Vì sao ở nhóm nước phát triển có sản lượng điện bình quân đầu người cao


So sánh nhu cầu tiêu thụ năng lượng sơ cấp của Việt Nam với thế giới


KỲ 1: NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT ĐIỆN TRÊN TOÀN CẦU VÀ VIỆT NAM

Tình hình sản xuất điện năm 2019 toàn thế giới, các khu vực, nhóm nước và các nước đại diện được trình bày ở Bảng 1, các Hình 1, 2, 3 và 4 sau đây:

Bảng 1:

Khu vực và nhóm nước

Sản lượng điện năm 2019

 

Tổng số (TWh)

Tăng so với 2018 (%)

Tăng b/q từ 2008-2018 (%)

Tỷ phần thế giới (%)

 
 

Bắc Mỹ

5425.7

-0.6

0.3

20.1

 

Nam và Trung Mỹ

1329.3

-0.1

2.2

4.9

 

Châu Âu

3993.3

-1.8

-0.1

14.8

 

CIS

1431

1

1

5.3

 

Trung Đông

1264.7

3.3

4.8

4.7

 

Châu Phi

870.1

2.9

3.2

3.2

 

Châu Á-TBD

12690.5

3.1

5.4

47

 

Thế giới

27004.7

1.3

2.7

100

 

- OECD

11136

-1

0.2

41.2

 

- Ngoài OECD

15868.7

3

5.1

58.8

 

- EU

3215.3

-1.7

-0.4

11.9

 


Hình 1:

Vì sao ở nhóm nước phát triển có sản lượng điện bình quân đầu người cao


Hình 2:

Vì sao ở nhóm nước phát triển có sản lượng điện bình quân đầu người cao


Hình 3:

Vì sao ở nhóm nước phát triển có sản lượng điện bình quân đầu người cao


Hình 4:

Vì sao ở nhóm nước phát triển có sản lượng điện bình quân đầu người cao

Nguồn: [1] và tính toán, tổng hợp của tác giả. 

Ghi chú: TWh: tỷ kWh; Nước đại diện là nước có sản lượng điện ≥ 0,1% sản lượng điện thế giới; Trung Quốc: 7.503,4 TWh. 


Nhận xét về tổng sản lượng điện sản xuất năm 2019 của thế giới: 

Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, ngành sản xuất điện toàn cầu cũng không tránh khỏi sự ảnh hưởng. Tổng sản lượng điện toàn cầu đạt 27.004,7 tỷ kWh, tuy tăng 1,3% so với năm 2018 song mức tăng chỉ bằng xấp xỉ một nửa mức tăng bình quân trong giai đoạn 2008 - 2018 là 2,7%/năm.

Các khu vực có sản lượng điện tăng gồm: CIS (1,0%); Trung Đông (3,3%); châu Phi (2,9%) và châu Á-TBD (3,1%). Ngoại trừ CIS, các khu vực này đều có mức tăng thấp hơn mức tăng bình quân trong giai đoạn 2008 - 2018, nhất là châu Á-TBD (3,1% < 5,4%) và Trung Đông (3,3% < 4,8%).

Các khu vực có sản lượng điện giảm gồm: Bắc Mỹ (0,6%); Nam và Trung Mỹ (0,1%); châu Âu (1,8%). Trong đó, châu Âu có mức giảm mạnh so với mức giảm bình quân trong giai đoạn 2008 - 2018 là 0,1%.

Nhóm các nước OECD giảm 1%, EU giảm 1,7%, trong khi nhóm các nước ngoài OECD tăng 3,0%, nhờ đó kéo theo sự gia tăng của toàn cầu 1,3%.

Xét theo từng nước thì ngay trong một khu vực, nhóm nước cũng có nước tăng, thậm chí tăng cao và có nước giảm, thậm chí giảm mạnh. Cụ thể là: 

1/ Tại Bắc Mỹ: Canada tăng 1,2%; Mexico tăng 4,2%, còn Mỹ giảm 1,3%.

2/ Tại Nam và Trung Mỹ: Đa phần các nước tăng, trong đó Ecuado tăng tới 10,7% và có 3 nước giảm: Ác-hen-ti-na giảm 4,7%; Colombia giảm 3,9% và Venezuela giảm tới -19,3%.

3/ Tại châu Âu: Đa phần các nước giảm, trong đó giảm sâu nhất là Bồ Đào Nha (10%); Na Uy (8,3%); Rumani (8,2%) và Hy Lạp - 5,8%. Ngược lại, một số nước tăng, thậm chỉ tăng cao như Bỉ (24,9%); Áo (8,0%); Hungari (6,0%) và Hà Lan (5,8%).

4/ Tại CIS: Các nước đều tăng theo đà tăng của giai đoạn 2008 - 2018, nhờ đó cả khu vực tăng 1% bằng mức tăng bình quân của giai đoạn 2008 - 2018 là 1%.

5/ Tại Trung Đông: Hầu hết các nước tăng, trong đó Iraq tăng cao tới 31,6%; chỉ có Ôman và Ả rập Xê-ud giảm nhẹ, tương ứng là - 0,7% và - 0,5%.

6/ Tại châu Phi: Hầu hết các nước tăng, trong đó Morocco tăng tới 16,6%; một số nước giảm, trong đó có Nam Phi 1,5%.

7/ Tại châu Á-TBD: Hầu hết các nước tăng, cao nhất là Bangladesh (10,6%); Việt Nam (8,7%); Philippines (6,0%) và Thái Lan (5,0%). Trong số nước giảm có Nhật Bản (1,9%); Hàn Quốc (1,5%) và Đài Loan (0,5%).

Như vậy, sự tăng giảm sản lượng điện trong từng khu vực, nhóm nước không phải là xu thế chung mà chủ yếu do tình hình, bối cảnh của từng nước.

10 nước có quy mô sản lượng điện lớn nhất gồm (% trên tổng sản lượng điện thế giới): Trung Quốc (27,8%), Mỹ (6,3%), Ấn Độ (5,8%), Nga (4,1%), Nhật Bản (3,8%), Canada (2,4%), Brazil (2,3%), Đức (2,3%), Hàn Quốc (2,2%), Pháp (2,1%). Tổng 10 nước chiếm 69,1%.

Về sản lượng điện bình quân đầu người năm 2019 (kWh/người) của toàn thế giới là 3.501. Bắc Mỹ: 10.984 (cao gấp hơn 3 lần bình quân của thế giới), Nam và Trung Mỹ: 2.555, châu Âu: 5.888, CIS: 5.827, Trung Đông: 4.928, châu Phi: 666, châu Á-TBD: 3.011, Nhóm nước OECD: 8.516, Nhóm nước ngoài OECD: 2.545 và EU: 6.275.

Trong số các nước đại diện 10 nước có sản lượng điện bình quân đầu người cao nhất gồm (kWh/người): Canada (31.357), Na Uy (25.009), Cô-oet (17.815), Qatar (17.173), Thụy Điển (16.929), UAE (14.135), Mỹ (13.374), Phần Lan (12.401), Đài Loan (11.531), Hàn Quốc (11.415).

Ngược lại, còn rất nhiều nước sản lượng điện bình quân đầu ngưới rất thấp (<1.000 kWh/người) như Bangladesh (550), Pakistan (628), Philippines (979), v.v... và nhiều nước ở châu Phi thấp dưới 500 kWh/người, chính vì vậy bình quân đầu người của châu Phi chỉ đạt 666 kWh/người. 

Bình quân đầu người của Việt Nam mới đạt 2.357 kWh/người, chỉ bằng 78,3% của châu Á-TBD, 67,3% của thế giới, 45,2% của Malaysia và 44% của Trung Quốc, thấp hơn Thái Lan và rất thấp so với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, v.v...

Nhiệt điện than bình quân đầu người (kWh/người) toàn thế giới là 1.343. Trong đó, Bắc Mỹ (2.296), Nam và Trung Mỹ (143), châu Âu (1.030), CIS (1.076), Trung Đông (88), châu Phi (194), châu Á-TBD (1.750). Nói chung có sự khác nhau đáng kể giữa các khu vực.

Các nước có nhiệt điện than bình quân đầu người cao nhất gồm (kWh/người): Mỹ (3.201), Đức (2.050), Ba Lan (3.174), Kazakstan (4.210), Úc (5.933), Trung Quốc (3.472), Nhật Bản (2.573), Malaysia (2.229), Hàn Quốc (4.662), Đài Loan (5.311).

Riêng của Việt Nam là 1.166, bằng 86,8% của thế giới, 66,6% của châu Á - TBD, 52,3% của Malaysia, 45,3% của Nhật Bản và rất thấp so với Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, v.v... 

Tóm lại, sản lượng điện bình quân đầu người (kể cả tổng số và riêng nhiệt điện than) của Việt Nam còn quá thấp so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. 

Thông qua chỉ tiêu sản lượng điện bình quân đầu người cho thấy phần nào nguyên nhân tăng, giảm sản lượng điện của các khu vực, nhóm nước và của từng nước như đã nêu trên.

KỲ TỚI: NHẬN XÉT VỀ CƠ CẤU NGUỒN ĐIỆN CỦA THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

PGS, TS. NGUYỄN CẢNH NAM - HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM


Tài liệu tham khảo:

[1] BP Statistical Review of World Energy 2020.

Vì sao ở nhóm nước phát triển có sản lượng điện bình quân đầu người cao
Một số dấu hiệu của ngành than toàn cầu [Kỳ cuối]: Việt Nam cần lưu ý những gì?

Hiện nay, với xu thế phát triển nền kinh tế tuần hoàn - nền kinh tế phi chất thải, ngay các loại chất thải từ sản xuất và sinh hoạt từng bị coi là thứ độc hại, vô dụng, bỏ đi đã được thế giới xác định là nguồn tài nguyên thứ cấp quan trọng, cần phải tái chế, sử dụng triệt để nhằm phục vụ sản xuất và đời sống. Với tư duy đó, không có cớ gì lại coi nguồn tài nguyên than là đồ “bẩn thỉu” phải bỏ đi. Ngược lại, chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam cho rằng: Phải tiếp tục tìm cách tốt nhất để khai thác, chế biến, sử dụng chúng phục vụ cuộc sống con người.

Vì sao ở nhóm nước phát triển có sản lượng điện bình quân đầu người cao
Một số dấu hiệu của ngành than toàn cầu [Kỳ 2]: Dấu hiệu nào cần quan tâm?

Từ tổng quan trữ lượng, sản lượng khai thác, xuất - nhập khẩu, tiêu thụ than năm 2020 của toàn thế giới, khu vực, nhóm nước và các nước đại diện (trong kỳ trước), dưới đây, chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam sẽ phân tích, nhận xét làm rõ từng nội dung, cũng như lưu ý những dấu hiệu cần quan tâm của ngành than trên toàn cầu.

Vì sao ở nhóm nước phát triển có sản lượng điện bình quân đầu người cao
Một số dấu hiệu của ngành than toàn cầu [Kỳ 1]: Tổng quan từ trữ lượng đến tiêu thụ

Năm 2020 ngành than toàn cầu đã để lại một số dấu hiệu quan trọng cần quan tâm. Với tinh thần đó, trong bảng dưới đây trình bày tổng quan trữ lượng, sản lượng khai thác, xuất - nhập khẩu, tiêu thụ than năm 2020 của toàn thế giới, khu vực, nhóm nước và các nước đại diện.


Năm 2020 - năm đầu tiên có ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến sản xuất và đời sống của nhân loại trên toàn thế giới, trong đó có ngành điện. Sau đây, trong hình 1 và hình 2 nêu điện sản xuất và bình quân đầu người, hình 3 nêu sản xuất điện than theo đầu người của các nước đại diện trong bối cảnh nói trên.

Vì sao ở nhóm nước phát triển có sản lượng điện bình quân đầu người cao
Hình 1.
Vì sao ở nhóm nước phát triển có sản lượng điện bình quân đầu người cao
Hình 2.
Vì sao ở nhóm nước phát triển có sản lượng điện bình quân đầu người cao
Hình 3.

[1]. Sản lượng điện và điện than bình quân đầu người năm 2020 do tác giả tính toán theo dân số của các nước trong https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_sách_quốc_gia_theo_dân_số.

Ghi chú: Nước đại diện là nước có sản lượng điện ≥0,1% sản lượng điện thế giới. (◆) Số quá nhỏ. Sản lượng điện bình quân đầu người số trong (…) là của nhiệt điện than. Thứ tự trên thế giới: Tử số là của điện tổng số, mẫu số là của điện than.

Nhận xét về tổng sản lượng điện sản xuất năm 2020:

Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới bị suy giảm khoảng trên dưới 4% do Covid-19, ngành sản xuất điện toàn cầu cũng không tránh khỏi sự ảnh hưởng. Tổng sản lượng điện toàn cầu đạt 26.823,2 tỷ kWh, giảm 0,9% so với năm 2019, mức giảm tương đối sâu so với mức tăng bình quân trong giai đoạn 2009 - 2019 là 2,9%/năm và cao hơn nhiều so với mức giảm 0,5% năm 2009 do tác động của suy thoái kinh tế.

Trong số các khu vực, chỉ 2 khu vực có sản lượng điện tăng gồm: Trung Đông 0,6% và châu Á - TBD 1,1%, tuy nhiên cả 2 khu vực đều có mức tăng thấp hơn nhiều so với mức tăng bình quân giai đoạn 2009 - 2019, tương ứng là 4,5% và 5,4%. Còn lại các khu vực khác có sản lượng điện giảm: Bắc Mỹ -2,8%; Nam và Trung Mỹ -4,5%; châu Âu -3,3%; CIS -2,5% và châu Phi 2,5%. Trong đó, chỉ có châu Âu là tiếp tục giảm mạnh, cao hơn nhiều so với mức giảm bình quân -0,2%/năm trong giai đoạn 2009 - 2019, còn lại các khu vực khác bắt đầu giảm sau thời kỳ gia tăng.

Nhóm các nước OECD giảm 2,8% và EU giảm 4,5%, trong khi nhóm các nước ngoài OECD tăng nhẹ 0,4%.

Xét theo từng nước thì trong một khu vực, nhóm nước chỉ có một số nước tăng, còn đa phần là giảm, thậm chí giảm mạnh. Cụ thể là:

Tại Bắc Mỹ: cả 3 nước Canada, Mexico và Mỹ đều giảm.

Tại Nam và Trung Mỹ, chỉ có một số nước tăng, còn đa phần các nước giảm, trong đó một số nước giảm mạnh như Venezuela (-35,1%), Peru (-7,7%), Colombia (-6,5%).

Tại châu Âu: Đa phần các nước giảm, trong đó giảm sâu nhất là CH Séc (-6,6%), Pháp (-7,0%), Đức (-6,4%), Hy Lạp (-6,6%), Rumani (-5,7%).

Ngược lại một số nước tăng, thậm chí tăng cao như Na Uy (14,2%).

Tại CIS: Một số nước tăng, song các nước giảm là chính, nhất là Nga (-3,2%), Azerbaijan (-12,7%) và Belarus (-4,6%), kéo theo cả khối giảm.

Tại Trung Đông: Nhiều nước tăng và cũng nhiều nước giảm, song số nước tăng có phần nhỉnh hơn nên cả khối tăng nhẹ (0,6%).

Tại châu Phi: Hầu hết các nước giảm, trong đó, đặc biệt Nam Phi giảm mạnh tới -5,5%.

Tại châu Á - TBD: Hầu hết các nước giảm, chỉ có một số nước tăng, đặc biệt là Trung Quốc tăng 3,4%, Việt Nam 2,8% và Đài Loan 1,8%, kéo theo cả khối tăng 1,1%.

Như vậy, năm 2020 sự tăng giảm sản lượng điện trong từng khu vực, nhóm nước đã thiên về xu thế chung là giảm, dẫn đến toàn cầu giảm. Nguyên nhân chính là thủ phạm Covid-19.

10 nước có quy mô sản lượng điện lớn nhất gồm (% trên tổng sản lượng điện thế giới): Trung Quốc 29,0%, Mỹ 16,0%, Ấn Độ 5,8%, Nga 4,0%, Nhật Bản 3,7%, Canada 2,4%, Brazil 2,3%, Đức 2,1%, Hàn Quốc 2,1%, Pháp 2,0%. Tổng 10 nước chiếm 69,4%.

Về sản lượng điện bình quân đầu người năm 2020 (kWh/người): Của toàn thế giới là 3.424, giảm so với năm 2019 khoảng 2,0%. Trong đó, Bắc Mỹ: 10.500 (cao gấp gần 3,1 lần bình quân của thế giới); Nam và Trung Mỹ: 2.444; châu Âu: 5.701; CIS: 5.661; Trung Đông: 4.847; châu Phi: 631; châu Á-TBD: 3.040; OECD: 7.673; ngoài OECD: 2.479; EU: 6.223.

Trong số các nước đại diện, 10 nước có sản lượng điện bình quân đầu người cao nhất gồm (kWh/người): Na Uy 28.379, Cô-oet 17.420, Qatar 17.378, Canada 16.988, Thụy Điển 16.705, UAE 13.929, Mỹ 12.913, Phần Lan 12.410, Đài Loan 11.739, Hàn Quốc 11.193.

Ngược lại, còn rất nhiều nước sản lượng điện bình quân đầu ngưới rất thấp (<1.000>

Bình quân đầu người của Việt Nam mới đạt 2.384 kWh/người, chỉ bằng 78,4% của châu Á - TBD, 69,6% của thế giới, 48,7% của Malaysia và 44,2% của Trung Quốc, thấp hơn Thái Lan và rất thấp so với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, v.v…

Nhiệt điện than bình quân đầu người (kWh/người) toàn thế giới: 1.203 (bằng 35,1% điện bình quân tổng số), trong đó Bắc Mỹ 1.799, Nam và Trung Mỹ 146, châu Âu 846, CIS 929, Trung Đông 75, châu Phi 177, châu Á - TBD 1.738. Nói chung có sự khác nhau đáng kể giữa các khu vực, song cao nhất là ở Bắc Mỹ và châu Á - TBD.

Các nước có nhiệt điện than bình quân đầu người cao nhất gồm (kWh/người): Úc 5.573, Đài Loan 5.286, Hàn Quốc 4.066, Kazakstan 3.865, Trung Quốc 3.412, Nam Phi 3.392, Ba Lan 2.935, Malaysia 2.751, Mỹ 2.643, Nhật Bản 2.367. Qua đó cho thấy, trừ Ba Lan và Mỹ, còn lại là các nước châu Á - TBD.

Nhiệt điện than bình quân đầu người của Việt Nam là 1.206 kWh/người, bằng mức của thế giới, 67% của Bắc Mỹ và châu Á - TBD, 43,8% của Malaysia, 51,0% của Nhật Bản và rất thấp so với Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, v.v…

Tóm lại, sản lượng điện bình quân đầu người (kể cả tổng số và riêng nhiệt điện than) của Việt Nam còn quá thấp so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Vấn đề là, tuy mức phát thải CO2 trên đầu người của Việt Nam còn thấp song cường độ phát thải CO2 trên GDP rất cao. Đó là điều cần quan tâm trong phát triển điện năng và năng lượng thời gian tới.

Thông qua chỉ tiêu sản lượng điện bình quân đầu người cho thấy phần nào nguyên nhân tăng, giảm sản lượng điện của các khu vực, nhóm nước và của từng nước như đã nêu trên.

Kỳ tới: Nhận xét về cơ cấu sản lượng điện của Việt Nam và thế giới

PGS, TS. NGUYỄN CẢNH NAM - TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM


Tài liệu tham khảo:

1. BP Statistical Review of World Energy 2021.

2. Điện hạt nhân trên thế giới và đề xuất tại Việt Nam. Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam,18/02/2021.