Top chính sách tỷ giá hối đoái của việt nam năm 2022

(PLO)-  Ngay cả khi FED sẽ tiếp tục tăng lãi suất điều hành trong năm nay lên biên độ mới trong khoảng 2,5% đến 3,0% /năm để kiềm chế lạm phát, tỉ giá USD/VND sẽ vẫn ổn định.

Tại cuộc họp chính sách gần đây nhất, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã quyết định tăng lãi suất điều hành thêm 50 điểm cơ bản lên biên độ mới từ 0,75% đến 1,0%. Quyết định tăng lãi suất điều hành thêm 0,50% đánh dấu mức tăng mạnh nhất được thực hiện trong một cuộc họp duy nhất kể từ tháng 5-2000.

Các quan chức Cục dự trữ liên bang Mỹ cũng gợi ý rằng họ sẽ tiếp tục tăng lãi suất điều hành trong năm nay với nỗ lực kiềm chế lạm phát. Theo khảo sát của CME Group, thị trường cho rằng FED có thể nâng lãi suất điều hành thêm 175-200 điểm cơ bản trong những tháng cuối năm 2022 lên biên độ mới trong khoảng 2,5% đến 3,0%.

Top chính sách tỷ giá hối đoái của việt nam năm 2022

Lãi suất USD tăng gây áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam

Nhận định về việc FED thắt chặt chính sách tiền tệ, các chuyên gia kinh tế tại Công ty chứng khoán Vndirect cho rằng động thái tăng mạnh lãi suất đồng USD có thể gây ra năm tác động lớn đến nền kinh tế Việt Nam

Thứ nhất, tình hình tài chính toàn cầu thắt chặt hơn làm giảm triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế thế giới, dẫn đến nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn. Việc Fed thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ làm tăng lãi suất cho vay (bằng đồng USD) từ đó làm giảm nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng như làm suy yếu nhu cầu mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp.

Nhiều tổ chức nghiên cứu trên thế giới gần đây đã hạ dự báo tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu cũng như nền kinh tế Mỹ, một trong những nguyên nhân chính là vì điều kiện tài chính toàn cầu ngày càng thắt chặt. Do đó, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam có thể sẽ chậm lại trong những quý tới do người tiêu dùng tại các thị trường xuất khẩu chủ chốt như Mỹ và châu Âu thắt chặt chi tiêu.

Thứ hai, lãi suất huy động (bằng VND) chịu áp lực tăng trong những tháng cuối năm. Tính đến ngày 26-4-2022, lãi suất huy động kỳ hạn 3 tháng và kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng quốc doanh không đổi so với mức cuối năm 2021 trong khi lãi suất tiền gửi kỳ hạn 3 tháng và lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng tư nhân lần lượt tăng 14 điểm cơ bản và 13 điểm cơ bản so với mức cuối năm 2021.

Vndirect cho rằng lãi suất huy động sẽ tiếp tục tăng từ giờ đến cuối năm 2022 do lãi suất USD tăng và áp lực lạm phát tại Việt Nam tăng cao trong những quý tới. Tuy nhiên, mức tăng sẽ không lớn, khoảng 30-50 điểm cơ bản cho cả năm 2022.

Thứ ba, lãi suất USD tăng gây áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam. Nợ nước ngoài của Việt Nam chiếm 39% GDP vào cuối năm 2021. Trong bối cảnh thanh khoản trên thị trường tài chính quốc tế thắt chặt hơn, Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó huy động vốn trên thị trường quốc tế và phải chịu lãi suất cao hơn.

Thứ tư, về thị trường tài chính, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có thể tiếp tục bị rút ròng trong những tháng tới, tuy nhiên, khối ngoại đã liên tục bán ròng trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong hai năm trở lại đây nên tác động của việc khối ngoại bán ròng sẽ ở mức vừa phải do thị trường đã có sự chuẩn bị trước. Trong khi đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam sẽ ít bị ảnh hưởng do Việt Nam vẫn là điểm đầu tư hấp dẫn trong xu thế đa dạng hóa chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thứ năm, đồng USD mạnh gây áp lực lên tỉ giá hối đoái của Việt Nam. Đồng USD mạnh kéo tỉ giá USD/VND tăng khoảng 0,6% trong 4 tháng đầu năm nay. Tuy nhiên, VND vẫn là một trong những đồng tiền ổn định nhất ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Các yếu tố cơ bản để giữ cho VND ổn định trong những năm gần đây vẫn được duy trì, bao gồm thặng dư tài khoản vãng lai và dự trữ ngoại hối cao.

Vndirect cho rằng thặng dư tài khoản vãng lai sẽ tăng lên 1,9% GDP vào năm 2022 từ mức thâm hụt dự kiến là 1,0% GDP vào năm 2021. Ngoài ra, dự trữ ngoại hối của Việt Nam có thể sẽ đạt 122,5 tỉ USD vào cuối năm 2022 (tương đương 4 tháng nhập khẩu) từ mức hiện tại là 105 tỉ USD. Do đó, nhiều khả năng tỉ giá USD/VND sẽ vẫn ổn định ở mức 22.600 - 23.050 VND/USD vào năm 2022 và tiền VND có thể dao động trong biên độ tương đối hẹp (+/-1%) so với USD.

Theo VNDirect, Ngân hàng Nhà nước sẽ duy trì chính sách tiền tệ "phù hợp" với ưu tiên là hỗ trợ nền kinh tế phục hồi, cho đến ít nhất là đến cuối quý 2-2022. Dòng vốn tín dụng sẽ được ưu tiên cho lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên như công nghiệp, xuất nhập khẩu, nông, lâm, thủy sản.

Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước sẽ kiểm soát kỹ dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản, chứng khoán và các dự án BOT. Dự báo tăng trưởng tín dụng duy trì mức cao 14% trong năm 2022.

Về lãi suất cho vay, Ngân hàng Nhà nước đang triển khai gói cấp bù lãi suất với quy mô 3.000 tỷ đồng. Gói này đưa ra mức lãi suất cho vay chỉ 3-4%/năm đối với các doanh nghiệp bị ảnh hưởng mạnh bởi đại dịch COVID-19. Bên cạnh đóa, Chính phủ có kế hoạch mở rộng quy mô gói cấp bù lãi suất cho doanh nghiệp lên 40.000 tỷ đồng.

Vì vậy, VNDirect kỳ vọng rằng gói cấp bù lãi suất có thể giúp giảm mặt bằng lãi suất cho vay trung bình từ 20-40 điểm cơ bản trong năm nay. Song, tác động thực tế của gói cấp bù lãi suất đối với doanh nghiệp và nền kinh tế có thể thấp hơn nếu các ngân hàng thương mại tăng lãi suất cho vay đối với các khoản vay thông thường khác để bù đắp việc tăng lãi suất huy động.

Top chính sách tỷ giá hối đoái của việt nam năm 2022

TS. Cấn Văn Lực – Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV vừa có đánh giá nhanh về động thái mới nhất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) khi tuyên bố thắt chặt tiền tệ từ đầu năm 2022 và những tác động đến nền kinh tế, tài chính thế giới cũng như Việt Nam.

Nguyên nhân chính của quyết sách lần này

Kết thúc cuộc họp kéo dài 2 ngày, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) ngày 15/12 cho biết họ sẽ bắt đầu giảm mua tài sản ngay từ tháng 1/2022 (mỗi tháng giảm 30 tỷ USD) và sẽ kết thúc việc mua trái phiếu thời kỳ đại dịch vào cuối tháng 3 hoặc tháng 4/2022, mở đường cho 3 đợt tăng lãi suất dự kiến với biên độ 0,25 điểm % từ giữa năm 2022, đưa mức lãi suất điều hành lên 0,9% cuối năm 2022 và có thể còn tăng tiếp 2-3 lần trong 2023-2024 với lý do chính là nền kinh tế Mỹ đang đạt được tối đa hóa việc làm và lạm phát toàn cầu cũng như tại Mỹ gia tăng nhanh.

Động thái này dù đã được chờ đợi, nhưng tốc độ thắt chặt tiền tệ của FED sẽ diễn ra nhanh hơn ít nhất là một quý so với các công bố tháng 6 và tháng 9 vừa qua. Theo TS. Cấn Văn Lực, điều này chứng tỏ hai điều. Một là, FED quan ngại đối với lạm phát tăng nhanh và kéo dài hơn dự báo trước đây (nghĩa là đa số các thành viên của Ủy ban Thị trường mở - FOMC của FED hiện nay cho rằng lạm phát không chỉ là tạm thời, mà kéo dài 1-2 năm). Thực vậy, đa số các dự báo gần đây đều cho rằng lạm phát toàn cầu tăng nhanh (từ mức 2% năm 2020 lên khoảng 3,2% năm 2021 và còn tăng nhẹ lên 3,3% năm 2022). Chỉ số CPI của Mỹ tháng 11/2021 tăng 6,8% so cùng kỳ, cao nhất từ năm 1982, dự báo bình quân cả năm 2021 sẽ là 3,6% và khoảng 2,6% trong năm tới, cao hơn mức dự đoán 2,2% được đưa ra hồi tháng 9. Nhưng lạm phát sau đó sẽ giảm xuống 2,3% vào năm 2023 và 2,1% vào năm 2024. Hai là, kinh tế Mỹ đang phục hồi tốt, dự báo tăng trưởng khoảng 5,5% năm 2021 (giảm nhẹ 0,2 điểm % so với dự báo tháng 9) và 4,2% năm 2022 (cao hơn 0,4 điểm % so với dự báo tháng 9). Việc làm tại Mỹ gần đạt mức tối đa khi tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 4,2% tháng 11 từ mức 4,6% tháng 10/2021 và dự báo sẽ giảm tiếp xuống mức 3,5% trong năm 2023-2024.

Tác động nào đối với kinh tế - tài chính thế giới và Việt Nam?

Theo TS. Cấn Văn Lực, có ít nhất là 5 tác động chính với mức độ khác nhau, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước.

Một là, đồng USD tăng giá với lý do chính là kinh tế Mỹ phục hồi khá tốt và lãi suất đồng USD chuẩn bị tăng. Điều này khiến đồng nội tệ của các nước (nhất là thị trường mới nổi) mất giá tương ứng, cùng với lạm phát nội tại đang ở mức cao, khiến nhiều NHTW các nước cũng sẽ tăng lãi suất. Một số NHTW (như Hàn Quốc, Ấn Độ, Brazil, Nga…) đã hành động theo hướng này.

Hai là, thị trường chứng khoán toàn cầu, nhất là Mỹ, EU và một số thị trường Châu Á (không loại trừ Việt Nam) tăng điểm (dù không nhiều do đã dự báo trước), phản ánh kỳ vọng kinh tế thế giới đang phục hồi khá tốt (dù không đồng đều và còn nhiều bất định, gồm cả các biến thể Covid-19). Tuy nhiên, đây chỉ là xu hướng tạm thời vì thị trường sẽ có những điều chỉnh khi tâm lý nhà đầu tư ổn định hơn.

Ba là, tỷ giá biến động nhẹ do đồng USD tăng giá như nêu trên. Xu hướng này có thể còn tiếp diễn trong nửa đầu năm tới. Với Việt Nam, tỷ giá có thể tăng nhẹ, nhưng không nhiều do kinh tế Việt Nam đang phục hồi (tăng trưởng khoảng 2% năm 2021 và sẽ phục hồi lên mức 6,5-7% nếu Việt Nam kiểm soát tốt dịch bệnh và thực hiện thành công Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội); lạm phát được kiểm soát ở mức thấp (CPI tăng khoảng 2% năm 2021), nhưng sẽ gia tăng lên mức 3,4-3,7% năm 2022; cung – cầu ngoại tệ cơ bản ổn và cán cân thanh toán tiếp tục thặng dư. 

Bốn là, lãi suất USD tăng đồng nghĩa với việc nghĩa vụ trả nợ bằng USD của nhiều quốc gia bị tăng lên, nhất là trong bối cảnh vay nợ của nhiều nước tăng nhanh thời gian qua. Nợ công toàn cầu tăng nhanh, từ mức 84% GDP năm 2019, lên 101,6% GDP năm 2020 và 104,8% GDP năm 2021 (chính phủ các nước vay nợ nhiều trong bối cảnh lãi suất thấp do phải tăng chi tiêu cho phòng chống dịch bệnh và kích thích phục hồi kinh tế). Nợ doanh nghiệp và hộ gia đình cũng tăng nhanh 3 năm qua. Đây là rủi ro nợ mà nhiều nước quan tâm. Với Việt Nam, tác động này không nhiều do Việt Nam đang giảm dần vay nợ nước ngoài (nợ nước ngoài hiện đang ở mức 38,8% GDP đã điều chỉnh, so với mức 42% GDP bình quân giai đoạn 2010-2019), trong đó có nhiều loại ngoại tệ khác nhau, thời hạn dài (bình quân là 13,8 năm), lãi suất thấp (bình quân 1,35%/năm), theo Bộ Tài chính. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt vay ngoại tệ cần lưu ý xu hướng lãi suất tăng này để có biện pháp quản lý rủi ro phù hợp.

Năm là, có thể xảy ra hiện tượng đảo chiều dòng vốn đầu tư gián tiếp như đã từng xảy ra trước đây, do dòng tiền có xu hướng rút ra từ thị trường mới nổi, quay về thị trường Mỹ, EU…nơi lãi suất tăng lên và cũng là để "tạm thời trú ẩn" rủi ro. Số liệu từ CEIC cho thấy dòng tiền đầu tư ròng đang tăng trở lại từ quý 2/2021. Tuy nhiên, hiện tượng rút ra được dự báo sẽ không nhiều như năm 2013 vì động thái chính sách "thu hẹp nới lỏng định lượng – tapering" này của FED đã được dự báo trước. Hơn nữa, việc rút ra cũng đã xảy ra, nhất là trong quý 1/2020 và quý 1/2021 (Hình 1).

Top chính sách tỷ giá hối đoái của việt nam năm 2022

Xu hướng này dự báo sẽ ở mức khiêm tốn đối với Việt Nam khi kinh tế dư báo phục hồi khá, thị trường chứng khoán vẫn là kênh đầu tư hấp dẫn, tuy có điều chỉnh và đang được điều tiết theo hướng minh bạch, lành mạnh và chuyên nghiệp hơn.

Mặc dù vậy, TS. Cấn Văn Lực khuyến nghị, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam không thể chủ quan, mà cần theo dõi, phân tích và dự báo, đưa ra các kịch bản điều hành khác nhau, để luôn ở thế chủ động, tận dụng tốt cơ hội và vượt qua thách thức trong giai đoạn phục hồi kinh tế - xã hội sắp tới. Với Việt Nam, tiếp tục điều hành tỷ giá linh hoạt, ổn định mặt bằng lãi suất là những gì cần thiết để hỗ trợ, thúc đẩy phục hồi kinh tế - xã hội.

Theo cafef