Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Câu hỏi này đến nay vẫn gây tranh cãi. Giới sử học giải thích về chuyện này như thế nào và đâu là sự thật?


Trạng nguyên là danh hiệu cao nhất mà sĩ tử ngày xưa có thể đạt được trong các kỳ thi nho học. Muốn trở thành trạng, người đó phải đỗ đầu, đạt điểm tuyệt đối trong các kỳ thi Đình.

Bạn đang xem: Ai Là Trạng Nguyên Cuối Cùng? Danh Sách Trạng Nguyên Việt Nam

Trong trường hợp đỗ đầu trong kỳ thi Đình nhưng không đạt điểm tuyệt đối, thí sinh cũng không đạt danh hiệu trạng nguyên, mà chỉ đỗ bảng nhãn hoặc thám hoa.

Đến nay, tranh luận về ai mới là vị trạng nguyên đầu tiên của Đại Việt chưa có hồi kết. Có 3 luồng ý kiến chính về vấn đề này.

Có người cho rằng trạng nguyên đầu tiên là Lê Văn Thịnh, đỗ đầu trong kỳ thi đầu tiên năm 1075. Một số tài liệu lại ghi là Nguyễn Quán Quang (Nguyễn Quan Quan), đỗ đầu kỳ thi Đình năm 1246, là trạng nguyên đầu tiên. Cũng có tài liệu giải thích Nguyễn Hiền - đỗ đầu kỳ thi năm 1247 - mới đích thực là trạng nguyên đầu tiên.

Đầu tiên là trường hợp của Lê Văn Thịnh. Ông là người đỗ đầu trong kỳ thi năm 1075, dưới thời vua Lý Nhân Tông. Đây là kỳ thi nho học đầu tiên của nước ta nên về sau Lê Văn Thịnh được một số tài liệu ghi là trạng nguyên đầu tiên. Nhưng thực tế, dưới thời nhà Lý, triều đình chưa định ra chế Tam khôi (lấy trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa), nên Lê Văn Thịnh không được phong trạng nguyên. Do đó, nếu gọi Lê Văn Thịnh là trạng nguyên là chưa chính xác.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Bìa sách về trạng nguyên Nguyễn Quán Quang của Nhà xuất bản ĐH Sư phạm TP.HCM.

Giáo sư sử học Lê Văn Lan, thông qua những nghiên cứu của mình, cũng giải thích rằng: Theo Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, “năm Ất Mão (1075), tuyển lấy những người minh kinh bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh đỗ đầu, được chọn vào hầu vua học. Khoa cử nước ta bắt đầu từ đấy”.

Theo sách Danh tiết lục của Trần Ký Đằng, “Văn Thịnh là người làng Đông Cứu, huyện Gia Định (nay thuộc tỉnh BắcNinh), tính ham học. Bấy giờ chưa có khoa cử, dẫu ai thông minh, sáng láng đến đâu cũng phải do đường Phật giáo mà được lựa chọn, đề bạt. Riêng có Lê Văn Thịnh chăm đọc các sách. Đến đây, mở khoa thi, hơn 10 người trúng tuyển, Văn Thịnh đỗ đầu. Đời truyền rằng họ Lê (tên Văn Thịnh) là người khai hoa đầu tiên”.

Đoạn văn chính sử này gọi Lê Văn Thịnh là người đầu tiên đỗ đạt bằng khoa cử, mà không dùng danh hiệu trạng nguyên khai khoa. Bởi vì vào năm 1075, khi vua Lý Nhân Tông “xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường”, các bộ chính sử đều không cho biết chế độ thi cử ấy ra sao, càng không cho biết là đã có danh hiệu trạng nguyên vào lúc này.

Theo Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, phải đến năm Bính Ngọ (1246), triều đình mới tổ chức thi “đại tỷ”. Khoa thi năm Bính Ngọ này, danh hiệu trạng nguyên thuộc về Nguyễn Quán Quang, người xã Tam sơn, huyện Đông Ngàn, Kinh Bắc (Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh).

Đến năm Đinh Mùi (1247), sách Đại việt Sử ký Toàn thư chép về chế Tam khôi: “Mùa xuân, tháng hai, mở khoa thi chọn kẻ sĩ. Ban cho Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ thám hoa”.


Tỉnh nào nhiều trạng nguyên nhất?

Trong lịch sử khoa bảng nước nhà, một tỉnh là quê hương của 13 trạng nguyên. Đây cũng là địa phương có nhiều trạng nguyên nhất nước ta.


Cũng theo sách này, trước đây, hai khoa Nhâm Thìn (1232), và Kỷ Hợi (1239), chỉ chia người đỗ đạt thành các hạng Giáp, Ất, chưa có Tam khôi, đến khoa này mới đặt Tam khôi (tức trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa).

Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục cũng chép rằng: “Tháng hai, mùa xuân (1247), thi Thái học sinh. Trước đây, thi lấy học trò đỗ đạt, chỉ chia ra hai hạng Giáp, hạng Ất để phân biệt người đỗ cao, thấp. Nay mới đặt ra Tam khôi, lấy Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ thám hoa. Còn 48 người đỗ Thái học sinh đều được xuất thân theo thứ tự trên dưới khác nhau”.

Như vậy, kỳ thi Tam khôi đầu tiên ở nước ta được tổ chức năm 1247. Trạng nguyên của kỳ thi này là Nguyễn Hiền.Nhưng lịch sử khoa bảng lại tính Nguyễn Quán Quang là vị trạng nguyên đầu tiên bởi vì Nguyễn Quán Quang đỗ đầu khoa thi "tiến sĩ" trước đó chỉ một năm (năm 1246).

Cũng theo giáo sư sử học Lê Văn Lan, trong danh sách 47 vị trạng nguyên treo ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Nguyễn Quán Quang được ghi đầu tiên rồi sau đó mới là Nguyễn Hiền!


Trạng nguyên nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam Trạng Lường tên tự Cảnh Nghị, hiệu Thụy Hiên, là nhà toán học, nhà thơ nổi tiếng thời Lê sơ.

4 nhân tài Việt trở thành trạng nguyên ở xứ người

Với đức tính thông minh, hiếu học, người Việt sớm khẳng định được trí tuệ của mình trong buổi đầu lịch sử. Trong đó, nhiều người đã trở thành trạng nguyên nơi đất khách.

Xem thêm: Nghĩa Của Từ Xuất Siêu Tiếng Anh Là Gì ? Nghĩa Của Từ Xuất Siêu


Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Thầy giáo có nhiều học trò đỗ trạng nguyên, bảng nhãn nhất lịch sử

0 22

Thầy Trần Ích Phát có 3 học trò đỗ trạng nguyên, 4 bảng nhãn, 10 thám hoa và nhiều người khác đỗ tiến sĩ. Ông được cho là thầy giáo có nhiều học trò đỗ đại khoa nhất trong lịch sử.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Bài thi chống tham nhũng của trạng nguyên nổi danh sử Việt

0 100

Trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, tệ tham nhũng luôn là mối nguy hại đối với quốc gia. Từ thời phong kiến, vấn đề này đã được đưa vào nội dung của bài thi.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Dòng họ nào nhiều trạng nguyên nhất nước ta?

10 14 -4 2508

Lịch sử khoa bảng Việt Nam từ năm 1075 đến 1919 ghi nhận nhiều kỷ lục khác nhau như thủ khoa đầu tiên, trạng nguyên trẻ nhất, dòng họ có nhiều trạng nguyên nhất.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Lưỡng quốc trạng nguyên và chuyện "bắn Mặt Trời"

2 -2 505

Mặc dù không ít lần bị vua quan nhà Nguyên gây khó dễ trong những lần gặp mặt, Mạc Đĩnh Chi luôn khiến đối phương phải “tâm phục, khẩu phục”.


Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Bài toán giúp ngư dân vào bờ an toàn

0

Bằng dữ liệu cho sẵn, bạn hãy giúp ngư dân từ biển quay vào bờ với quãng đường ngắn nhất.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Yêu cầu xử lý vụ nữ sinh tát bạn gần 5 phút trên bục giảng

0

Sau khi báo chí thông tin vụ nữ sinh lớp 8 tát liên tục vào mặt bạn trong gần 5 phút, UBND huyện Gio Linh, Quảng Trị, đã có văn bản chỉ đạo xử lý vụ việc.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Tỉnh nào nhiều thị trấn nhất Việt Nam?

0 4

Hiện nay, tỉnh này có 28 thị trấn, dân số đông thứ ba trong cả nước.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Nam sinh trường chuyên tử vong trong ký túc xá

0 3

Trưa 29/3, một học sinh lớp 10 trường THPT chuyên Bắc Kạn được phát hiện tử vong trong ký túc xá trường.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Hải Dương cho học sinh mầm non trở lại trường

0 2

Tỉnh Hải Dương cho học sinh mầm non tại tất cả các huyện trở lại trường từ 1/4.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Mở lòng để ngăn chặn nạn tự tử trong giới trẻ

0 6

GS.TS Huỳnh Văn Sơn - Hiệu trưởng Đại học Sư phạm TP.HCM - trao đổi về nạn tự tử trong giới trẻ.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Công bố quyết định thanh tra vụ cô giáo tố bị trù dập

0 83 39

Đoàn thanh tra sẽ thanh tra toàn diện tất cả sự việc cô Nguyễn Thị Tuất phản ánh cùng các quan tâm của dư luận.

Băn khoăn tư nhân kiểm định chất lượng giáo dục

0

Hai trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục tư thục đầu tiên của cả nước vừa được phép thành lập, có tư cách pháp nhân, tài khoản và con dấu riêng theo quy định của pháp luật.

Sau khoa thi năm 1736, có tới gần 20 kỳ thi Đại khoa dưới triều Lê trung hưng, song không có ai đỗ Trạng nguyên. Đến triều Nguyễn, các kỳ thi Đại khoa tiếp tục được tiến hành nhưng không lấy được Trạng nguyên vì văn chương phải toàn bích “mười phân vẹn mười”. Bởi vậy, Trịnh Tuệ được xem là vị Trạng nguyên cuối cùng của lịch sử khoa bảng phong kiến Việt Nam.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Dính nghi án được ưu ái thi cử, Trịnh Tuệ đã thể hiện khả năng hiểu biết của mình cách xứng đang (minh hoạ IT).

Thần đồng xứ Thanh

Trịnh Tuệ (1704 - ?) quê ở Biện Thượng, nay là xã Vĩnh Hùng (Vĩnh Lộc - Thanh Hóa), nhưng trú quán tại xã Bất Quần, tức xã Quảng Thịnh, huyện Quảng Xương. Tên khai sinh của ông là Trịnh Huệ (sau đổi thành Trịnh Tuệ vì tên trùng với vợ Trịnh Sâm là Tuyên phi Trịnh Đặng Thị Huệ).

Theo các nguồn sử liệu, Trịnh Tuệ là dòng dõi chúa Trịnh, song gia cảnh gia đình rất nghèo, đến đời bố ông đã chuyển nơi sinh sống về vùng đất của huyện Quảng Xương để lập nghiệp. Ban đầu gia đình ông ở bãi Cồn Thần, nay là phần đất của hai trường THCS Nguyễn Du và trường THPT Quảng Xương I.

Sau vì điều kiện sinh sống càng khó khăn hơn nên gia đình tiếp tục chuyển về làng Ngọc Am, xã Bất Quần để sinh sống. Tại vùng đất này, ông cụ đã kết duyên với một thôn nữ đẹp người, đẹp nết và sinh ra Trịnh Tuệ.

Theo “Kim Giám thực lục” (1802) và “Kim Giám tục biên” (1869), thì Trịnh Tuệ là cháu 5 đời của chúa Trịnh Tùng, thuộc dòng của Thuần Nghĩa công Trịnh Dương. Gia đình ông đều có những người đỗ đạt. Anh ruột là Trịnh Côn và các con là Trịnh Đức, Trịnh Sa đều đỗ hương cống và làm quan dưới triều Lê - Trịnh.

Tương truyền, từ nhỏ Trịnh Tuệ đã là thần đồng nổi tiếng thông minh khắp xứ Thanh. Lớn lên ông dốc sức học tập dùi mài kinh sử mong chiếm được bảng vàng. Dân gian truyền nhau rằng, Trịnh Tuệ có tài liếc mắt qua một lượt đã thuộc ngay mười hàng chữ, hàng chục năm sau vẫn có thể đọc lại vanh vách.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai
Tên và quê quán của Trạng nguyên Trịnh Tuệ được khắc trên bia Tiến sĩ khoa thi năm Bính Thìn (1736).

Vào năm Bảo Thái thứ tư đời vua Lê Dụ Tông (1723), Trịnh Tuệ thi Hương đỗ Tứ trường, được chúa Trịnh Giang mời vào phủ Tôn Nhân bổ nhiệm chức Phó Tri hình phiên.

Đến khoa Bính Thìn (1736), ông đỗ đầu thi Hội. Vào thi Đình ông đỗ luôn Trạng nguyên. Trên Bia Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Hữu năm thứ 2 (1736) ở Văn Miếu - Hà Nội, trong đó ghi rõ: Cho đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh: Trịnh Huệ, làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc, trú quán xã Bất Quần, huyện Quảng Xương... Ra lệnh khắc tên vào đá để truyền mãi mai sau.

Thông tuệ xứng Trạng nguyên

Sau đó, Trịnh Tuệ nhanh chóng được phong Đông các đại học sĩ, rồi lên tới chức Tham tụng Thượng thư bộ Hình (tước Quận Công). Vài năm sau lại được thăng chức Tham tụng - một chức quan ngang tể tướng trong triều.

Trịnh Huệ nổi tiếng là người thông minh, đỗ đạt cao và được trọng dụng là điều tất yếu. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, việc gian lận trong thi cử ngày càng trầm trọng đến mức triều đình phải tổ chức thi lại cuộc thi Hương năm 1726. Nhiều người chạy theo hư danh, lấy tiền để mua quan bán chức. Từ năm 1730, trong các kỳ thi Hương ai nộp ba quan tiền thì miễn khảo hạch coi như đỗ sinh đồ (tú tài). Khoa cử mất đi kỷ cương, thế nên nhân tài cũng dần vắng bóng.

Cũng chính vì đường quan lộ của Trịnh Tuệ thăng tiến nhanh, ông lại là con cháu chúa Trịnh. Thế nên, có nhiều dị nghị đố kỵ khi cho rằng ông được thiên vị nên mới đỗ Trạng nguyên.

Trước đó, trong khoa thi Hội mà Trịnh Tuệ dự thi do một người họ Trịnh là Trịnh Diễm làm chủ khảo, đến khi thi Đình lại xảy ra một sự thay đổi khác so với những khoa thi trước. Đó là việc các thí sinh thay vì vào sân rồng để vua Lê vấn thi thì lại vào sân chúa để chúa Trịnh Giang hỏi thi.

Theo sử sách ghi chép, thì việc đổi thay nói trên là do Hoàng Công Phụ - viên quan trong triều đình được chúa yêu, lại chơi thân với ông Trịnh Tuệ, bày đặt ra. Do đó dư luận dị nghị cho rằng Trịnh Huệ không có tài mà là do có dòng dõi nhà chúa nên mới được lấy đỗ Trạng.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Di tích núi Voi – nơi có đền thờ Trạng nguyên Trịnh Tuệ.

Trước những lời dị nghị, Trịnh Tuệ bực tức nói với mọi người rằng: “Tôi đỗ nhất Tam khôi mà lại nói là Vương phủ thiên vị thì còn gì gọi là văn chương nữa. Nay để khỏi nghi ngờ, trong triều ngoài nội ai có câu hỏi gì khó ở bất cứ sách vở nào về kinh sử, tả truyện, ý nho, lý số thì đem đến tôi xin trả lời hết!”.

Nhiều người sau đó đến hỏi đều đã được ông giải đáp. Riêng có một phụ nữ nêu ý kiến: “Chiếc đũa là vật thiêng không có chân, lúc thì gãy, lúc thì mất. Vậy nó chạy đi đâu, ở trong kinh điển nào?”. Trịnh Tuệ mỉm cười, đọc hai câu thơ của Lê Thánh Tông: Trời còn giành để An Nam mượn/ Vạch chước binh Ngô mãi mới vừa.

Rồi ông nói tiếp: “Đó chẳng phải là câu thơ của Lê Thánh Tông bản Triều Vịnh núi Chiếc Đũa, nơi khởi phát đế nghiệp mở ra công cuộc bình Ngô của nước ta hay sao? Núi Chiếc Đũa không có chân mà chạy về gốc đấy”.

Mọi người đều bái phục ông thông minh và hiểu biết rộng. Quả ở Thanh Hóa, nơi cửa biển Thần Phú (nay thuộc địa phận làng Văn Đức, xã Nga Phú, huyện Nga Sơn) có ngọn núi đứng một mình tên chữ là Chính Trợ Sơn, gọi nôm là núi Chiếc Đũa, đã có tên trong sách vở. Ngọn núi có hình thù giống như chiếc cọc cắm giữa biển làm cột mốc cho thuyền bè qua lại. Từ xưa, các vua chúa qua đây đều có thơ đề vịnh, ca ngợi cảnh đẹp của phong cảnh nơi đây.

Ví như Thiên Nam động chủ (Lê Thánh Tông) thế kỷ 15, Thượng Dương động chủ (Lê Hiến Tông) đầu thế kỷ 16, Nhật Nam nguyên chủ (Trịnh Sâm) thế kỷ 18. Có lẽ người phụ nữ hỏi về núi Chiếc Đũa nhằm thử Trạng nguyên Trịnh Tuệ kiến thức có thật sâu rộng không, cả kiến thức sách vở và kiến thức thực tế về núi Chiếc Đũa ở ngay tại quê hương ông.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai

Hai trụ đá khắc chữ Hán - nơi xưa kia Trạng nguyên Trịnh Huệ dạy học.

Quan Tế Tửu về quê dạy học

Theo sử chép năm 1740, chúa Trịnh Doanh đã nghi ông về phe với Hoàng Công Phụ để làm phản, gây loạn trong triều. Thế nên bắt giam ông vào ngục để điều tra.

Hoàng Công Phụ vốn là thái giám nhưng lại được chúa Trịnh Giang tin dùng. Khi hoạn quan trong triều ra sức thao túng triều đình thì Trịnh Giang chỉ chú tâm ăn chơi vô độ, bỏ bê việc triều chính, quyền hành dần nằm trong tay Thái giám Hoàng Công Phụ.

Trịnh Giang cho xây nhiều cung quán như Hồ Thiên, Hành cung Quế Trạo, Từ Dương, phủ đệ ở các làng ngoại Tử Dương, Mi Thử. Việc vui chơi xây dựng các cung quan khiến quốc khố cạn kiệt. Trịnh Giang tăng các khoản thuế đồng thời bắt dân lao dịch nặng nề, khiến lòng người oán thán.

Sau 10 năm ở ngôi Trịnh Giang bị sét đánh gần chết, rồi mắc bệnh “kinh quý” – tinh thần bất định, hay hoảng hốt sợ hãi. Liên hệ với việc Trịnh Giang dâm dục vô độ, thậm chí phạm tới cả cung nữ của cha, bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ cho rằng là bị ác báo: “Đấy là vì dâm dục mà bị ác báo. Muốn không bị hại chỉ có cách là trốn xuống đất.” (Theo “Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục”).

Sau đó bọn hoạn quan cho đào đất xây hầm cho chúa ở gọi là cung Thưởng Trì. Từ đó Trịnh Giang ở hẳn dưới hầm này không dám ra ngoài. Hoạn quan Hoàng Công Phụ càng được dịp tác oai tác quái.

Chúa đã ở hẳn dưới hầm, không còn biết việc triều chính, các quan muốn Trịnh Doanh (em của Trịnh Giang) lên thay, nhưng Hoàng Công Phụ ngăn trở nên không làm được gì.

Trước tình cảnh Đàng Ngoài suy thoái bởi Trịnh Giang, Trịnh Thái phi Vũ thị cho tập hợp các quan văn võ nhằm đưa Trịnh Doanh lên ngôi Chúa. Nhân lúc Hoàng Công Phụ đi đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa, ở trong triều các quan đồng loạt đưa Trịnh Doanh lên ngôi, bọn hoạn quan chống lại đều bị diệt sạch.

Khi Trạng nguyên Trịnh Tuệ qua đời, các học trò đã xây dựng nhà thờ để tưởng nhớ thầy. Khi làm đốc học ở Thanh Hóa, nhà bác học Lê Quý Đôn đã đến thăm đền thờ Trịnh Tuệ và quyên góp tiền sửa chữa, khắc biển treo trước đền là “Trạng nguyên từ”.

Trạng nguyên cuối cùng của nước ta là ai
Tấm biển đá Trạng nguyên từ.

Năm 1741, chúa Trịnh Doanh xét thấy Trạng nguyên Trịnh Tuệ bị oan nên đã tha bổng và bổ nhiệm ông làm Tế Tửu Quốc Tử Giám. Sau thời gian đào tạo nhân tài tại Quốc Tử Giám, khi giã từ quan trường Trịnh Tuệ trở về quê mở lớp dạy học cho người dân trong vùng. Ông đã bỏ tiền thuê người xây dựng một căn nhà nhỏ để hằng ngày người dân tới học chữ mà không phân biệt giàu nghèo, già trẻ gái trai. Miễn ai có tinh thần học tập là ông dạy miễn phí.

Trải qua thời gian, hiện ngôi nhà năm xưa của Trạng nguyên Trịnh Huệ không còn nữa. Tại vị trí dựng lớp học xưa kia, người dân thay thế bằng chùa Voi. Phía bên cạnh chùa vẫn còn hai chiếc cột đá - là vật dụng năm xưa Trịnh Huệ dùng để treo kẻng gõ tập hợp học sinh đến lớp học.