Chế độ độc tài (dictatorship) là một thể chế nhà nước chuyên quyền mà ở đó một cá nhân hoặc một nhóm với quyền lực không giới hạn cai trị, và họ có thể dùng những biện pháp trù dập những người đối lập để duy trì quyền lực.[1][2] Khái niệm này có thể có hai nghĩa: Show
Đối với những học giả, như Joseph C.W. Chan ở Đại học Hồng Kông, chế độ độc tài là một thể chế nhà nước có quyền lực cầm quyền không được nhân dân ủng hộ. Trong khi đó chủ nghĩa toàn trị (totalitarianism) là thể chế ở đó nhà nước giám sát rất nhiều về hành vi cá nhân và tập thể của nhân dân. Hay nói cách khác, chế độ độc tài và chủ nghĩa toàn trị không giống nhau: chế độ độc tài liên quan đến nguồn gốc quyền cai trị (quyền đó thuộc về ai) và chủ nghĩa toàn trị liên quan đến phạm vi của quyền cai trị (phạm vi nhà nước quy định). Theo giải thích ở trên, chế độ độc tài tương phản với thể chế dân chủ (ở đó quyền lực nhà nước từ nhân dân mà ra), và chủ nghĩa toàn trị tương phản với chủ nghĩa tự do (nơi nhà nước nhấn mạnh quyền và tự do cá nhân). Mặc dầu các khái niệm của những thuật ngữ đó có khác nhau nhưng chúng có liên quan với nhau vì trên thực thế rằng phần lớn các quốc gia độc tài có các đặc điểm đặc trưng của chủ nghĩa toàn trị. Chính vì vậy chúng ta thường hay nghe hai khái niệm đó được gộp lại thành một là độc tài toàn trị. Mục lục
Từ nguyênSửa đổiTiếng AnhSửa đổiTừ "dictator" xuất phát từ ngôn ngữ cổ điển Latin từ dictātor, danh từ đại lý từ dictare (dictāt-, gốc tham gia quá khứ của dictāre dictate v. + -hoặc -or suffix.)[3] Trong sử dụng tiếng Latinh, dictator là một thẩm phán ở Cộng hòa La Mã tạm thời đầu tư với quyền lực tuyệt đối Các chế độ độc tàiSửa đổiMột chế độ độc tài đã được định nghĩa phần lớn là một hình thức chính phủ, trong đó quyền lực tuyệt đối tập trung trong tay một nhà lãnh đạo (thường được xác định là một nhà độc tài), một "nhóm nhỏ" hoặc "tổ chức chính phủ", và nó nhằm xóa bỏ đa nguyên chính trị và huy động dân sự.[4] Mặt khác, dân chủ, thường được so sánh với khái niệm độc tài, được định nghĩa là một hình thức của chính phủ nơi quyền tối cao thuộc về dân chúng và các nhà cai trị được bầu thông qua các cuộc bầu cử tranh cử.[5][6] Một hình thức mới của chính phủ thường liên quan đến khái niệm độc tài được gọi là chế độ toàn trị. Sự ra đời của chủ nghĩa toàn trị đánh dấu sự khởi đầu của một kỷ nguyên chính trị mới trong thế kỷ 20. Hình thức chính phủ này được đặc trưng bởi sự hiện diện của một đảng chính trị duy nhất và đặc biệt hơn, bởi một nhà lãnh đạo mạnh mẽ (một hình mẫu thực sự), người áp đặt sự nổi bật cá nhân và chính trị của mình. Hai khía cạnh cơ bản góp phần duy trì quyền lực là: sự hợp tác kiên định giữa chính phủ và lực lượng cảnh sát, và một hệ tư tưởng phát triển cao. Ở đây, chính phủ có "toàn quyền kiểm soát truyền thông đại chúng và các tổ chức xã hội và kinh tế.[7] Theo Hannah Arendt, chế độ toàn trị là một hình thức độc tài mới và cực đoan bao gồm "các cá nhân bị cô lập".[8] Ngoài ra, bà khẳng định rằng ý thức hệ đóng vai trò hàng đầu trong việc xác định cách tổ chức toàn bộ xã hội. Theo nhà khoa học chính trị Juan Linz, sự khác biệt giữa chế độ độc tài và chuyên chế là trong khi chế độ độc tài tìm cách bóp nghẹt chính trị và vận động chính trị, chế độ toàn trị tìm cách kiểm soát chính trị và vận động chính trị.[9] Tuy nhiên, một trong những phân loại gần đây nhất của chế độ độc tài không xác định chế độ toàn trị là một hình thức độc tài. Trong nghiên cứu của Barbara Geddes, cô tập trung vào cách các nhà lãnh đạo ưu tú và quan hệ quần chúng ưu tú ảnh hưởng đến chính trị độc tài. Kiểu chữ Geddes xác định các thể chế quan trọng cấu trúc chính trị ưu tú trong chế độ độc tài (tức là các đảng và quân đội). Nghiên cứu dựa trên và liên quan trực tiếp đến các yếu tố như: sự đơn giản của các phân loại, khả năng ứng dụng xuyên quốc gia, sự nhấn mạnh vào giới tinh hoa và các nhà lãnh đạo, và sự kết hợp của các thể chế (đảng và quân đội) làm trọng tâm trong việc định hình chính trị. Theo Barbara Geddes, một chính phủ độc tài có thể được phân loại thành năm loại hình: Chế độ độc tài quân sự, Chế độ độc tài độc đảng, Chế độ độc tài cá nhân, Chế độ quân chủ, Chế độ độc tài lai.[8] Độc tài quân sựSửa đổiBài chi tiết: Độc tài quân sựChế độ độc tài quân sự là chế độ trong đó một nhóm sĩ quan nắm quyền, quyết định ai sẽ lãnh đạo đất nước và thực hiện ảnh hưởng đối với chính sách. Giới tinh hoa cấp cao và một nhà lãnh đạo là thành viên của chế độ độc tài quân sự. Chế độ độc tài quân sự được đặc trưng bởi sự cai trị của một quân đội chuyên nghiệp như là một thể chế. Trong chế độ quân sự, giới tinh hoa được gọi là thành viên junta; họ thường là sĩ quan cao cấp (và thường là sĩ quan cấp cao khác) trong quân đội.[8][10] Chế độ độc tài đơn đảngSửa đổiBài chi tiết: Nhà nước đơn đảngChế độ độc tài độc đảng là chế độ trong đó một đảng thống trị chính trị. Trong chế độ độc tài độc đảng, một đảng duy nhất có quyền truy cập vào các vị trí chính trị và kiểm soát chính sách. Trong chế độ độc tài độc đảng, giới tinh hoa đảng thường là thành viên của cơ quan cầm quyền của đảng, đôi khi được gọi là ủy ban trung ương, bộ chính trị hoặc ban thư ký. Các nhóm cá nhân này kiểm soát việc lựa chọn các quan chức của đảng và "tổ chức phân phối lợi ích cho những người ủng hộ và vận động công dân bỏ phiếu và thể hiện sự ủng hộ đối với các nhà lãnh đạo đảng".[8] Chế độ độc tài cá nhânSửa đổiChế độ độc tài cá nhân là chế độ trong đó tất cả quyền lực nằm trong tay của một cá nhân. Chế độ độc tài theo chủ nghĩa cá nhân khác với các hình thức độc tài khác trong việc tiếp cận các vị trí chính trị quan trọng, thành quả khác của văn phòng và phụ thuộc nhiều hơn vào sự tùy ý của nhà độc tài cá nhân. Những kẻ độc tài theo chủ nghĩa cá nhân có thể là thành viên của quân đội hoặc lãnh đạo của một đảng chính trị. Tuy nhiên, cả quân đội lẫn đảng đều không thực hiện quyền lực độc lập với nhà độc tài. Trong chế độ độc tài cá nhân, quân đoàn tinh nhuệ thường được tạo thành từ những người bạn thân hoặc thành viên gia đình của nhà độc tài. Những cá nhân này thường được lựa chọn cẩn thận để phục vụ bài viết của họ bởi nhà độc tài.[8][11] Theo một nghiên cứu năm 2019, chế độ độc tài cá nhân chủ nghĩa đàn áp hơn các hình thức độc tài khác.[12] Quân chủSửa đổiBài chi tiết: Quân chủVua Salman của Ả Rập Xê Út[13] Chế độ độc tài quân chủ là chế độ trong đó "một người gốc hoàng gia đã kế thừa vị trí nguyên thủ quốc gia theo thông lệ hoặc hiến pháp được chấp nhận". Các chế độ không được coi là độc tài nếu vai trò của quốc vương chủ yếu là theo nghi lễ, nhưng các chế độ quân chủ tuyệt đối, như Ả Rập Xê Út, có thể được coi là chế độ độc tài di truyền. Quyền lực chính trị thực sự phải được quốc vương thực thi để các chế độ được phân loại như vậy. Giới tinh hoa trong các chế độ quân chủ thường là thành viên của hoàng gia.[8] Chế độ độc tài tạp chủngSửa đổiChế độ độc tài lai là chế độ pha trộn phẩm chất của chế độ độc tài cá nhân, độc đảng và quân đội. Khi các chế độ chia sẻ đặc điểm của cả ba hình thức độc tài, chúng được gọi là ba mối đe dọa. Các hình thức phổ biến nhất của chế độ độc tài lai là lai cá nhân/đơn đảng và lai cá nhân/quân sự.[8] Lịch sửSửa đổiỞ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, có bốn loại độc tài được xác định: lập hiến, cộng sản (trên danh nghĩa được gọi là "nhà độc tài của giai cấp vô sản"), phản động và phát xít. Nhiều người nghi vấn về sự riêng biệt giữa các loại độc tài này. Kể từ Thế chiến II, một sự nổi lên mạnh mẽ hơn của sự độc tài đã xuất hiện gồm các nhà độc tài thuộc thế giới thứ ba, các nhà độc tài thần quyền hoặc tôn giáo và các nhà độc tài di truyền hoặc gia đình trị.[14] Đế quốc La MãSửa đổiTrong đế quốc này, một nhà độc tài La Mã là một người giữ chức vụ của một cơ quan chính trị của sự lập pháp của Cộng hòa La Mã. Các nhà độc tài La Mã được chỉ định nắm toàn bộ quyền lực trong những trường hợp khẩn cấp. Quyền lực của những người này không phải là sự độc đoán cũng không phải là không xác định được. Quyền lực này là chủ thể để làm luật và đòi hỏi sự bào chữa có hiệu lực trước kia. Không có một sự độc tài đúng nghĩa nào sau khi bắt đầu thế kỷ II TCN. Tuy nhiên, những nhà độc tài kiểu như Sulla và các vị Hoàng đế La Mã đã khiến quyền lực nói trên trở nên cá nhân hơn và độc đoán hơn sau đấy. Các lãnh tụ Mỹ Latinh thế kỷ XIXSửa đổiSau khi những quy tắc thuộc địa của Tây Ban Nha sụp đổ, nhiều nhà độc tài đã nắm quyền lãnh đạo trong các quốc gia được giải phóng. Thỉnh thoảng nắm quyền lãnh đạo quân đội, các cadillo (tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa là lãnh tụ) hoặc là những nhà lãnh đạo quân đội-chính trị tự chỉ định đã tấn công các chính phủ yếu đuối một khi họ kiểm soát một khu vực các quyền lực chính trị và kinh tế, như các trường hợp của Antonio López de Santa Anna ở Mexico và Juan Manuel de Rosas ở Argentina. Các nhà độc tài này được xác định là những người personalismo.[1] Một đợt sóng của độc tài quân sự nổi lên ở Mỹ Latin trong thế kỷ XX đã tạo nên một điểm đặc thù của văn hóa Mỹ Latin. Trong văn học Mỹ Latin, tiểu thuyết độc tài thách thức chế độ độc tài và caudillismo là một thể loại xuất sắc. Và cũng có nhiều phim nói về chế độ độc tài quân sự Mỹ Latin. Trong thế kỷ XXSửa đổiTrong nửa đầu thế kỷ XX, bên cạnh chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc thì chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa phát xít đã xuất hiện trong một số quốc gia có sự tiến bộ về khoa học và công nghệ. Ngoài ra còn có các chế độ độc tài ở Mỹ Latinh và ở các cựu thuộc địa ở châu Phi và châu Á. Thời hậu Thế chiến và Chiến tranh LạnhSửa đổiTrong thời kỳ sau hai cuộc Chiến tranh Thế giới, chế độ độc tài trở thành đặc điểm thường thấy của chính quyền quân sự, đặc biệt ở Mỹ Latin, Châu Á và Châu Phi. Trong trường hợp các nước châu Phi và châu Á trước đây là thuộc địa, sau khi giành được độc lập từ làn sóng phi thực dân hóa thời hậu Thế chiến, các chế độ có tổng thống/chủ tịch dần dần trở thành các chế độ độc tài mang tính cá nhân. Các chế độ này thường không bền vững[15]. Cũng có ý kiến cho rằng những chế độ độc tài này về căn bản thường chịu ảnh hưởng bởi Chiến tranh Lạnh. Cả Mỹ lẫn Liên Xô đều cố duy trì vùng ảnh hưởng của mình bằng cách cung cấp tài chính cho các nhóm chính trị và bán quân sự, và khuyến khích đảo chính, đặc biệt là ở châu Phi. Điều này dẫn đến nhiều nước có các cuộc nội chiến đẫm máu và hậu quả dẫn đến sự ra đời của các chế độ độc đoán. Ở Mỹ Latin, các nhà độc tài thường dùng những từ như mối đe dọa của chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa tư bản để biện hộ cho hành động của mình. Sự dân chủ hóaSửa đổiĐộng lực toàn cầu của sự dân chủ hóa luôn là một câu hỏi trọng tâm của các nhà khoa học chính trị.[16][17] Đợt sóng dân chủ thứ ba đã được nhắc đến như là một phong trào lật đổ sự độc tài và thiết lập dân chủ.[16] Ví dụ điển hình như Đế quốc Mỹ Xem thêmSửa đổi
Chú thíchSửa đổi
Tham khảoSửa đổi
Liên kết ngoàiSửa đổi
|