Truyền thuyết phản ánh lịch sử một cách độc đáo

Tìm hiểu về truyền thuyết Biên tập bởi: Đại học sư phạm Hà Nội Tìm hiểu về truyền thuyết Biên tập bởi: Đại học sư phạm Hà Nội Các tác giả: Đại học sư phạm Hà Nội Phiên bản trực tuyến: http://voer.edu.vn/c/77f801b4 MỤC LỤC 1. Những vấn đề chung về truyền thuyết 2. Những đặc điểm chung của truyền thuyết 3. Nội dung của truyền thuyết 4. Nghệ thuật truyền thuyết Tham gia đóng góp 1/17 Những vấn đề chung về truyền thuyết Truyền thuyết Thời điểm ra đời của truyền thuyết Truyền thuyết Việt Nam ra đời và phát triển trong thời đại anh hùng Việt Nam, thời đại mà những yếu tố xã hội – lịch sử của nó mang đặc trưng chung của thời đại anh hùng trong lịch sử nhân loại: Đó là thời kỳ con người bứt ra khỏi đời sống dã man, bước vào chế độ văn minh đầu tiên. Thời kỳ được đánh dấu bằng những chiến công lao động và những biến đổi xã hội sâu sắc, nên còn được gọi là thời kỳ của “thanh kiếm sắt, cái cày và cái rìu bằng sắt”. Ở Việt Nam, nó được đánh dấu bằng sự kết thúc của thời kì tiền sử, sự khởi đầu của thời kì sơ sử, với sự hình thành của nhà nước Văn Lang đầu tiên, thuộc thời kì văn hoá kim khí mà đỉnh cao là văn hoá Đông Sơn. + Việc sử dụng công cụkim loại được coi như một cuộc cách mạng kỹ thuật. Đồ đồng cực kỳ phong phú về số lượng, đa dạng về loại hình, thể hiện trình độ cao về kỹ thuật chế tác và năng khiếu thẩm mỹ dồi dào của chủ nhân nó như những chiếc rìu, lưỡi cày đồng, xẻng, cuốc đồng, dao gặt… Công cụ sản xuất vô cùng phong phú và tiến bộ đã dẫn đến thành quả lao động được nâng cao, đời sống con người được cải thiện. Bên cạnh nhu cầu ăn, ở, người ta đã có nhu cầu thẩm mĩ, không chỉ là ăn no mặc ấm mà còn là ăn ngon, mặc đẹp, và sinh hoạt tiện lợi. Con người đã phần nào khám phá một số bí ẩn của thiên nhiên để phục vụ cộng đồng: sản xuất một số cây trồng theo mùa vụ, tìm ra một số giống cây quý, nhiều giống lúa nước và chế biến một số món ăn từ gạo… + Nhu cầu mở rộng thêm các vùng định cư và sản xuất, khai thác thêm các thị trường mới để trao đổi sản phẩm, khám phá đất hoang… ngày càng dâng cao trong cộng đồng. Chiến tranh giữa các bộ tộc xảy ra liên miên nhằm xâm lấn đất đai, mở rộng địa bàn, thôn tính lẫn nhau (dẫn đến sự hình thành nhà nước đầu tiên). Các bộ lạc có xu hướng: hoặc là thâu tóm lẫn nhau hoặc đoàn kết để chống lại các bộ lạc lớn mạnh khác. + Hoàn cảnh đó đã tạo nên một Không khí hào hùng cho thời đại mà Ăngnghen nhận xét là: “thời đại mà mỗi thành viên nam giới của bộ lạc đến tuổi thành niên đều là những chiến binh…”. Các thành viên trong cộng đồng có điều kiện bộc lộ phẩm chất anh hùng của mình, ý thức về lịch sử, dân tộc, chủ quyền lãnh thổ được nuôi dưỡng. Xuất hiện các cá nhân anh hùng và tập thể anh hùng. Và truyền thuyết ra đời nhằm tôn vinh sức mạnh, phẩm chất người anh hùng của mình, cộng đồng của mình. Tóm lại: Thời đại truyền thuyết: Đó là bước tiến vọt từ đồ đá sang đồ đồng sắt, từ hái lượm săn bắt sang trồng trọt lúa nước và định cư nông nghiệp, từ lối sống thô sơ đến sự ra đời của “nghề khéo” và “của ngon vật lạ”, từ mẫu hệ sang phụ quyền, từ bộ lạc 2/17 sang liên minh bộ tộc và nhà nước phôi thai, tóm lại từ dã man sang văn minh, ở trên vùng châu thổ sông Hồng [1]. Và nếu như thần thoại ra đời từ nhu cầu nhận thức của người nguyên thuỷ thì truyền thuyết ra đời từ nhu cầu tôn vinh, nhu cầu được tự hào về những chiến công vĩ đại cả về làm ăn, cả về chiến đấu của con người thời đại anh hùng. Quan niệm về truyền thuyết - Truyền thuyết tương đương với thuật ngữ "legend" của tiếng Anh hay "légende" của tiếng Pháp - Khái niệm truyền thuyết được dùng với nội hàm như ngày nay đã trải qua nhiều tranh luận, bàn cãi của các nhà nghiên cứu, học giả để định hình khái niệm. - Một số tác giả phủ nhận sự tồn tại của truyền thuyết với tư cách là thể loại văn học dân gian độc lập như Nguyễn Đổng Chi, Đinh Gia Khánh... - Ngược lại, Đỗ Bình Trị, Kiều Thu Hoạch và nhiều nhà nghiên cứu khác quan niệm truyền thuyết là một thể loại tự sự dân gian - Đỗ Bình Trị: Trong cuốn giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam (Bùi Văn Nguyên chủ biên) ông xếp truyền thuyết bên cạnh thần thoại, và định nghĩa: Truyền thuyết là những truyện có dính líu đến lịch sử mà lại có sự kỳ diệu – là lịch sử hoang đường – hoặc là những truyện tưởng tượng ít nhiều gắn với sự thực lịch sử. Tính chất thể loại của truyền thuyết bắt đầu được khẳng định rõ. - Năm 1971, trong cuốn sách Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam có tới ba bài viết khẳng định truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian. Tác giả Kiều Thu Hoạch nhận định: Truyền thuyết là một thể tài truyện kể truyền miệng nằm trong loại hình tự sự dân gian; nội dung cốt truyện của nó là kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật theo quan niệm nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng những yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại… * Vào đầu những năm 80, mục từ TRUYỀN THUYẾT do Chu Xuân Diên chấp bút có mặt trong Từ điển văn học. Truyền thuyết được khẳng định là một trong những thể loại tự sự dân gian, có quan hệ gần gũi với các thể loại tự sự dân gian khác như thần thoại và truyện cổ tích. * Các cuốn giáo trình Văn học dân gian VN tập II – Hoàng Tiến Tựu viết, Văn học dân gian VN – Lê Chí Quế chủ biên, Văn học dân gian (dành cho tại chức và từ xa) – Phạm Thu Yến chủ biên… đều dành một chương cho việc nghiên cứu truyền thuyết với tư cách là một thể loại độc lập. Định nghĩa truyền thuyết của Lê Chí Quế:Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình từ sự dân gian phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử hay di tích cảnh vật địa phương thông qua sự hư cấu nghệ thuật thần kỳ [3]. 3/17 [1]Đinh Gia Khánh (chủ biên) – Văn học dân gian Việt Nam – NXB Giáo dục – H.2003 (tái bản lần thứ bảy). [2] Nguyễn Đổng Chí – Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam – NXB Giáo dục – H.2000 [3] Lê Chí Quế (chủ biên) – Văn học dân gian Việt Nam – NXB Đại học Quốc gia HN – H.1998 Phân loại truyền thuyết Vấn đề phân loại truyền thuyết được đặt ra ngay từ buổi đầu lịch sử sưu tầm,những truyền thuyết. Có rất nhiều cách phân loại truyền thuyết tuỳ theo các tiêu chí phân loại. + Phân loại căn cứ vào nội dung của thời kì lịch sử được truyền thuyết phản ánh 1. Truyền thuyết về “Họ Hồng Bàng” và thời kì Văn Lang - Âu Lạc 2. Truyền thuyết về thời Bắc thuộc 3. Truyền thuyết thời phong kiến tự chủ 4. Truyền thuyết thời kì cận hiện đại + Phân loại truyền thuyết theo tiêu chí những chủ đề nội dung phản ánh, nhân vật, kết cấu…, có cách phân loại sau: 1. Truyền thuyết địa danh (về tên gọi của các địa danh) 2. Truyền thuyết lịch sử (về nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử) 3. Truyền thuyết phổ hệ (về nguồn gốc lịch sử của các dòng họ, các ngành nghề, các tôn giáo…) Hoặc cụ thể hơn 1. Truyền thuyết về sự hình thành dân tộc 2. Truyền thuyết về các vị anh hùng trong chiến đấu 3. Truyền thuyết về những vị anh hùng trong lao động và sáng tạo văn hoá. 4. Truyền thuyết về địa danh và đền chùa - Truyền thuyết của dân tộc đã được ghi thành văn bản từ rất sớm 4/17 + Ngay từ thời Bắc thuộc, các học giả phương Bắc đã ghi lại truyền thuyết về thời Hùng Vương qua các sách: Giao châu ngoại vực kí (thế kỉ IV), Việt Nam chí (thế kỉ V). Khoảng thế kỷ X đến thế kỉ XIV có các sách ghi chép truyền thuyết như Báo cực truyện, Ngoại sử kí của Đỗ Thiện, Việt điện u linh của Lí Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh… Hai cuốn trên chỉ còn tên, hai cuốn dưới sách không còn nguyên vẹn. + Đến thế kỉ thứ XV thì truyền thuyết dân gian mới được ghi chép nhiều hơn. Cuốn Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên có vai trò quan trọng trong việc sưu tầm, ghi chép truyền thuyết. Truyền thuyết được ghi lại ở phần ngoại kỉ, được sắp xếp và hệ thống hóa lại. + Năm 1996, Lê Văn Kỳ tổng kết việc sưu tầm, biên soạn truyền thuyết nhận xét: Cho đến nay ít nhất cũng đã có 15 cuốn truyền thuyết với vài trăm truyện lớn nhỏ đủ để khẳng định nó là một thể loại văn học dân gian độc lập [1] - Có nhiều cách phân loại truyền thuyết tuỳ thuộc vào những tiêu chí khác nhau, nhưng cách phân loại căn cứ vào nội dung của thời kỳ lịch sử được truyền thuyết phản ánh là hợp lý hơn cả vì tránh được trùng lặp và thích hợp với đặc trưng phản ánh lịch sử của truyền thuyết. 5/17 Những đặc điểm chung của truyền thuyết Những đặc trưng của truyền thuyết Truyền thuyết phản ánh lịch sử một cách độc đáo - Truyền thuyết luôn gắn bó với sự thật, với lịch sử, phản ánh những sự kiện trọng đại của dân tộc, nhiều nhân vật trong truyền thuyết cũng là nhân vật trong chính sử, trong sự nghiệp chung được nhiều người thừa nhận, noi theo. - Mặc dù vậy, truyền thuyết vẫn là một thể tài văn học dân gian chứ không phải là một thể tài sử học. Trong truyền thuyết có những sự kiện lịch sử nhưng chúng không phải những sự kiện lịch sử đích thực mà chỉ là “những ánh hào quang, những tia khúc xạ” của lịch sử. TT từ lịch sử mà ra nhưng TT lại không phải là lịch sử. Trước hết, truyền thuyết không chú ý đến việc đảm bảo tính đầy đủ và tuần tự theo thời gian của các sự kiện lịch sử. Không phải bất cứ nhân vật và sự kiện lịch sử nào cũng trở thành trung tâm phản ánh của truyền thuyết. Truyền thuyết có thể ghi lại những sự kiện lịch sử của thời khuyết sử hoặc chọn lọc những sự kiện theo quan niệm của nhân dân. Ngược lại, một số nhân vật lịch sử không được sử sách ghi lại nhiều như nhân vật Cao Lỗ nhưng trong truyền thuyết ông có một vị trí quan trọng, một vị thần trong tín ngưỡng dân gian.Trong Việt điện u linh, Cao Lỗ được phong là Quả nghị cương chính vương, trong Giao chỉ ký, Cao Lỗ còn được gọi là Đô Lỗ hay Thạch Thần (vị thần đá - được tôn xưng từ tín ngưỡng thờ đá của nhân dân). Sáu đình xã Cao Đức và đến Đại Than (huyện Gia Lương – Hà Bắc) lập đền thờ ông… - Truyền thuyết cũng không đảm bảo tính chính xác tuyệt đối về mặt thời gian, không gian, diễn biến, nguyên nhân và kết quả của các sự kiện lịch sử. - Và truyền thuyết thường chú ý nhiều hơn đến những nhân vật có xuất thân nông dân hoặc gần dân. Truyền thuyết dân gian thường kể về người anh hùng trong mối quan hệ với dân, trong đó nhân dân vừa là người tham gia, vừa là chỗ dựa tin cậy để người anh hùng làm nên chiến thắng. Như vậy, người ta không thể tìm thấy trong truyền thuyết những sự kiện lịch sử chính xác đích thực, nhưng lại có thể tìm thấy những thứ mà không có một tài liệu liạh sử nào có thể ghi lại được. Đó chính là quan điểm đánh giá lịch sử của nhân dân, là tâm tư, tình cảm, mong ước thầm kín của nhân dân trong mỗi triều đại lịch sử qua cách nhân dân “kể” lại các sự kiện. Đó còn là tinh thần kiên cường tự chủ, là niềm tự hào, niềm tin vào 6/17 khả năng và sức mạnh bản thân của nhân dân, nó giống như một dòng chảy âm thầm nhưng mỗi ngày một mạnh mẽ mà nhân dân đã khéo léo thể hiện và nuôi dưỡng nó qua việc chủ động đánh giá lịch sử, qua việc khẳng định người anh hùng chỉ có thể làm lên nghiệp lớn nếu được sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân…Tính chính xác lịch sử trong truyền thuyết, như nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch khẳng định, không phải hoàn toàn ở sự phản ánh về thời gian, không gian, nhân danh, sự biến, trình tự biên niên của sự kiện mà chủ yếu là ở bản chất, ở cái cốt lõi của lịch sử. Đó là một thứ lịch sử văn hoá - tinh thần của nhân dân. Nó không giống như chính sử, nhưng lại luôn được dân gian thừa nhận đó chính là lịch sử đáng tin cậy (tín sử) của mình. Truyền thuyết thể hiện tất cả những điều đó nhờ yếu tố tưởng tượng, hư cấu. Yếu tố tưởng tượng, hư cấu trong truyền thuyết làm cho hành trạng của mỗi nhân vật anh hùng trở nên kỳ vĩ, nhân vật được sánh ngang tầm thần thánh, tạo nên một cốt truyện truyền cảm, sinh động, vừa chân thực vừa hấp dẫn, giúp cho TT trở thành một tác phẩm nghệ thuật thực thụ chứ không phải là một tài liệu sử học. Truyền thuyết và nghi lễ, lễ hội Phân tích mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội trong đoạn phim trên? - Mối quan hệ truyền thuyết và lễ hội là quan hệ có tính chất qua lại, bổ sung lẫn nhau: Truyền thuyết là cốt lõi của lễ hội, khiến cho lễ hội có nội dung thiêng liêng, còn lễ hội làm cho việc diễn xướng truyền thuyết được sinh động, thu hút sự gắn bó và cộng cảm của tập thể. - Đối với nhân dân, lễ hội là hình thức kể chuyện, là sự bảo lưu các cốt truyện, bởi vì: • Nhân dân hầu như không biết chữ, không thể đọc được các bản kể truyền thuyết được các nhà Nho sưu tầm. • Các lễ hội kể lại thường niên nội dung các truyền thuyết làm nhân dân dễ nhớ, dễ thuộc. • Hình tượng người anh hùng, cuộc đời và những hành trang của các anh sẽ tác động trực tiếp, trực quan đến đông đảo nhân dân nhờ môi trường lễ hội. Ở đó, nhân dân không chỉ là người xem hội thụ động mà còn là người chủ động đóng vai, nhập vai khi được tham gia làm những nhân vật và diễn lại các sự kiện của truyền thuyết. Điều này đã góp phần nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc và tình cảm cộng đồng của nhân dân. • Lễ hội gắn với nghi lễ nên tính trang nghiêm (không gian và thời gian thiêng) càng thể hiện được bản chất của truyền thuyết nhằm tôn vinh các anh hùng. - Đối với lễ hội, truyền thuyết đóng vai trò là xương sống, là cốt truyện dẫn dắt tiến trình lễ hội, là sự minh giải cho lễ hội: mở hội vào ngày nào, sau bao nhiêu năm lại mở lại 7/17 một lần, tại sao kéo dài từng ấy ngày, rước từ đâu đến đâu, lễ vật dâng cúng gồm những gì, phải kiêng kị những gì… - Các lễ hội đều có nguồn gốc là các nghi lễ nông nghiệp, phát triển thành hội làng. Sau đó thì lớp ý nghĩa chống ngoại xâm, ca ngợi các vị anh hùng được lồng ghép vào và chiếm vị trí nổi bật. Đây cũng là một sự gần gũi giữa nội dung của lễ hội với nội dung của truyền thuyết. Thực chất trong các truyền thuyết anh hùng, hai mặt sản xuất và chiến đấu được kết hợp rất nhịp nhàng. Trong truyền thuyết Thánh Gióng bên cạnh việc đánh giặc cũng còn có chuyện hái cà, đập đất, chăn trâu…Hai Bà Trưng sau khi chết còn hiển linh giúp dân chống hạn. Cao Lỗ khi hiển linh với Cao Biền có nói rằng: phàm việc dẹp giặc và việc mùa màng ta đều được chủ trương cả - Lĩnh nam chích quái. Nguyên nhân chủ yếu là do trong một thời gian dài, hai mặt làm ăn và đánh giặc đã chiếm vị trí quan trọng duy nhất trong đời sống dân tộc ta, mặt khác cũng do cả hai việc lớn này đều do một người gánh vác – người nông dân Việt Nam. Tóm lại: Truyền thuyết và lễ hội đều là sản phẩm hoạt động tinh thần của nhân dân, do dân sáng tạo, bồi đắp, lưu giữ và thể hiện. Cả hai đều có một bộ phận rất quan trọng tập trung ca ngợi những người có công với dân, với nước, đều hướng tới mục đích khơi dậy lòng tự hào dân tộc và nhắc nhở con cháu đừng phụ công ơn của các bậc tiền bối. Chúng khác nhau ở chỗ: Truyền thuyết là một thể loại văn hoá dân gian. Nó khắc hoạ người anh hùng bằng ngôn từ, bằng hình tượng, bằng các biện pháp nghệ thuật theo đặc trưng của thể loại. Trong lúc đó hội lễ là một sinh hoạt văn hoá dân gian tổng hợp, cần có môi trường diễn xướng, có cộng đồng tham dự. Hội lễ ca ngợi người anh hùng bằng tín ngưỡng, bằng nghi thức lễ bái, bằng phong tục, bằng sự kiêng kị, bằng vật phẩm dâng cúng, bằng việc diễn lại sự tích, hành trạng, bằng trò chơi dân gian, bằng đám rước.v.v..[1] [1] Lê Văn Kỳ – Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các anh hùng – NXB KHXH – HN 1996. Truyền thuyết có tính dân tộc và tính địa phương sâu sắc - Truyền thuyết bao giờ cũng phải gắn với không gian-thời gian cố định, không- thời gian lịch sử cụ thể. Một truyện kể dân gian nếu không gắn với không- thời gian cố định thì không thể là truyền thuyết được. Một nhân vật truyền thuyết nổi tiếng được rất nhiều người biết đến nhưng hành trạng, sự nghiệp của nhân vật đó bao giờ cũng gắn với những địa phương cụ thể, những nơi mà nhân vật đã đi qua. Do đó, vẫn luôn tồn tại những truyền thuyết của từng địa phương mang tính địa phương rõ nét. Mỗi vị anh hùng, mỗi nhân vật đều gắn với con người và một vùng đất cụ thể. Hơn nữa, nhân dân lại có xu hướng, nhu cầu “kéo” các vị anh hùng lại gần cuộc sống của mình, gắn với địa phương mình. Trong quá trình lưu truyền, truyền thuyết đi đến mỗi địa phương luôn được kết 8/17 nạp những yếu tố mới sao cho phù hợp với đặc điểm, phong tục tập quán của từng địa phương. Đó chính là hình thức địa phương hoá các truyền thuyết dân gian. Ví dụ : Truyền thuyết về Xuân Nương công chúa (nữ tướng của Hai Bà Trưng) trải qua các vùng Hương Nha, Hương Nộn, Nam Cường, Man Châu… Mỗi địa phương lưu giữ một sự tích về nàng. Riêng vùng Nam Cường (Tam Nông, Phú Thọ) là nơi Xuân Nương đã bị đoạ thai trên một tảng đá bằng nửa chiếc chiếu, tục truyền là đá cấm, vẫn để thờ trong miếu. Trước miếu có hai mộ am, có sách ghi chép: một am gọi là “hà sa hào tích” (hà sa là rau bà đẻ). - Còn có một xu hướng ngược lại nữa cũng song song diễn ra: xu hướng toàn quốc hoá các nhân vật lịch sử ở một địa phương cụ thể nào đó. Đây là cách để người dân địa phương gắn bó mình với toàn dân tộc, nó thể hiện nhu cầu muốn gắn bó làng xã với quốc gia, với triều đình Ví dụ: Dóng, sau khi thắng giặc Ân trở về, trên đường về (từ Bắc Ninh – những vùng Quế dương, Võ giàng, Thuận Thành, Tiên du, Yên Phong …nơi in dấu những vết chân ngựa và gốc tre ngà bị nhổ- về Sóc Sơn) có ngồi lại bên Hồ Tây, mở gói cơm cà ra ăn. Những hạt cà rơi xuống mọc lên một giống cà Xuân Đỉnh nhỏ, giòn, ngon. Dóng đến làng Kẻ Khốn ngồi nghỉ uống nước, thấy nước mát liền đổi tên làng là làng Kẻ Mát… - Như vậy, cuộc đồi người anh hùng bao giờ cũng gắn với các vùng địa danh: đất sinh ra, đất chết đi hay hoá thân, và vùng đất đi qua để lại dấu vết về hành trạng, sự kiện, chiến công… - Và như vậy, truyền thuyết trong quá trình lưu truyền được biến đổi cả về lượng và chất. Sự gắn kết nhân vật truyền thuyết với địa phương, với phong vật đã dần dần trở thành một tâm thức phổ biến, để dẫn đến hình thành một quy luật tâm lý phổ biến trong đời sống nhân dân: thấy vật nhớ đến người, nghĩ đến người nhớ vật. - Hiện tượng này cũng phù hợp với lễ hội, phong tục dân gian. Đó là ngoài các lễ hội mang tính chất toàn quốc hay của một vùng rộng lớn (Hội đền Hùng, Hội Côn Sơn Kiếp Bạc…) thì hầu hết các lễ hội đều là các hội làng (hoặc liên làng). 9/17 Nội dung của truyền thuyết Tóm tắt về "Họ Hồng Bàng" và thời kì Văn Lang - Âu Lạc TT thời Hồng Bàng thể hiện niềm tự hào của nhân dân về tổ tiên, giống nòi, về nguồn gốc các dân tộc người. Truyền thuyết là sự thể hiện sự trưởng thành về ý thức con người. Đó là ý thức về quốc gia, dân tộc đồng thời với nó là ý thức cội nguồn. Khi xã hội càng phát triển, con người đã đạt được những thành tựu nhất định thì họ càng có ý thức về bản thân mình, muốn tô điểm cho nguồn gốc, phẩm chất của mình. Truyền thuyết ra đời để chuyển tải nội dung đó. TT thời Văn Lang - Âu Lạc - Những anh hùng dựng nước: Lạc Long Quân - Âu Cơ - Hùng Vương – Sơn Tinh Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ phản ánh quá trình liên minh bộ lạc của những người vùng núi và vùng sông nước, miền xuôi và miền ngược, của những người thờ vật tổ là rắn và bộ lạc thờ chim làm vật tổ. Đó là mối dây liên kết đầu tiên, là tiền đề để hình thành dân tộc Việt. Tiếp sau đó, những chiến công diệt Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh của Lạc Long Quân thể hiện quá trình chinh phục thiên nhiên, mở mang bờ cõi của ông cha ta (vùng biển, vùng đàm lầy và vùng rừng núi). • Truyện Hùng Vương chọn đất đóng đô, Thành Phong Châu, Con Voi bất nghĩa, Vua Hùng dạy dân trồng lúa, Vua Hùng đi săn đề cao hình tượng Vua Hùng là người có công dựng nước, biết cách trị nước giúp dân. • Hình tượng những người con trai, con gái, con rể cùng góp công dựng nước, mở mang bãi bờ, cai trị dân chúng: Con gái Tiên Dung, con rể Chử Đồng Tử dạy dân làm ăn, mở mang bờ cõi; con gái Ngọc Hoa, con rể Sơn Tinh dạy dân trồng lúa, dệt vải, hát múa… Đặc biệt Sơn Tinh đã lập nên chiến công to lớn, chiến thắng lực lượng tự nhiên để mở mang địa bàn sinh tụ. Những sự kiện đó là quá khứ vẻ vang gắn với niềm tự hào về nòi giống và dân tộc, đề cao ý thức về dòng dõi, nguồn gốc “con Lạc cháu Hồng” cao quý. Dễ dàng nhận thấy chủ đề xuyên suốt các truyền thuyết này là suy tôn các vua Hùng và ca ngợi công lao dựng nước, an dân của các vị trong suốt buổi bình minh của lịch sử dân tộc. - Những anh hùng giữ nước: Thánh Dóng, An Dương Vương Họ là những người có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự hào dân tộc sâu sắc, có khí phách hiên ngang, kiên cường, bất khuất, vừa anh dũng vừa mưu trí, có tài dẹp giặc chỉ trong nháy mắt. Bên cạnh sức khoẻ vô song, những nhân vật này lập được chiến công 10/17 nhờ sự phù trợ của các vật thiêng: An Dương Vương có nỏ thần, được sứ Thanh Giang giúp sức, Thánh Gióng có ngựa sắt, roi sắt… Nhưng những vật thiêng này không hàm chứa năng lượng của tự nhiên như trong thần thoại mà nó là kết tinh của sức mạnh tập thể. Thánh Gióng được sự giúp sức của người thợ rèn sắt, đoàn trẻ trăn trâu cầm bông lau (làng Hội Xá), người cầm vồ (Làng Trung Mầu), người tạc tượng (tại Làng Mã, Gióng quay ngựa nhìn đất nước, Vu Điền gặp Gióng và tạc tượng Gióng). Như vậy, người anh hùng Gióng là kết tinh của mọi khă năng anh hùng trong thực tiễn: quần chúng, công cụ sản phẩm, vũ khí và địa thế non sông (theo Cao Huy Đỉnh). Một số nhân vật anh hùng sáng tạo kĩ thuật, xây dựng giỏi, chiến đấu giỏi lại trung thực như Thần Rùa, Ông Nỏ (Cao Lỗ), Ông Nồi là đại diện cho trí tuệ cho tinh thần dũng cảm bất khuất của tập thể nhân dân, được nhân dân dành cho niềm ngưỡng mộ cao quý trong những truyền thuyết về riêng họ. Người anh hùng vừa là tổng số vừa là một tổng hợp của các lực lượng. Những chiến công và thành tựu của nhân dân hàng nghìn người trong hàng nghìn năm được gắn cho một người, trong một thời gian ngắn thì tất yếu người đó sức mạnh tầm vóc to lớn, kì vĩ, ngang tầm với thần thánh. Truyền thuyết thời kì này có tính chất hoành tráng, gần gũi với sử thi, anh hùng ca - Những nhân vật anh hùng văn hoá cũng chiếm một số lượng lớn trong kho tàng truyền thuyết. Đó là những người có công khai sáng, phát minh ra những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của nhân dân, những người anh hùng khai phá vùng đất mới, những vị thần tổ nghề… Qua đó, nhân dân bày tỏ lòng biết ơn, trân trọng của mình đối với thành tựu văn hoá, những kết quả lao động và sáng tạo. TT về thời Bắc thuộc - Đề tài chính của truyền thuyết giai đoạn này là chống xâm lược. Nhân vật tiêu biểu của truyền thuyết là những anh hùng cứu nước: Bà Trưng, Bà Triệu, Phùng Hưng, Triệu Việt Vương… Tất cả tạo thành một dòng chảy dồi dào, mạnh mẽ, minh chứng cho một điều hết sức thiêng liêng: Dẫu đất nước bị thôn tính, song phong trào giải phóng dân tộc chưa bao giờ vơi cạn. - Trước hết, đây là những cá nhân anh hùng bởi đó là những cá nhân có thật. Những anh hùng đẹp một cách toàn diện, kì vĩ phi thường về tướng mạo và tài năng. Nhân vật thường được gắn với những nguồn gốc cao quý, sự ra đời kì lạ hoặc có một điểm tướng tinh nào đó” Hai Bà Trưng là cháu ngoại vua Hùng, Đinh Thị Phật Nguyệt theo Hai Bà Trưng đánh giặc, lập nhiều chiến công, vốn trước kia mẹ của nàng mơ thấy có vị thần xưng là Triều Đò Đài ban cho bà chiếc kim thoa mà sinh hạ nàng. Sau này, khi đánh nhau với giặc Đông Hán, chống đỡ không nổi, nàng một mình chạy đến bờ sống, có phù kiều nổi lên đón nàng biến mất… 11/17 - Nhưng những cá nhân anh hùng này gắn bó mật thiết với tập thể và đặt quyền lợi của dân tộc, quốc gia lên trên hết: Bà Trưng đặt nợ nước lên trên thù nhà, hành động đầu tiên của bà trước khi lên đường diệt giặc cứu nước là cới bỏ khăn tang để ba quân khỏi xúc động về cái chết của chồng bà; nàng Xuân Nương dẫu đang có mang đứa con đầu lòng vẫn thắt khăn, quấn bụng oai dũng ra trận tiền trả thù cho nước nhà, cho người chồng yêu quý… - Ở giai đoạn này, môtíp sức mạnh đã được biến thành môtíp truyền sức mạnh. Không chỉ có người anh hùng xông pha giữa trận tiền mà còn có nhiều cá nhân anh hùng khác, nhiều người con kiên cường khác, cũng dũng cảm như thế, cũng vô song như thế, như cùng một bầu mẹ mà ra. Do đó, xuất hiện những truyền thuyết như Nàng Vú Thúng, Truyện Nàng trăm sắc, Truyện bà áo the, Truyện may áo chồng bằng hơi thở ấm… Như vậy, người anh hùng vừa đại diện cho tập thể, vừa hoà tan vào tập thể. TT thời phong kiến tự chủ - Thời phong kiến độc lập, truyền thuyết tập trung ca ngợi các nhân vật giữ yên đất nước trong thời kỳ độc lập: Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Dương Vân Nga… đến những anh hùng chống ngoại xâm Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Lê Lai… Tất cả nêu lên ý chí giữ gìn độc lập và tinh thần quyết tâm chống giặc của mọi người dân Việt Nam. Người anh hùng, vị vua anh minh bao giờ cũng hội tụ đầy đủ ba phẩm chất: trí, dũng, nhân (Lê Lợi xướng nghĩa). Kéo theo đó là những cuộc hội ngộ của vua dũng tướng tài, tạo nên một sức mạnh vô cùng vững chắc. Lê Lai sẵn mình chết thay cho chủ. Phải có những người như Lê Lai mới dám quả cảm hi sinh thay cho Lê Lợi nhưng cũng phải thấy rằng, chỉ có những người như Lê Lợi mới quy tụ được những người như Lê Lai. Hay như câu chuyện giữa Quốc công Trần Hưng Đạo và Thượng tướng Trần Quang Khải, con vua Thái Tông, do có mối bất hoà, nên nhiều lúc hai người ở bên nhau mà nói năng không được tự nhiên, tâm tình không được cởi mở. Nhân biết Quang Khải là người sợ nước, lười tắm, một hôm Trần Hưng Đạo rủ Quang Khải ra sông tắm mát. Hưng Đạo tự tay kỳ cọ cho Quang Khải, tắm xong vui vẻ hỏi: Thế nào, Thượng tướng có thấy nhẹ mình không? Quang Khải hiểu ý, đã xúc động nói: Nhẹ mình lắm! Thật là vì nước mới được thế này! Từ đó, hai người sống với nhau rất hoà hợp, cùng nhau thật sự gắn bó, một lòng một dạ chung lo việc diệt giặc cứu nước. TT thời kì cận hiện đại Chế độ phong kiến bước vào chặng đường suy yếu, tàn tạ, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân xuất hiện và truyền thuyết nhanh chóng nắm lấy đề tài này. Truyền thuyết đề cập đến những người anh hùng xuất thân từ tầng lớp dưới đáy xã hội: Quận He, Chàng Hía, vua Heo, cố Bu… 12/17 + Qua đó, các nhân vật anh hùng muốn thể hiện một lý tưởng: muốn thay đổi xã hội, thiết lập một xã hội tự do, bình đẳng. Đó không chỉ là hành động, là ước mơ của một cá nhân mà là của một tầng lớp nhân dân. + Mặc dù vậy, nhân dân cũng đồng thời lý giải nguyên nhân thất bại của cuộc khởi nghĩa: Nhân dân phê phán tính chất phiêu lưu, mạo hiểm chủ quan khinh địch của những thủ lĩnh nông dân; phê phán tư tưởng trung quân, hiếu đạo mù quáng. Những người anh hùng nông dân ít nhiều chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho gia về Trung – Hiếu – Tiết – Nghĩa: Hầu Tạo phải ra hàng nếu không mẹ ông bị giết, ông cò làm tròn chữ hiếu mặc dù phải vứt bỏ chữ trung… Người anh hùng nông dân còn nhiều tính xấu như tham tiền, tham sắc: Chàng Lía giết chế tên chủ khảo trường thi nhưng lại lấy vợ lẽ của hắn… 13/17 Nghệ thuật truyền thuyết Thời gian trong truyền thuyết - Thời gian trong thần thoại là thời quá khứ phiếm định, quá khứ của những sự vật đầu tiên: ngọn lửa đầu tiên, con người đầu tiên…còn thời gian trong truyền thuyết là thời quá khứ xác định. Truyền thuyết kể chuyện đã xảy ra và vào một thời kì nhất định. Truyền thuyết luôn mang tính thời đại. - Tuy nhiên, thời gian truyền thuyết ra đời và thời gian lịch sử mà truyền thuyết phản ánh không phải bao giờ cũng đồng nhất. Kết cấu - Khác với thần thoại chỉ có kết cấu đơn, mỗi truyện kể về một thần, một việc thì truyền thuyết chủ yếu là các kết cấu chuỗi, gồm một số truyện kể về một sự kiện, một nhân vật lịch sử và có tính xác định cụ thể. Trong đó truyền thuyết thường chia ra làm ba chặng như sau: • Nguồn gốc xuất thân: sự ra đời kì lạ, tướng lạ của nhân vật. • Hành trạng của cuộc đời, những chiến công • Kết thúc cuộc đời (vinh hiển hoặc hoá thân) Một mô hình kết cấu đầy đủ trong thần tích đã được nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch vẽ thành sơ đồ như sau: Lai lịch (bao gồm sinh đẻ thần kỳ và hình dáng dị thường) – Tài đức – Sự nghiệp – Chết thần kỳ – Hiển linh, âm phù – Sắc phong, gia phong Như vậy, kết cấu của thần tích chỉ khác là có thêm phần sắc phong, gia phong mà thôi. TT bắt buộc phải có kết cấu chuỗi vì: + do tính địa phương của TT, mỗi nơi lưu giữ một TT về người anh hung + Sự nghiệp dựng nước, giữ nước không thể là công trình của một cá nhân mà phải là sự nghiệp của cả một tập thể. Cần có những người chung tay, giúp sức với người anh hùng. Bên cạnh TT về nhân vật chính còn có những TT về các nhân vật phò tá, nhưng sự nghiệp, hành trạng của nhân vật chính bao giờ cũng vẫn là đường dây xâu chuỗi những câu chuyện khác 14/17 Kết cấu ba chặng cũng luôn luôn phải đảm bảo vì TT có nhu cầu làm sử nên cần có đầy đủ nguồn gốc và kết thúc của sự việc, sự vật. Ngược lại với Thần thoại không thể biết được nguồn gốc – kết thúc, bởi khi con người sinh ra, các hiện tượng tự nhiên đã tồn tại, và khi con người mất đi các hiện tượng tự nhiên vẫn còn đó; và Truyện cổ tích thì không có nhu cầu biết nguồn gốc- kết thúc, TCT có thể kết thúc ngay sau khi nhân vật chính đã đạt được ước mơ đổi đời. Trong mỗi chặng như thế, truyền thuyết lại sử dụng những môtíp khác nhau. Những môtíp này kế thừa từ thần thoại, đồng thời cũng xuất hiện những môtíp mới gắn liền với đặc trưng của truyền thuyết. Theo sơ đồ kết cấu này thì các yếu tố hoang đường, kì ảo thường xuất hiện ở chặng 1 và chặng 3. Chặng 2 cũng có yếu tố hoang đường nhưng ít hơn vì những chiến công kì tích của nhân vật phần lớn dựa vào tài năng có thật của nhân vật và nó phải phù hợp nhất định với sự thật lịch sử. Địa điểm, hành vi chính yếu và công tích quan trọng của người anh hùng bao giờ cũng được nhân dân gĩư vững tính lịch sử cụ thể của nó. Nhân vật - Cảm quan lịch sử đã chi phối nghệ thuật xây dựng hình tượng truyền thuyết. Các nhân vật dù có là hư cấu hay là nhân vật lịch sử thì cũng đều có tên tuổi, gốc gác nói chung là có một lý lịch rõ ràng gắn với địa phương hay thời đại. - Truyền thuyết được sáng tạo trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, vì vậy ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, các nhân vật lại được sáng tạo dưới sự chi phối khác nhau của quan niệm thẩm mĩ nhân dân. Càng về những giai đoạn lịch sử sau này, các nhân vật truyền thuyết càng gần gũi với hiện thực, ít bị chi phối bởi những yếu tố kì ảo. Ví dụ: ở truyện Bà áo the (thời bắc thuộc) có chi tiết bà cởi chiếc áo thần kỳ của mình cho quân giặc mặc vào, chiếc áo lập tức thắt chặt quân thù đến chết. Đến truyện về nàng Ả Đào (thời Lê Lợi) kể nàng có giọng hát hay, chinh phục được lòng tin của giặc được chúng giao cho thắt dây các miệng túi vải tránh muỗi khichúng ngủ trong đó, nàng đã báo cho trai tráng trong thôn đến khiêng các túi ấy vứt ra sông. Bà hàng nước họ Lương cũng đã dùng mưu thắt miệng túi vải quân sĩ đến trọ ở quán nước nàh bà và báo cho quân vua Lê đến tiêu diệt…Như vậy, càng về sau nhân dân càng đề cao mưu trí và sự dũng cảm tự thân của người anh hùng, hơn là nhờ vào phép lạ. 15/17 Tham gia đóng góp Tài liệu: Tìm hiểu về truyền thuyết Biên tập bởi: Đại học sư phạm Hà Nội URL: http://voer.edu.vn/c/77f801b4 Giấy phép: http://creativecommons.org/licenses/by/3.0/ Module: Những vấn đề chung về truyền thuyết Các tác giả: Đại học sư phạm Hà Nội URL: http://www.voer.edu.vn/m/ceb43476 Giấy phép: http://creativecommons.org/licenses/by/3.0/ Module: Những đặc điểm chung của truyền thuyết Các tác giả: Đại học sư phạm Hà Nội URL: http://www.voer.edu.vn/m/a317ce46 Giấy phép: http://creativecommons.org/licenses/by/3.0/ Module: Nội dung của truyền thuyết Các tác giả: Đại học sư phạm Hà Nội URL: http://www.voer.edu.vn/m/df660ff6 Giấy phép: http://creativecommons.org/licenses/by/3.0/ Module: Nghệ thuật truyền thuyết Các tác giả: Đại học sư phạm Hà Nội URL: http://www.voer.edu.vn/m/20dafbdc Giấy phép: http://creativecommons.org/licenses/by/3.0/ 16/17 Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources – VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0 do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội. Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của độc giả. Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring. Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới. 17/17