Tư tưởng của nhà văn là gì

Tư tưởng nghệ thuật nhà văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây  (284.37 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
 






Chuyên đề :

PHƯƠNG PHÁP LUẬN
NGHIÊN CỨU TÁC GIA VĂN HỌC

Đề bài:
CÁCH XÁC ĐỊNH TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT CỦA NHÀ VĂN .
NÊU VÍ DỤ CỤ THỂ VỀ VIỆC NGHIÊN CỨU MỘT NHÀ VĂN MÀ
BẢN THÂN YÊU THÍCH



Giảng viên giảng dạy : PGS -TS Trần Thị Việt Trung
Học viên thực hiện : Nguyễn Đức Hiền
Khóa học : K18A
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam










Thái Nguyên, tháng 5 năm 2011
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
1


I. PHƯƠNG PHÁP LUẬN
1. Thế nào là tư tưởng nghệ thuật của nhà văn?
Văn chương là một loại sản phẩm tinh thần , một hoạt động văn hóa tư
tưởng, đồng thời là một loại hình nghệ thuật. Sản phẩm của loại hình nghệ
thuật này là những tác phẩm văn học  đứa con tinh thần của nhà văn. Như
thế muốn hiểu được tác phẩm văn chương phải hiểu tác giả. Không ở đâu
khác, tác phẩm văn chương chính là nơi chứa đựng tư tưởng nghệ thuật của
nhà văn. Hiện nay công việc nghiên cứu tư tưởng tác gia văn học là một việc
làm tối quan trọng. Muốn đánh giá tầm cỡ của một nhà văn ta phải căn cứ vào
những tiêu chuẩn sau:
- Tư tưởng lớn, tâm hồn lớn.
- Tài năng lớn.
- Có đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy tiến trình phát triển của lịch sử
văn học dân tộc.
Văn học nghệ thuật thực chất là một hoạt động tư tưởng. Khi nghiên cứu
một nhà văn xét đến cùng là nghiên cứu tư tưởng của nhà văn đó. Tư tưởng
của con người có sự sống của nó. Nó không tĩnh tại, chết cứng mà luôn luôn
vận động biến đổi. Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn cũng vậy. Nghệ thuật
chân chính không bao giờ tự lặp lại. Tầm cỡ một nhà văn rút cục phụ thuộc ở
tầm cỡ tư tưởng của ông ta. Nhưng ta nên quan niệm thế nào là tư tưởng của

nhà văn? Nếu nói phương pháp luận là lí thuyết về đối tượng nghiên cứu thì lí
thuyết về tư tưởng của nhà văn là một vấn đề then chốt cần giải quyết đúng
đắn.
Trước hết ta thấy đây là thứ tư tưởng có tính tổng hợp cao rút ra từ toàn
bộ tác phẩm của nhà văn. Nói cách khác, đó là một tư tưởng bao trùm cả sự
nghiệp sáng tác của nhà văn, chi phối về căn bản toàn bộ thế giới nghệ thuật
của ông ta. Nó tạo cho sự nghiệp ấy, thế giới nghệ thuật ấy tính thống nhất,
tính hệ thống, hay nói đúng hơn, tính chỉnh thể.
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
2

Các nhà nghiên cứu phê bình văn học trên thế giới đã gọi tên tư tưởng
nghệ thuật nhất quán trong toàn bộ hệ thống sáng tác của nhà văn bằng
những cái tên khác nhau :
- Xanhtơ Bơvơ gọi là : phẩm chất sâu kín và cốt yếu của tinh thần.
- PhilaredơSaxlơ gọi là :  tụ điểm của những tia sáng khác nhau trong
đời sống tinh thần của nhà văn.
- ÊminPhaghê thì nói gọn : tư tưởng cơ bản.
- Biêlinxki phát biểu : nghệ thuật không chấp nhận người ta đến với nó
bằng những tư tưởng triết học trừu tượng. Nó càng không dung nạp những tư
tưởng xuất phát từ ngộ tính, nó chỉ chấp nhận những tư tưởng nghệ
thuật.Vì thế tư tưởng trong thơ không phải là một tư tưởng trừu tượng hay
một hình thái chết, mà là một sáng tạo sống động.
- Theo nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Con
đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn ông dùng khái niệm tư tưởng
nghệ thuật cơ bản để gọi tên cho thứ tư tưởng tổng hợp trên của nhà
văn.Ông định nghĩa tư tưởng nghệ thuật như sau :  là một hình thái đặc thù
của người nghệ sĩ: nhận thức bằng toàn bộ con người tinh thần với tất cả
nội dung phong phú và tính tổng thể toàn vẹn của nó. Hình thái nhận thức

này đòi hỏi người nghệ sĩ phải huy động mọi năng lực tinh thần của mình,
gồm cả lí trí, tình cảm, cảm xúc. Và hình thái nhận thức này thấm nhuần lí
tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Vì thế người ta có thể gọi là hình thái tư duy tình
cảm thẩm mĩ của người cầm bút .
Định nghĩa trên đây đã khái quát được những thuộc tính khá căn bản
của đối tượng. Việc xác lập thành khái niệm như thế đã vạch ra một ranh giới
nào đó giữa tư tưởng nghệ thuật với các hình thái tư tưởng khác. Đồng thời,
mở được một lối chiếm lĩnh tư tưởng riêng của từng nghệ sĩ. Trước hết, cần
có sự phân biệt rành rẽ hai nghĩa không trùng nhau của khái niệm tư tưởng.
Thứ nhất, tư tưởng là một hoạt động tinh thần. Theo nghĩa này, nó đồng nghĩa
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
3

với tư duy. Vì thế tư tưởng nghệ thuật là một hình thái nhận thức, nó đồng
nghĩa với tư duy nghệ thuật. Thứ hai, tư tưởng là kết quả của hoạt động tư
duy. Theo nghĩa này, tư tưởng nghệ thuật là sản phẩm của tư duy nghệ thuật.
Do đời sống ngôn ngữ luôn vận động, càng gần đây, chữ tư tưởng được
hiểu nghiêng hẳn theo nghĩa thứ hai. Vì vậy, để chỉ hoạt động, người ta dùng
chữ tư duy, và để chỉ kết quả của tư duy ấy người ta dùng chữ tư tưởng.
Định nghĩa trên đây phần nào nghiêng về nghĩa thứ nhất. Tức là, Nguyễn
Đăng Mạnh cố gắng định danh khái niệm tư tưởng nghệ thuật như một hình
thái tư duy đặc thù mà ông gọi là tư duy  tình cảm thẩm mĩ. Cái mà bây
giờ ta vẫn gọi bằng tư duy nghệ thuật. Tư tưởng nghệ thuật cần được hiểu như
một hình thái tinh thần rất cụ thể, nó nảy sinh do sự cọ xát, va chạm một cách
rất cụ thể giữa trí tuệ và tâm hồn người sáng tác với hiện thực khách quan. Và
nó, ngay từ khi ra đời, đã tự thể hiện ở dạng hình tượng, dù chỉ là một thứ
hình tượng phác họa còn thô sơ và chưa thật sáng sủa rõ nét trong tâm linh
nhà văn.
Thứ nữa, là về tính đặc thù của tư tưởng nghệ thuật trong đối sánh với

các hình thái tư tưởng khác. Nói đến tư tưởng, thói thường người ta mặc
nhiên coi nó là sản phẩm thuần của lí trí. Tư tưởng nào cũng vậy, tư tưởng
nghệ thuật thì cũng chẳng khác gì. Cho đến tận gần đây, ngay cả người trong
giới sáng tác nghệ thuật cũng còn không ít ngộ nhận về nó. Nhưng, hiểu thế
thì không nhận ra nét đặc thù của loại tư tưởng này. Thiết nghĩ, cần phải tô
đậm lại điều đơn giản này : tư tưởng nghệ thuật là tư tưởng được thể hiện
trong nghệ thuật và thể hiện bằng nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà
Bêlinxki đã nhấn mạnh nó bằng cụm từ Idée poétique, nghĩa đen là tư
tưởng thơ, tư tưởng mang tính thơ - tức là loại tư tưởng có thuộc tính thẩm
mĩ.
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
4

Tư tưởng nghệ thuật là sản phẩm của tư duy nghệ thuật, nó vừa giống
vừa khác với tư duy khoa học. Tư duy khoa học chủ yếu dựa vào cái đầu lạnh,
nghĩa là dựa vào một lí trí có phần đơn thuần. Thao tác căn bản của nó là trừu
tượng hoá. Kết quả cuối cùng của nó là những khái niệm trừu tượng. Còn tư
duy nghệ thuật là một trạng thái tinh thần đặc thù, trong đó cả lí trí và tình
cảm đều vận hành mà vận hành cùng một nhịp với nhau và chuyển hoá sang
nhau. Thao tác căn bản của nó là hình tượng hóa. Kết quả cuối cùng của nó là
những hình tượng nghệ thuật sống động súc tích. Cho nên tư tưởng nghệ thuật
không bao giờ tồn tại bên ngoài hình tượng.
2. Tại sao lại nghiên cứu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn?
Phương pháp luận là lí thuyết về đối tượng nghiên cứu . Nhận thức đối
tượng càng chính xác, sâu sắc, toàn diện thì phương pháp rút ra từ đấy càng
có khả năng đạt hiệu suất cao, càng giúp phát hiện ra nhiều chân lí mới.
Nghiên cứu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn là hết sức quan trọng, muốn hiểu
văn chương, phải hiểu tác giả. Tâm hồn mỗi nhà văn lại có một chất dính
riêng. Dù nhà văn có quan sát thực tế đời sống ở nhiều lĩnh vực khác nhau,

chất dính ấy vẫn chỉ có thể bắt lấy được những gì thích hợp với nó. Chính
những gì thích hợp đó tạo nên ở mỗi cây bút một đối tượng thẩm mĩ riêng, nơi
cung cấp những nguồn chất liệu phù hợp để nhà văn dựng nên thế giới nghệ
thuật riêng của mình. Tư tưởng nghệ thuật phải là riêng của mỗi nhà văn. Nó
là chỗ phân biệt cơ bản giữa nhà văn này và nhà văn khác. Tư tưởng nghệ
thuật là cái đích cuối cùng cơ bản nhất của việc tìm hiểu một nhà văn. Chừng
nào chưa đạt tới cái đích ấy thì xem như chưa thật sự chiếm lĩnh được đối
tượng nghiên cứu của mình.
3. Cách xác định tư tưởng nghệ thuật như thế nào?
Tư tưởng nghệ thuật bao gồm hai mặt thống nhất: Chủ thể (nhà văn) và
khách thể (hiện thực được phản ánh trong tác phẩm). Trong đó, chủ thể luôn
đóng vai trò quyết định, bởi khách thể trong tác phẩm là hiện thực đã được tái
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
5

hiện qua lăng kính chủ quan, sự nhạy cảm của người nghệ sĩ. Như vậy căn cứ
để tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn chính là hình tượng nghệ thuật
do nhà văn sáng tạo nên, còn các căn cứ khác, tư liệu khác ngoài văn chương
chỉ để tham khảo, chỉ làm rõ hơn, soi sáng thêm những tìm tòi, những phán
đoán của nhà nghiên cứu từ chính các hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm
của nhà văn mà thôi.
Như vậy hình tượng nghệ thuật chính là cách biểu hiện duy nhất để xác
định tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Chính vì vậy, nhà văn nào không sáng
tạo được những hình tượng nghệ thuật thực sự thì sẽ không có tư tưởng nghệ
thuật. Chỉ có những hình tượng nghệ thuật có giá trị đích thực, được xây dựng
từ những rung động sâu sắc của trái tim, được sinh ra từ máu thịt, từ tâm hồn
của nhà văn, được nảy sinh ra từ sự tư duy trăn trở ngày đêm của tác giả mới
là nơi chứa đựng tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Còn những hình tượng
nghệ thuật được sinh ra từ những lí trí khô khan, từ những mệnh đề đặt ra

trước thì không thể có (hoặc rất ít) giá trị nghệ thuật. Nó chỉ là những hình
tượng mang tính minh hoạ cho tư tưởng đã được định trước mà thôi. Chính vì
vậy khi nghiên cứu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, chúng ta phải phân biệt
được hai loại hình tượng nghệ thuật khác nhau như thế mới có thể xác định
được chính xác đâu là nhà văn có tư tưởng nghệ thuật thực sự.
Hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng được sáng tạo trong khuôn khổ
một tác phẩm được viết theo một thể loại nào đó. Hình tượng có thể được
khảo sát ở nhiều cấp độ và bình diện khác nhau, nhưng dù ở cấp nào, bình
diện nào, cũng chỉ có thể đánh giá đúng giá trị thẩm mĩ và ý nghĩa tư tưởng
của nó, nếu cảm thụ và phân tích nó trong quan hệ với toàn bộ tác phẩm như
một chỉnh thể nghệ thuật.
Tóm lại, hình tượng nghệ thuật phải có phẩm chất nghệ thuật cao và
không phải nhà văn nào cũng có thể xây dựng được những hình tượng nghệ
thuật có phẩm chất cao như vậy. Hình tượng nghệ thuật được chứa đựng trong
các câu thơ, lời văn, được viết ra từ sự rung động sâu sắc, mãnh liệt của tình
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
6

cảm, của sự dồn nén tâm trạng, thậm chí là từ sự đớn đau, nhức nhối của trái
tim. Do đó, ngay cả trong những câu thơ không có màu sắc, không có nhân
vật những hình tượng nghệ thuật cũng nổi lên một cách sống động, đậm nét,
khiến người đọc phải xúc động.
Cùng một hiện thực, nhưng mỗi nhà văn nhìn nhận và phản ánh hiện
thực ấy ở một phương diện, ở một góc độ khác nhau, hay những mảng đề tài
khác nhau. Ngay cả khi có cùng một đề tài thì mỗi nhà văn lại có cách xử lí đề
tài theo những khuynh hướng tư tưởng khác nhau, đem đến các phát hiện
khác nhau về giá trị hiện thực và nhân đạo. Đây cũng chính là chỗ phân biệt
sâu sắc tư tưởng nghệ thuật độc đáo ở mỗi tác giả.
Tư tưởng nghệ thuật là một quan niệm, vậy nó là quan niệm gì ? Nó là

sự hoà hợp của hai thứ quan niệm ở người nghệ sĩ : quan niệm thẩm mỹ và
quan niệm nhân sinh. Quan niệm thẩm mĩ trả lời câu hỏi thế nào là đẹp ?còn
quan niệm nhân sinh trả lời câu hỏi thế nào là hạnh phúc ? Gộp lại có thể chỉ
là một câu thôi : Thế nào là giá trị ? Quan niệm ấy sẽ chi phối toàn bộ việc
cảm nhận và thể hiện thế giới bằng nghệ thuật ở từng nghệ sĩ. Tìm kiếm tư
tưởng của một nghệ sĩ, về thực chất, là tìm quan niệm đó. Chừng nào chưa
thấy quan niệm đó, chừng ấy tư tưởng thật sự của nghệ sĩ vẫn còn là ẩn số. Ở
bình diện cảm tính, tư tưởng là một điệu cảm xúc. Nó là gì vậy ? Nó là hệ
thống cảm xúc đã hoá thân vào văn bản nghệ thuật. Nghĩa là thái độ cảm xúc
đã được hình thức hoá. Vậy điệu cảm xúc biểu hiện ở đâu ? Biểu hiện đậm
đặc nhất trong giọng điệu nghệ thuật của mỗi tác phẩm, tác giả. Vì lẽ đó, phải
tìm được giọng điệu nghệ thuật của tác phẩm, tác giả thì mới nắm được thực
sự tư tưởng nghệ thuật trong đó.
4. Quá trình hình thành tư tưởng nghệ thuật của nhà văn:
Muốn tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của nhà văn thì chúng ta phải tiến
hành khảo sát, nghiên cứu toàn bộ những tác phẩm của nhà văn đó, từ những
tác phẩm đầu tiên đến những tác phẩm cuối cùng. Bởi vì tư tưởng nghệ thuật
của nhà văn không phải tự nhiên mà có. Nó là cả một quá trình hình thành và
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
7

phát triển, phù hợp với quá trình trải nghiệm, tích luỹ vốn sống, trưởng thành
trong nhận thức của nhà văn. Vì vậy việc tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của
nhà văn chính là tìm hiểu quá trình hình thành tư tưởng nghệ thuật đó trong
suốt chặng đường sáng tác.
Nghiên cứu quá trình hình thành tư tưởng nghệ thuật của nhà văn bao
gồm các bước sau:
Bước một: Tập hợp toàn bộ tư liệu, tác phẩm: Sắp xếp các tác phẩm
theo trật từ thời gian, nắm hoàn cảnh ra đời của từng tác phẩm, bởi nếu nhầm

lẫn về thời gian dễ dẫn đến nhận định sai lầm của người nghiên cứu.
Bước hai: Khi nghiên cứu cần phải tiếp cận từ hai góc độ khác nhau:
Tiếp cận từ bên ngoài tác phẩm: Lần lượt đọc tác phẩm theo trình tự
thời gian, từ đó ta hình dung ra thế giới hình tượng nghệ thuật có gì chuyển
biến đột xuất không. Phải dừng lại để tìm hiểu sự chuyển biến đột xuất đó như
thế nào, theo chiều hướng nào, tại sao lại có sự chuyển biến đó. Sự chuyển
biến ấy đánh dấu sự chuyển biến về tư tưởng nhà văn ra sao. Sau đó lại tiếp
tục đọc và khi gặp một sự chuyển biến mới, lại dừng lại, phân tích và trả lời
câu hỏi tại sao lại có sự chuyển biến ấy, và phải chỉ ra ý nghĩa của sự chuyển
biến ấy là gì.
Tiếp cận từ bên ngoài tác phẩm: Đặt mình vào vị trí chủ thể sáng tác để
nghiên cứu, theo dõi quá trình vận động và phát triển của tư tưởng nghệ thuật.
Chẳng hạn, đối với văn xuôi, có thể tiếp cận từ hệ thống nhân vật trong tác
phẩm. Đối với thơ, có thể tiếp cận từ hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm.
Hoặc tiếp cận từ những yếu tố nghệ thuật. Từ đó, khái quát hoá những đặc
điểm tiêu biểu, những đặc điểm tạo nên, những phẩm chất tư tưởng của nhà
văn, là những đặc điểm mang tính phổ quát, quy luật, biểu hiện trong các tác
phẩm đầu tiên đến tác phẩm cuối cùng.
Tư tưởng nghệ thuật là cái riêng, cá nhân. Vì vậy mà hình tượng nghệ
thuật độc đáo, thống nhất cũng chính là chỗ mạnh riêng, sở trường riêng của
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
8

từng cây bút, tạo thành cái tạng riêng của mỗi nhà văn (Nguyễn Đăng
Mạnh). Vì vậy nghiên cứu quá trình hình thành, vận động phát triển của tư
tưởng nghệ thuật của mỗi nhà văn cũng chính là quá trình ta phát hiện ra
phong cách nghệ thuật của nhà văn. Đó là quá trình nhà văn tự tìm ra mình,
tìm ra tư tưởng, tìm ra tâm hồn đích thực của mình, tìm ra chỗ mạnh, chỗ yếu,
chỗ hay, chỗ dởcủa cái tài nghệ của mình. Cũng như đã tìm ra đươc bầu

trời, cảnh vật, con người riêng của mình trong thế giới vô tận này, tìm ra được
ngôn ngữ, giọng điệu riêng của mình. Hay nói một cách khác, quá trình hình
thành, vận động và phát triển tư tưởng nghệ thuật của mỗi nhà văn cũng là
quá trình nhà văn tự tìm ra câu hỏi và câu trả lời: Ta là ai? trong suốt cuộc
đời cầm bút của mình. Còn nhà nghiên cứu phê bình lại phải hình dung ra,
xác định được và phải làm sáng tỏ một cách khoa học, một cách thuyết phục
rằng: đó là con đường vận động của tư tưởng nghệ thuật cùng sự hình thành
phong cách nghệ thuật của nhà văn.
II. TỐ HỮU  NHÀ THƠ CỦA LÝ TƯỞNG CỘNG SẢN
1. Vài nét về tiểu sử - sự nghiệp nhà thơ Tố Hữu
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4/10/1920 tại làng
Phù Lai, huyện Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên Huế).
Truyền thống văn hóa, văn chương của quê hương và gia đình là những nhân
tố quan trọng trong sự hình thành hồn thơ Tố Hữu.
Năm lên 12 tuổi, mẹ mất. Năm 13 tuổi, vào trường Quốc học (Huế).
Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng Cộng sản qua sách báo tiến bộ
của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh, Gorki kết hợp với sự vận động,
giác ngộ của các Ðảng viên ưu tú bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Ðăng Lưu, Nguyễn
Chí Diểu), người thanh niên Nguyễn Kim Thành sớm nhận ra lý tưởng đúng
đắn. Gia nhập Ðoàn thanh niên, hăng hái hoạt động, được kết nạp Ðảng năm
1938.
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
9

Tháng 4/1939, bị bắt, bị tra tấn dã man và đày đi nhiều nhà lao. Trong
tù, người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi luôn giữ vững khí tiết, tiếp tục hoạt động
cách mạng ở mọi hoàn cảnh.
Cuối 1941, vượt ngục (về hoạt động bí mật ở Hậu Lộc - Thanh Hóa).
Khi cách mạng tháng Tám bùng nổ, là Chủ tịch ủy ban khởi nghĩa của thành

phố Huế. Năm 1946, là Bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, lên Việt Bắc
làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, Ông luôn giữ những trọng trách
lớn trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Ðảng và nhà nước
Thơ Tố Hữu là đỉnh cao thơ trữ tình chính trị Việt Nam (Trần Ðình
Sử). Có thể tìm thấy ở đó những nét tiêu biểu của quan niệm nghệ thuật cách
mạng.
Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải
không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng, xác định thật rõ ràng
tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với
người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân. Ngoài ra, các nhà thơ
cách mạng còn phải kiên quyết đấu tranh, không khoan nhượng trước những
biểu hiện lệch lạc, với cái xấu, cái ác. Tóm lại, phải xứng đáng là người chiến
sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng.
Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn
chương sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất
phát, cũng là nơi đi tới của văn học. Với Tố Hữu, thơ là tiếng nói đồng ý,
đồng tình, tiếng nói đồng chí ; làm cho người ta không còn thấy giới hạn của
câu chữ, khi cái tình thật mãnh liệt. Màu sắc dân tộc đậm đà cũng là yêu cầu
hàng đầu đối với thơ hay, cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật.
Dân tộc mà hiện đại, hiện đại trên cơ sở dân tộc, truyền thống.
2. Tố Hữu  Nhà thơ của lý tuởng cộng sản
Nhà văn lớn trước hết phải là nhà văn có tư tưởng. Nhưng như thế nào
là tư tưởng một nhà văn? Không xác định đúng đắn điều này sẽ dễ dàng rơi
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
10
vào thứ văn minh họa, đồng nhất văn chương với chính trị, nghệ thuật với
tuyên truyền.
Tư tưởng nghệ thuật nhà văn có thể gói gọn trong khái niệm tư tưởng
nghệ thuật. Nó không đối lập với tư tưởng chính trị, nhưng không đồng nhất

với tư tưởng chính trị. Tất nhiên nó không phải là những khái niệm khô khan
của lí trí. Nó là cả một bầu tâm huyết của nhà văn đối với cái đẹp của cuộc
sống con người, là tư tưởng thấm nhuần tình cảm thẩm mĩ, là nhận thức đầy
nhiệt hứng, là sự phát hiện thế giới bằng toàn bộ hệ thần kinh cùng rung lên
một nhịp. Một cách chiếm lĩnh thế giới như thế tất phải đẻ ra hình tượng, và
gắn với hình tượng như linh hồn với thể xác.
Tư tưởng nghệ thuật được quan niệm như vậy tất nhiên không thể là
một tư tưởng chung chung siêu cá thể. Nó phải có đặc sắc riêng của cá tính
nghệ sĩ. Nhà văn lớn phải là nhà văn có tư tưởng riêng, có phát hiện riêng về
chân lí đời sống, có triết lí riêng của mình về nhân sinh  một thứ triết lí đầy
tình cảm, cảm xúc và đầy hình tượng, tạo ra một thế giới nghệ thuật riêng cho
mình. Tư tưởng ấy là cơ sở của thi pháp và phong cách nhà văn.
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể. Thế giới nghệ thuật của nhà văn
tạo nên bởi toàn bộ tác phẩm của ông ta lại là một chỉnh thể khác, tất nhiên
rộng lớn hơn. Từ thế giới nghệ thuật ấy sẽ là cơ sở để phán đoán về tư tưởng
nghệ thuật cơ bản của nhà văn. Vậy tư tưởng nghệ thuật bao trùm toàn bộ
sáng tác của Tố Hữu là gì? Khám phá vào toàn bộ chặng đường thơ của Tố
Hữu ta thấy có một sự kết hợp dường như trở thành có tính quy luật ổn định
và trở nên thân thiết với hồn thơ ông đó là : ngợi ca lẽ sống cao đẹp của
người cách mạng - diễn tả niềm vui hướng về tương lai xã hội chủ nghĩa - thể
hiện những cảm nghĩ ân tình thủy chung. Khi cảm hứng thơ kết hợp được một
cách tự nhiên với những chủ đề trên thì tạo nên một cơ sở thống nhất trong
tư tưởng nghệ thuật của Tố Hữu : Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Tất cả
niềm vui, nỗi buồn trong những chặng đường thơ của ông đều không xa rời lẽ
sống ấy. Vậy nên, trong thế giới nghệ thuật thơ Tố Hữu một số hình tượng
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
11
tâm huyết trở thành phổ biến, cứ trở đi, trở lại như Đảng, Tổ quốc, Bác Hồ,
đồng chí, đồng bào, những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản, những

truyền thống tốt đẹp của cha ôngCho nên danh hiệu phù hợp với Tố Hữu
một cách tổng quát nhất vẫn là : nhà thơ của lẽ sống cách mạng.
Khẳng định tư tưởng nghệ thuật nhất quán này, ngay từ tập thơ đầu của
mình Tố Hữu đã viết:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Và những nhân vật của ông , từ Lênin, Bác Hồ, anh bộ đội, anh giải
phóng quân, mẹ Tơm, mẹ Suốt, chị Lý, anh Trỗi, đến em Lượm,đều mang
mặt trời chân lý ấy trong tim  đúng là những con người như chân lý sinh
ra.
Thơ Tố Hữu đã trở thành thân thiết với nhiều thế hệ Việt Nam trong
mấy chục năm qua trước hết bởi vì qua thơ của mình nhà thơ đã giải quyết
được vấn đề đang được đặt ra hết sức gay gắt lúc đó là : Vấn đề lý tưởng
cách mạng. Trong những ngày đen tối dưới ách thực dân, thơ ông đem lẽ
sống ấy đến cho những thanh niên đang hoang mang trước ngã ba đường. Sau
cách mạng tháng Tám, thơ ông ngày càng trở thành ý thức về lẽ sống cách
mạng của toàn dân tộc trên mỗi chặng đường lịch sử.
Tìm hiểu tiến trình thơ của Tố Hữu, thấy lúc đầu lý tưởng cộng sản đến
với ông như là một luồng ánh sáng mãnh liệt và mới lạ. Trong tâm hồn của
nhà thơ trẻ , nó trở thành một năng lượng thẩm mỹ tự phát sáng, tự tỏa hương
ra thế giới bên ngoài. Ông thường dùng những hình ảnh tươi vui rực rỡ tượng
trưng cho ý niệm : chủ nghĩa cộng sản  mùa xuân của nhân loại. Thời
điểm này cái tôi được biểu hiện một cách chân thật, hết sức trong sáng hồn
nhiên của một thanh niên khát khao lý tưởng tự ca hát niềm vui lớn của mình
khi bắt gặp lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và được chiến đấu hy sinh cho lý
tưởng ấy.
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
12
Ở đó, có sự kế tục truyền thống thơ văn yêu nước thời Phan Bội Châu,

Phan Chu Trinh, thơ ca Xô Viết Nghệ Tĩnh ; kết hợp với những cách tân nghệ
thuật theo xu hướng hiện đại hóa. Thơ Tố Hữu là tiếng lòng của một kiểu nhà
thơ mới, đứng giữa lòng cuộc sống mà cất lời kêu gọi đấu tranh. Qua tâm hồn
chan chứa yêu thương của nhà thơ, các vấn đề và sự kiện chính trị liên quan
tới vận mệnh cả dân tộc - đều thành nguồn xúc cảm nghệ thuật mãnh liệt. Do
đó, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn bao trùm phần lớn sáng tác
của Tố Hữu. Nhân vật trữ tình luôn nhân danh Ðảng, nhân danh cộng đồng ;
tập hợp những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp ; được nâng lên
tầm vóc mới - nên nhiều khi mang vẻ đẹp phi thường.
Thế giới quan của Tố Hữu, ngay từ buổi đầu, đã mang bản chất cách
mạng. Khi được mặt trời chân lí chói qua tim, nhà thơ nhận ra con đường
giải thoát duy nhất cho dân tộc Việt Nam : cách mạng vô sản. Bao chông gai
thử thách đang chờ đón, nhưng có hề gì, người thanh niên ấy đã nguyện dâng
tất cả để tôn thờ chủ nghĩa. Lý tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại làm sục
sôi nhiệt huyết trong trái tim chan chứa yêu thương. Giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, đem lại hạnh phúc cho mọi người đã trở thành sự nghiệp, lẽ
sống tha thiết, thôi thúc nhà thơ hiến dâng trọn cuộc đời. Quyết tâm dấn thân
vì nghĩa lớn và lòng trung thành tuyệt đối tạo nên chất men say kỳ diệu, có
sức lôi cuốn tự nhiên, lâu bền.
Đến giai đoạn Việt Bắc, lý tưởng cách mạng được vận dụng như là
quan điểm tiếp cận, đánh giá và khái quát hiện thực. Cảnh tượng vĩ đại của
toàn dân đứng lên giết giặc đập mạnh vào cảm quan thẩm mỹ của ông. Cái tôi
của nhà thơ ẩn mình sau những nhân vật quần chúng cách mạng đi vào thơ
ông từ hiện thực. Thế giới nghệ thuật của ông trở thành hình ảnh thu nhỏ của
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Cái tôi của cá nhân chìm lấp đi trở
thành cái ta của Đảng của dân tộc. Nó tự đặt mình trên đỉnh cao của thời đại,
trò chuyện với lịch sử với nhân loại. Nhà thơ tự xem mình là trường hợp
tiêu biểu của mối quan hệ Đảng  Thơ ca  Cuộc sống :
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A

13
Làm bí thư hoài có bíthơ
Rằng : thơ với Đảng nặng duyên tơ
Nghề bí thư , đâu chuyện giấy tờ!
Lắng nghe cuộc sống gọi từng giờ
Phải đâu tim cứng thành khuôn dấu?
Càng thấu nhân tình nên vẫn thơ!
Tư tưởngg nghệ thuật bao trùm trong những sáng tác của nhà thơ Tố
Hữu chính là lí tưởng cộng sản nên đối tượng mà thơ ông hướng tới đầu tiên
phải là Đảng. Bản thân Tố Hữu trước hết là một nhà cách mạng. Cuộc đời
ông, trái tim ông đã dành riêng cho Đảng phần nhiều. Đảng yêu cầu ông
trước hết phải nhằm vào đại chúng mà tuyên truyền vận động cách mạng. ý
thức về đối tượng ấy đã ảnh hưởng sâu sắc tới phương hướng phát triển của
phong cách nghệ thuật của ông. Đại chúng là nơi kết tinh sâu sắc và bền vững
nhất những truyền thống tinh thần của dân tộc. Thơ ông dễ đi vào đại chúng
cũng vì có tính dân tộc đậm đà. Người ta thường nói về màu sắc Việt Nam
trong thế giới hình tượng của ông, tư phong cảnh đất nước tới những con
người, đặc biệt là hình tượng Bác Hồ, những bà mẹ, những anh bộ độiBút
pháp vẽ người , vẽ cảnh cũng có cái gì đó rất Việt Nam: màu sắc tươi sáng mà
dịu dàng, loáng thoáng mấy nét chấm phá thanh thoát mà tài hoa, không thiên
về tả hình xác thế giới, mà muốn truyền được linh hồn của cảnh vật:
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng người
(Việt Bắc)
Tố Hữu, nhất là từ tập Việt Bắc trở đi, xứng đáng được gọi là nhà thơ
của Tổ quốc Việt Nam, là hồn thơ dân tộc. Đọc nhiều bài thơ của ông cứ thấy
ẩn hiện trên những nẻo đường đất nước, hình ảnh một chàng thi sĩ say mê đến
ngơ ngẩn trước vẻ đẹp của quê hương mình ( Ta đứng vậy ngẩn ngơ mà

Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
14
ngắm mãi, Tôi muốn hỏi như một chàng thi sĩ, Ngẩn ngơ nhìn bát ngát
bãi phù sa). Chắp lại những áng thơ hay nhất của Tố Hữu, người ta như
đứng trước tấm gương lung linh phản chiếu những gì hết sức thân thuộc với
mỗi người Việt Nam không biết tự bao giờ: ấy là một bóng tre trùm mát rượi
trên lưng đèo Nhe, một bông chuối rừng đỏ thắm giữa cái xanh thăm thẳm
của núi rừng, là những con đường Việt Bắc về xuôi lượn quanh những đồi
chè, rừng cọ, là con sông Thương bên trong bên đục, là nước sông Hồng đỏ
nặng phù sa, là dải Hương Giang êm ả trôi trời trong veo, nước trong veo,
là những dòng kênh, những đường dừa Nam bộ, là tiếng hát giao duyên miền
Bắc Mình về mình có nhớ ta, là câu hò đằm thắm miền Trung Sông Thu
Bồn giọng hát đò đưa, là vẻ đẹp đầy sức sống của cô gái Bắc Ninh hát câu
quan họ chuyến đò ngang, là cái duyên nghiêng nghiêng vành nón của
những cô gái Huế, là những bà bầm, bà bủ Việt Bắc, những bà má miền Nam
suốt đời nhẫn nại nuôi con để lại sẵn sàng tiễn con ra trận, là anh bộ đội, anh
giải phóng quân hiền lành mà dũng mãnh, là Bác Hồ vĩ đại mà vô cùng giản
dị
Trên những phong cảnh rất đỗi Việt Nam ấy, ta thấy như tỏa chiếu một
thứ ánh sáng riêng cũng rất Tố Hữu. Có khi là ánh trăng trong trẻo dịu dàng
(Rừng thu trăng rọi hòa bình). Nhưng thường thì là ánh sáng mặt trời, ánh
nắng. Có đôi lần nó là cái nắng chói gắt của mùa hạ (Từ ấy , Dưới trưa).
Nhưng Tố Hữu thích nhất ánh nắng ấm áp trẻ trung những buổi sớm mùa
xuân và cái nắng vàng rực rỡ trong gió thu lồng lộng. Cái ánh nắng trong thơ
Tố Hữu bao giờ cũng đẹp, cũng vui và trìu mến biết bao : Nắng chói sông
Lô, hò ô tiếng hát, Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt  Nắng soi sương
giọt long lanh, Ngoài này nắng đỏ cành cam  Chắc trong ấy nắng xanh
lam ngọn dừa. Có nghĩ đến mùa mưa dầm dề sùi sụt của Huế quê ông mới
thấy quý cái nắng trong thơ ông.

Nhưng sức mạnh thẩm mỹ trội nhất của thơ Tố Hữu có lẽ là ở tính nhạc
rất giàu của nó. Chất dân tộc sâu đậm nhất ở đấy chăng? Nhiều câu thơ của
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
15
Tố Hữu đọc lên cứ thấy réo rắt âm hưởng của câu thơ Kiều, câu thơ Chinh
phụ. Có khi lại là cái giọng mộc mạc đằm thắm của ca dao, dân ca. Sáng tạo
tài năng nhất của Tố Hữu, nhìn chung, không ở những từ ngữ mới lạ, những
so sánh tân kỳ, mà ở những hòa phối âm thanh, nhịp điệu có sức diễn tả độc
đáo. Có những phối âm có thể nói là khó có thể đạt hơn được:
Thác bao nhiêu thác, cũng qua
Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi!
Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên
(Nước non ngàn dặm)
Đọc những câu thơ trong bài Mẹ Tơm, lắng nghe như có âm hưởng dội
về của tiếng sóng biển từng đợt đổ tràn vào bãi cát rồi lại rút ra xa mãi :
Ôi có phải sóng bồi thêm bãi trước
Hay biển đau xưa rút nước xa rồi?  
Có khi âm nhạc lại phối hợp với vũ đạo:
Ôi những nàng xuân rất dịu dàng
Hát câu quan họ chuyến đò ngang
Nhẹ nhàng tay cấy bên sông ấy
Súng khoác trên lưng chẳng ngỡ ngàng
(Xuân sớm)
Cố nhiên thơ dùng nhạc bên ngoài cốt để tạo nên nhạc bên trong. Đọc
thơ Tố Hữu cứ thấy có cái gì như muốn ca lên, hát lên và ngân nga mãi trong
lòng mình. Hình như trong thơ ông, nhạc bên trong càng vang dội khi nhạc
bên ngoài chỉ khẽ bấm vào nhữg tiếng tơ trầm. Tố Hữu có giọng nói thầm rất
thích. Nhiều khi lại nói bằng sự im lặng. Có lẽ cái độc đáo nhất của nhà thơ là

thường nói lẽ sống cách mạng, nói chuyện chính trị bằng giọng điệu và ngôn
ngữ của tình yêu. Thơ Tố Hữu trong phần tiêu biểu nhất vẫn là thơ tâm sự,
thơ tâm tình với giọng thầm kín ngọt ngào. Người ta đã giải thích giọng thơ
này bằng nhiều lý do, trong đó có lý do ảnh hưởng của quê hương ông. Đúng
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
16
là có cái giọng Huế trong thơ Tố Hữu, cái giọng hờn dịu ngọt của người
Huế, cái giọng hò man mác thiết tha trên sông Hương và cái giọng thầm thì
của chính con sông rất đỗi thơ mộng và trữ tình này:
Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình
Thơ Tố Hữu thể hiện niềm vui, nỗi buồn và thái độ yêu - ghét đúng
đắn. Ðó là tâm trạng của một người nguyện gắn bó máu thịt với nhân dân. Là
tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí.
Con ong làm mật, yêu hoa
Con cá bơi, yêu nước; con chim ca, yêu trời
Con người muốn sống, con ơi
Phải yêu đồng chí, yêu người anh em
Thơ ấy, đã vui thì vui bất tuyệt, còn đau khổ thì có khổ đau nào đau
khổ hơn. Trái tim tự xát muối, cô đơn. Nhân sinh quan của Tố Hữu cũng
mang bản chất cách mạng sâu sắc : yêu đất nước, con người và cái Thiện ;
ghét kẻ thù phi nhân, ghét cái Ác. Nhưng không phải kiểu yêu - ghét suông
có màu sắc cải lương, bao giờ cũng dẫn đến hành động quyết liệt : tranh đấu
tới cùng để bảo vệ chính nghĩa ; lên án, tiêu diệt những thế lực phản cách
mạng, thù địch với con người.
Tố Hữu tin chắc đây là mối lương duyên bền chặt.









Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn  
Nguyễn Đức Hiền  VHVN/K18A
17

III. KẾT LUẬN CHUNG
Qua việc phân tích cụ thể ở trên ta thấy công việc xác định tư tưởng
nghệ thuật của nhà văn là rất quan trọng. Tất nhiên đó là cả một quá trình
khám phá vất vả, đòi hỏi sự nhạy cảm, tinh tế của nhà nghiên cứu. Một vốn tri
thức cơ bản về lí luận là cần thiết để nhà nghiên cứu có thể soi sáng được tư
tưởng nghệ thuật chìm ẩn trong những sáng tác của nhà văn. Hiểu được nhà
văn, hiểu được tác phẩm ta sẽ nắm bắt được tư tưởng nghệ thuật của nhà văn
đó. Đây là công việc thiết nghĩ không thể không quan trọng với những nhà
nghiên cứu văn học nói chung, với những người giáo viên dạy văn học nói
riêng.
Tố Hữu là nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Trải qua một
khoảng thời gian dài hơn nửa thế kỷ, tiếng thơ ông đã có tác động sâu xa đến
tư tưởng và tình cảm của độc giả nhiều thế hệ. Con đường thơ ấy là hành trình
đi tìm và bắt gặp sự kết hợp diệu kỳ giữa Cách mạng và dân tộc trong nghệ
thuật thơ ca. Ta có thể khẳng định tư tưởng nghệ thuật chính bao trùm toàn bộ
chặng đường thơ Tố Hữu chính là : Lý tưởng cộng sản.
Sự nghiệp sáng tác đồ sộ của Tố Hữu là một bộ phận không thể thiếu
trong vốn văn hóa tinh thần của quần chúng cách mạng. Từ góc nhìn, thời
điểm khác nhau, sẽ phát hiện những tầng ý nghĩa khác nhau của kho tàng
nghệ thuật ấy. Có thể đôi chỗ còn thô ráp, thiếu sự gọt rũa cần thiết hoặc ồn
ào, sáo mòn. Nhưng trên đại thể, bằng quan điểm cụ thể lịch sử và lập trường

Cách mạng, hoàn toàn có thể khẳng định: thơ Tố Hữu là một giá trị. Tất
nhiên, nó sẽ bất tử.
Trong khoảng thời gian không dài, kiến thức còn nhiều hạn chế, lần đầu
tiên làm quen với công việc nghiên cứu, tôi tự nhận thấy mình cần phải học
hỏi thêm để bổ sung, khắc phục những sai lầm, thiếu sót, để bài nghiên cứu
chính xác, đầy đủ và giàu sức thuyết phục hơn.