm lý, tinh thần tốt nhất, ý chí quyết tâm cao nhất, tin tưởng nhất. Đó là một “trạng thái hoàn hảo” của nhân tố chính trị, tinh thần, và chính nhân tố này đã góp phần đặc biệt quan trọng để quân dân ta chiến đấu và chiến thắng.

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên vẫn để lại cho chúng ta những bài học giá trị. Trong tình hình mới hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Thấu suốt những bài học lịch sử, trong đó có bài học về phát huy nhân tố chính trị, tinh thần trong Chiến dịch Tây Nguyên sẽ giúp chúng ta luôn giữ vững niềm tin, đập tan mọi luận điệu tuyên truyền phản động của các thế lực thù địch, tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành xuất sắc trọng trách cao quý mà Đảng và nhân dân giao phó.

Đại tá, PGS, TS NGUYỄN VĂN SÁU, Phó viện trưởng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam