Tiêu luận những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng

Tài liệu "Những nguyên tắc phương pháp luận của thế giới quan duy vật biện chứng và việc vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay" có mã là 147208, file định dạng docx, có 16 trang, dung lượng file 20 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục: Luận văn đồ án > Khoa học xã hội > Triết học. Tài liệu thuộc loại Đồng

Nội dung Những nguyên tắc phương pháp luận của thế giới quan duy vật biện chứng và việc vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Những nguyên tắc phương pháp luận của thế giới quan duy vật biện chứng và việc vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang.
Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 16 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần tải.

Xem preview Những nguyên tắc phương pháp luận của thế giới quan duy vật biện chứng và việc vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT – HỌC THUYẾT VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN
  2. LỜI NÓI ĐẦU Phép biện chứng là một khoa học triết học, là một trong những phương pháp chung nhất giúp con người nhận thức về sự vật, hiện tượng hay nhận thức về thế giới xét trên nhiều phương diện thì phép biện chứng là một hiện tượng có ý nghĩa thế giới quan rộng lớn như bản thân triết học lịch sử phép biện chứng đã được hình thành và phát triển lâu đời có thể nói từ thời cổ đại khi mà triết học ra đời, đỉnh cao của nó là phép biện chứng duy vật hay biện chứng Macxít. Phép biện chứng duy vật Macxít là sự kế thừa những giá trị thức tinh hoa của nhân loại từ xưa cho đến thời điểm nó ra đời, dựa trên truyền thống tư tưởng biện chứng của nhiều thế kỷ phép biện chứng Macxít đã vạch ra những đặc trưng chung nhất của biện chứng khách quan, nghiên cứu những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của hệ nhiên, của xã hội loài người và của tư duy công lao to lớn và vĩ đại của Marx và Ph.Angghen là đã xây dựng cho loài người một phương pháp nhận thức thế giới khoa học, nó là chìa khóa để giúp con người nhận thức và chinh phục thế giới. Nắm vững và vận dụng đúng đắn những nguyên lý, những quy luật cũng như phương pháp luận của phép biện chứng duy vật là nhân tố cơ bản để hình thành một thế giới quan khoa học. Việc học tập, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của phép biện chứng trong lịch sử là một nhu cầu hết sức cần thiết. Nó không những cho phép ta nắm vững nội dung những nguyên lý, những quy luật, những cặp phạm trù phản ánh quá trình con người nhận thức thế giới, phản ảnh nguồn gốc của sự vận động cách thức cũng như khuynh hướng của sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan của phép biện chứg duy vật mà còn giúp chúng ta thấu suốt những nguyên tắc, phương pháp luận từ các nguyên lý, các học thuyết đó. Đồng thời qua đó cũng giúp chúng ta nắm được bức tranh toàn cảnh, hiểu được nguồn gốc ra đời, sự hình thành và phát triển của quá trình đấu tranh gay gắt với những tư tưởng của phép siêu hình cũng như phép biện chứng duy tâm để khẳng định vị trí to lớn của nó trong nhận thức và cải tạo thế giới của con người. Hiện nay nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước việc nghiên cứu phép biện chứng một cách tường tận, có hệ thống nhất là nắm vững bản chất của phép biện chứng duy vật Macxít càng là một nhu cầu bức thiết để đổi mới tư duy. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng là biện chứng chủ quan phản ánh biện chứng khách quan của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nó đang là định hướng tư tưởng và là công cụ tư duy nhạy bén để đưa cách mạng nước ta tiến lên giành thắng lợi trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN. Điều này đã thôi thúc tôi đến với đề tài “Phép biện chứng duy vật – học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển”
  3. Với sự hiểu biết của một sinh viên không chuyên ngành triết học, còn hạn chế trong thời gian đầu tư để hoàn thành tiểu luận chắc chắn có sự sai sót. Rất mong sự đóng góp của quý thầy cô.
  4. CHƯƠNG I: PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ NHỮNG HÌNH THỨC LỊCH SỬ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG I. Phép biện chứng là gì? Phép (phương pháp) là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng HyLạp là methodos là cách thức mà con người tiến hành làm một việc gì đó để đạt được mục đích của mình. Tuy nhiên theo nghĩa khoa học thì phương pháp được hiểu là hệ thống những nguyên tắc, yêu cầu được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và thực tiễn nhằm đạt được mục đích nhất định. Trong triết học, khi giải quyết mặt thứ hai trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không thì có 2 ý kiến khác nhau: + Phái bất khả tri: cho rằng con người không có khả năng nhận thức được thế giới bởi lẽ họ cho rằng nhận thức vận động và phát triển cho nên tại một điểm nhất định thì sự vật A là A nhưng lại không phải là A khi con người nhận thức được sự vật thì cũng là lúc sự vật đã biến đổi để trở thành các khác nó. + Phái khả tri: thì cho rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan, bởi lẽ con người biết sử dụng những phương pháp cách thức khoa học để nhận thức phương pháp là phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của con người, phản ánh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Do đó phương pháp là một trong những yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực. Trên cơ sở những điều kiện khách quan đã có, phương pháp càng đúng đắn thì kết qủa đạt được càng cao và ngược lại. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, quan niệm hoàn toàn khác nhau về nguồn gốc và bản chất của phương pháp chủ nghĩa duy tâm cho rằng phương pháp là những nguyên tắc do lý trí con người tự ý đặt ra để tiện cho hoạt động nhận thức và hành động, họ xem phương pháp như là một phạm trù thuần túy, chủ quan trái lại với chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng phương pháp hình thành không phải một cách chủ quan, tuỳ tiện mà nó phụ thuộc và đối tượng nghiên cứu và mục đích đặt ra để tiếp cận đối tượng và giải quyết nhiệm vụ đặt ra, chủ thể phải nghiên cứu đối tượng và mục đích cần đạt tới một cách khách quan. Nghĩa là phải vạch rõ những tính chất, chỉ tiêu về số lượng và chất lượng….Từ đó nhận thức rõ những quy luật của nó. Chỉ trên cơ sở đó, và sau đó thì chủ thể mới xác định được phải nghiên cứu và hành động như thế nào, cần phải sử dụng phương tiện, công cụ, biện pháp gì cho thích hợp. Trong thực tế có 3 phương pháp sau: Phương pháp ngành: Là phương pháp nhận thức được dùng cho một ngành nào đó tuỳ thuộc vào tính chất đặc thù của ngành đó. Chẳng hạn: phương pháp toán học, phương pháp vật lý học…
  5. Phương pháp chung: Là phương pháp nhận thức được sử dụng chung trong một số ngành nhất định, chẳng hạn phương pháp phân tích, phương pháp quy nạo… Phương pháp chung nhất là phương pháp mà bất cứ ngành nào cũng phải sử dụng, hoạt động nào cũng phải sử dụng. Đó chính là những phương pháp trong triết học ở góc độ triết học thì tri thức triết học là tri thức chung nhất đó chính là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình (hay còn gọi là phép biện chứng và phép siêu hình) Lịch sử phát triển của triết học là sự phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy biện chứng và siêu hình. Biện chứng và siêu hình là hai mặt đối lập trong phương pháp tư duy. Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã góp phần quan trọng thúc đẩy tư duy triết học phát triển và được hoàn thiện dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật. Đặc trưng của phương pháp siêu hình là nhìn nhận sự vật hiện tượng, nhận thức đối tượng, nhận thức đối tượng trong trạng thái hoàn toàn không có sự vận động, biến đổi và phát triển. Bản thân mỗi sự vật là một hệ cô lập, tách rời và hoàn toàn không có sự liên hệ gì với các sự vật, hiện tượng khác trong thế giới khách quan chính vì vậy trong tác phẩm “Chống Đuyring” Ph.Angghen đã chỉ ra hạn chế của phương pháp siêu hình “chỉ thấy những sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa các sự vật đó, chỉ thấy sự tồn tại của các sự vật mà không thấy sự ra đời và biến đi của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà không thấy trạng thái động của sự vật, chỉ thấy cây mà không thấy rừng”. Angghen nhận xét tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung hòa được, họ nói có là có, không là không. Đối với họ, một sự vật hoặc là tồn tại hoặc là không tồn tại, một hiện tượng không thể vừa là chính nó lại vừa là cái khác nó. Tóm lại, quan điểm siêu hình là quan điểm luôn xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng, tĩnh tại với tư duy cứng nhắc. Với tư cách đó tư duy siêu hình chỉ có ý nghĩa trong những giới hạn hết sức chật hẹp, nếu vượt ra ngoài giới hạn đó, tư duy siêu hình sẽ mắc sai lầm. Đặc trưng của phương pháp biện chứng là nhận thức đối tượng trong mối liên hệ, nhận thức đối tượng trong trạng thái vận động và phát triển không ngừng. Như vậy, đối lập với phươngpháp siêu hình thì phương pháp tư duy biện chứng là tư duy linh hoạt, mềm dẻo. Nó thừa nhận trong những trường hợp cần thiết, bên cạnh cái “hoặc là… hoặc là” còn có cái “vừa là… vừa là” nữa. Chẳng hạn, một vật hữu hình trong một lúc vừa là nó, vừa không phải là nó, một cái tên đang bay trong mỗi lúc vừa ở vị trí A lại vừa không ở vị trí A; cái khẳng định và cái phủ định loại trừ nhau lại vừa không thể lìa nhau. Theo V.I. Lênin, phép biện chứng là “học thuyết về sự phát triển dưới h2nh thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện“. Với tư cách là một học thuyết hoàn chỉnh và sâu sắc như vậy, học thuyết này (khác với quan niệm siêu hình về sự phát triển). Xem “sự phát triển… là sự thống nhất giữa các mặt đối lập
  6. (sự phân đôi của cái thống nhất thành những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt đối lập ấy)” “Theo nghĩa đen, phép biện chứng” V.I.Lênin đã định nghĩa phép biện chứng là “Học thuyết vạch ra những mặt đối lập làm thế nào mà có thể và thường là (trở thành) đồng nhất… tại sao lý trí con người không nên xem những mặt đối lập ấy là chết, cứng đờ, mà là sinh động, có điều kiện năng động, chuyển hóa lẫn nhau.” Như vậy, toàn bộ vấn đề của phép biện chứng là vấn đề lý giải về sự phát triển, về tính chất mâu thuẫn của tự nhiên và tư duy, về sự đấu tranh và đồng nhất (thống nhất) của các mặt đối lập,về các vấn đề gắn liền với nó (vấn đề sự thống nhất và mối quan hệ qua lại, về sự phủ định, về tính chất tiệm tiến của sự phát triển…) II. CÁC TÌNH THỨC LỊCH SỬ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG Trong hoạt động của mình, dù muốn hay không, dù nhận thức được hay không nhận thức được thì con người cũng buộc phải sử dụng đến phương pháp siêu hình. Tuy nhiên như đã nói ở trên, do tính chất hạn chế của phương pháp siêu hình, nếu chỉ sử dụng đơn thuần phương pháp này thì không mang lại hiệu quả tối ưu trong hoạt động nhận thức, mà muốn phản ánh đúng hiện thực thì phải sử dụng đến phương pháp biện chứng. Nhưng biện chứng được hiểu là gì. Theo sự phát triển và hoàn thiện dần của mình thì biện chứng cũng được hiểu theo những cách thức khác nhau. Thời cổ đại, biện chứng được hiểu là nghệ thuật tranh cãi. Cứ hai người tranh cãi với nhau nếu người nào dồn được đối phương vào thế bị thì được gọi là nhà biện chứng. Biện chứng còn được hiểu theo nghĩa khác là ngụy biện. (Nguỵ là che đậy, biện là lời nói) tức là dùng ngôn ngữ hoặc lời nói của mình để che đậy bản chất của sự vật không cho người khác nhận ra. Ví dụ: Cái lưng màu đen, dùng lời nói phát biểu và chứng minh rằng nó màu trắng mà đối tượng nghe không thể bác bỏ hay phủ nhận được thì gọi là ngụy biện hay biện chứng. Thời cổ đại, ở Phương Tây có nhà ngụy biện giỏi nhất là Dênôn (khoảng 490-430 trước CN) là nhà triết học thuộc trường phái Elê. Ong có rất nhiều cách ngụy biện mà ông gọi là các “nghịch lý” chẳng hạn như “sự lưỡng phân”, “Asin và con rùa”, “mũi tên”, “sân vận động”… Ong có thể chứng minh A = 2, chứng minh vận độnglà đứng im… Ví dụ, một mũi tên muốn bay từ A đến B thì nó phải đi qua điểm giữa của A và B là C, muốn đi đến điểm C thì phải đi qua điểm giữa của A và C là D; và muốn đi đến điểm D thì phải đi qua điểm giữa của A và D là E… Cứ như thế, Dênôn cho rằng phải đi qua điểm giữa giữa hai điểm là vô hạn, mà vô hạn thì không vật nào có thể bay qua được, vì nếu đi qua được thì đã là hữu hạn rồi. Do đó, vật đứng im mãi mãi không chuyển động gì hết.
  7. Tiếp sau đó, biện chứng còn được hiểu là hùng biện, không xuyên tạc tri thức, không xuyên tạc sự thật mà bằng tri thức thực có, khả năng tự có chinh phục người khác bằng lời nói diễn đạt của mình. Như vậy, các nhà triết học Hi Lạp cổ đại hiểu phép biện chứng như là nghệ thuật tiến hành đàm thoại, tranh luận triết học để sao cho có thể thông qua sự xung đột giữa các ý kiến trái ngược nhau mà phát hiện ra chân lý hay nói cách khác đó là nghệ thuật phát hiện và phát minh chân lý. Cùng với quá trình phát triển của mình, phép biện chứng theo nghĩa này cũng đã trở thành phương pháp nghiên cứu các vấn đề khoa học trong đó có cả các vấn đề triết học. * Từ thời Hêghen trở đi, biện chứng được hiểu là phương pháp. Đó là phương pháp nhận thức sự vật, hiện tượng, nhận thức đối tượng trong trạng thái vận động và phát triển. Như vậy, nếu hiểu biện chứng là phương pháp như vậy thì cho đến nay, khi mà biện chứng đã trở thành phương pháp tư duy, khoa học để nhận thức thế giới trên cơ sở một thế giới quan khoa học thì nó có 3 hình thức sau: Biện chứng tự phát (thời cổ đại) Biện chứng duy tâm Biện chứng duy vật BIỆN CHỨNG TỰ PHÁT (THỜI CỔ ĐẠI) Hình thức thứ nhất của phép biện chứng được thể hiện trong triết học thời cổ đại. Những quan niệm và tư tưởng biện chứng đã chiếm một vị trí đáng kể trong thế giới quan triết học của người Hylạp cổ đại. Về thực chất, những quan niệm và tư tưởng biện chứng đó đã xuất hiện cùng với triết học. Phép biện chứng tự phát đã xuất hiện, ngay từ khi triết học cổ đại ra đời, như Ph. Anghen đã khẳng định: “Những nhà triết học cổ đại đều là những nhà biện chứng bẩm sinh” Biểu hiện của phép biện chứng thời cổ đại có thể lấy ngay trong tư tưởng triết học của các nhà triết học Phương Tây lẫn phương Đông. Tuy nhiên, việc sử dụng phương pháp biện chứng để giải thích cũng như nhận thức thế giới ở thời kỳ này chỉ mới mang tính tự phát chứ chua đạt đến trình độ tự giác. Nhà triết học phương Tây đầu tiên có thể nói đến là Talét (khoảng 624 –547 trước CN). Ong đã đồng nhất thế giới này với một vật thể cụ thể là nước. Ong cho rằng yếu tố đầu tiên tạo nên thế giới, bản nguyên của thế giới là nước: “Thế giới này không gì khác nước, vạn vật đều bồng bền trên nước”, những thứ trên thế giới đều do sự chuyển hóa của nước mà thành, và khi phân hủy lại biến thành nước. Theo Talet, vật chất (nước) tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó tạo ra thì biến đổi không ngừng, sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất, trong đó mọi vật biến đổi không ngừng mà nướccc là nền tảng. Như vậy, quan niệm triết học của Talet giải thích và nhận thức thế giới tuy mang tính mộc mạc thô sơ, là kết quả của sự quan sát trực tiếp chưa có sự hiện diện của ý thức và tư duy nhưng đã chứa đựng những mầm mống của yếu tố biện chứng, tự phát.
  8. Nhà biện chứng tiêu biểu của phương Tây thời này có thể nói đến là Hêraclit (khoảng 540 –480 trước CN) ông cho rằng bản nguyên của thế giới này là lửa, nó là cơ sở duy nhất và phổ biến của tất cả mọi sự vật hiện tượng tự nhiên. Hêraclit cho rằng thế giới này vạn vật là ngọn lửa lung linh lúc bùng cháy, lúc tắt đi, lửa biến thành vạn vật rồi vạn vật laị quay về với lửa như con người đem vàng để lấy hàng hóa và ngược lại. Như vậy, phép biện chứng của Hêraclit tuy chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm khoa học nhưng hầu như các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng đã được ông đề cập đến. Theo Heraclit vật chất là vận động vĩnh viễn, không có sự vật hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại, tất cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hóa thành cái khác, và ngược lại “chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”, “ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mới”. Các mâu thuẩn trong sự vật hiện tượng là sự tồn tại Phổ biến. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán của ông về vai trò của các mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, về “sự trao đổi của các mặt đối lập”. Sự vận động, phát triển không ngừng của thế giới do quy luật khách quan (ông cụ là Logos) quy định Logos. Khách quan là trật tự khách quan của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ, còn Logos chủ quan là từ ngữ, lời nói, học thuyết, suy nghĩ của con ngừơi. Lý luận nhận thức của Hêraclit mang tính duy vật và biện chứng sơ khai nhưng về cơ bản là đúng đắn . Marx và Ph.Anghen đã đánh giá một cách đúng đắn giá trị thuyết học của Hêraclit coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy Lạp. Tư tưởng biện chứng thời cổ đại đó còn có thấy ở nhiều triết gia khác như Đêmôcrit (Khoảng 460-370 trước CN), Xôcrat (Khoảng 469-399 trước CN)… Đêmôcrit đã xây dựng lý thuyết về vũ trụ học, thuyết này được xây dựng trên cơ sở lý luận nguyên tử về cấu tạo của vật chất thấm nhuần tinh thần biện chứng tự phát. Ở phương Đông, tư tưởng biện chứng thời cổ đại có thể tìm thấy trong thuyết Ngũ Hành và Thuyết Am Dương của người Trung Quốc. Theo thuyết Ngũ hành thì có 5 yếu tố hay 5 hành chất đầu tiên của vũ trụ gồm : kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Tất cả vũ trụ, vạn vật đều do 5 khí ấy mà biến hóa ra. Các yếu tố của Ngũ hành không tồn tại tĩnh bị động mà chúng là những yếu tố hoạt động (hành), liên hệ, tương tác, thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau. Các âm dương gia đã chia sự tác động lẫn nhau của Ngũ hành thành hai quá trình mâu thuẩn, thống nhất nhau là: tương sinh, tương khắc. “Ngũ hành tương sinh” là quá trình các yếu tố tác động, chuyển hóa lẫn nhau tạo ra sự biến chuyển liên hoàn trong vũ trụ, vạn vật. “Ngũ hành tương khắc” là quá trình các yếu tố trong ngũ hành đối lập, tạo ra sự ràng buộc, chế ước lẫn nhau giữa chúng. Đối với các vấn đề xã hội, thuyết này cho rằng quá trình lịch sử loài người cũng bị 5 thế lực này chi phối và tuân theo sự biến đổi của Ngũ hành
  9. Trái với thuyết Ngũ hành chủ yếu đi giải thích vũ trụ thì thuyết Am dương đi sâu vào lý giải nguồn gốc và sự biến đỗi của vạn vật trong thế giới. Thuyết này cho rằng, nguồn gốc biến hóa của mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ là sự liên hệ, tác động giữa hai thế lực “âm” ”dương” trong thái cực “Âm” “dương” được coi là hai thế lực cơ bản trong vũ trụ biểu thị và chi phối vạn vật trong thế giới, từ tự nhiên đến xã hội; từ nhỏ đến lớn; từ đơn giản đến phức tạp… trong thái cực “âm”, “dương” là hai thế lực, hai mặt hòan toàn đồng đẳng với nhau, vừa đối lập nhau, đun đẩy nhau và chế ước liên hệ, tương tác nhau. Có mặt “âm” mới có mặt “dương”, trong “âm” có “dương” và ngược lại trong “dương” có “âm”. Chính sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa hai mặt là “âm” và “dương” trong một thể thống nhất là thái cực đã tạo nên trời đất, bốn mùa, các yếu tố cơ bản của vạn vật và làm nảy sinh ra vạn vật trong thế giới khiến cho sự vật hiện tượng vận động, biến hóa không ngừng. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM Đây là hình thức thứ hai của phép biện chứng, được thể hiện trong tư tưởng triết học của Hêghen (1770-1831) ông là một nhà biện chứng lỗi lạc người Đức, hạt nhân biện chứng trong triết học của ông sau này đã được Marx và Ph.Anghen tiếp thu có chọn lọc để xây dựng thành phép biện chứng duy vật. Công lao lịch sử to lớn của Hêghen là đã nâng phép biện chứng từ tự phát lên trình độ tự giác, từ tản mạn , rời rạc lên thành hệ thống lý luận chặt chẽ xong lại được đặt trên cơ sở duy tâm, thần thánh nên không thể trở thành học thuyết khoa học. Chính vì vậy, Marx đã ví học thuyết của Hêghen như cái thau chứa nước ối của người đàn bà đẻ mà trong đó có chứa đứa bé Hêghen đã xây dựng một hệ thống triết học hết sức đồ sộ gồm 3 bộ phận:  Khoa học Logich (hay Logic học): tìm hiểu các quy luật của tư duy  Triết học tự nhiên: tìm hiểu các sự vật, hiện tượng, các quá trình tự nhiên dưới hình thức duy tâm  Triết học tinh thần: tìm hiểu các hiện tượng tự nhiên, cá lĩnh vực của đời sống xã hội, trình bày lịch sử của con người và sự tự nhận thức của con người Hêghen là người tìm hiểu các quy luật về con người, về tự nhiên và xã hội nhưng theo trật tự của một nhà duy tâm, cho rằng việc tìm hiểu các quy luật tư duy là cơ sở để tìm hiểu các quy luật của tự nhiên và xã hội theo Hêghen, chính tư duy con người thiết định, quy định nên thế giới tự nhiên chứ không phải thế giới tự nhiên quy định nên tư duy con người Hêghen kết hợp tồn tại với tư duy là một và cho ngọn nguồn xuất phát thực thể đầu tiên của thế giới chính là tư duy, ý thức nhưng là “ý niệm tuyệt đối” hay tinh thần vũ trụ. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật cho rằng ý niệm là sự phản ảnh
  10. của thế giới vật chất hiện thực vào trong ý thức con người. Nhưng Hêghen đã tách nó ra khỏi con người, làm cho nó thành đấng tối cao sáng tạo ra tự nhiên và nhân loại. Ong cho rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng trên thế giới và ý thức của cá nhân của nhân loại đều nằm trong ý niệm tuỵêt đối, là sự thể hiện ý niệm tuyệt đối Y niệm tuyệt đối là một thực thể tinh thần, tồn tại trước giới tự nhiên. Nó tự thiết định bản thân nó và phân biệt với bản thân nó. Theo Hêghen, ý niệm tuyệt đối trong sự vận động biện chứng, đạt tới sự phát triển đầy đủ ngay từ trước khi giới tự nhiên xuất hiện. Nó đã mang trong lòng sự qui định sau này. Sự phát triển biện chứng đó của ý niệm tuyệt đối khi đạt tới đầy đủ thì “tha hóa” (theo ông tha hóa có nghĩa là vận động và phát triển) thành giới tự nhiên, giới tự nhiên lại tha hóa thành xã hội, rồi xã hội lại tha hóa quay về với ý niệm tuyệt đối nhưng không phải dưới hình thức ban đầu mà nó ở mức độ cao hơn. Dựa vào thành tựu của khoa học tự nhiên đương thời, Hêghen thừa nhận giới tự nhiên nằm trong quá trình vận động và phát triển từ vô cơ – hữu cơ – con người. Con người có khả năng phản ánh giới tự nhiên và khi con người phản ánh được đầy đủ giới tự nhiên thì cũng có nghĩa là lúc ý thức con người đã quay trở về điểm khởi đầu của nó là ý niệm tuyệt đối. Ý thức của mỗi cá nhân được khảo sát coi như là sự tái diễn tư duy của toàn nhân loại, trải qua các giai đoạn phát triển tiền thủy, sinh vật đến con người Như vậy, điểm khởi đầu là “tinh thần” và điểm kết thúc cũng là tinh thần, chỉ có khác là điểm khởi đầu là “tinh thần thế giới” hay “ý niệm tuyệt đối” còn điểm kết thúc là “tinh thần thế giới” tồn tại ở mỗi cá nhân con người có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại Hêghen đã trình bày một cách có hệ thống khoa học những nội dung cơ bản của phép biện chứng. Trong logic học của mình, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù như: lượng – chất, phủ định, mâu thuẩn… mà còn nói đến cả các quy luật như “lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”, “phủ định của phủ định”. Tuy nhiên, cần lưu ý là phép biện chứng của Hêghen là biện chứng duy tâm, vì nó đề cập đến quy luật vận động và phát triển của tư duy, của khái niệm theo ông những khái niệm (hay tư duy) này không khác nhau mà còn làm trung giới cho nhau, tức là có liên hệ với nhau và mỗi khái niệm đều phải trải qua một quá trình phát triển được thực hiện trên cơ sở của 3 nguyên tắc:  Chất và lượng quy định lẫn nhau, những chuyển hóa về lượng sẽ dẫn đến những biến đổi về chất và ngược lại (thuyết về tồn tại).  Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với tư cách là nguồn gốc và động lực của sự phát triển (thuyết về bản chất) khi nghiên cứu nguyên tắc này, Hêghen đã đưa ra và giải quyết một cách biện chứng mối liên hệ chuyển hóa giữa bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả.  Phủ định của phủ định với tính cách là sự phát triển diễn ra theo chiều xoáy ốc (học thuyết về khái niệm). Trong khi lý giải nguyên tắc này, Hêghen đã
  11. giải quyết một cách biện chứng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa logic và lịch sử. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT Đây là hình thức thứ ba của phép biện chứng. Có thể nói phép biện chứng duy vật là phương pháp nghiên cứu thế giới hay nhận thức đối tượng một cách khoa học. Phép biện chứng duy vật do Marx và Ph.Anghen sáng lập trên cơ sở kế thừa những tri thức tinh hoa nhất của nhân loại đến thời điểm đó và đặc biệt là kế thừa trực tiếp phép biện chứng trong tư tưởng triết học cuả Hêghen . Marx và Ph.Anghen đã cố gắng gạt bỏ các duy tâm ra khỏi tư tưởng, triết học của Hêghen chọn lọc tính biện chứng trong đó để xây dựng nên một phương pháp khoa học trên cơ sở một thế giới quan khoa học. Bằng sự kế thừa có chọn lọc và phát huy sáng tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen, hai ông đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng Marx mà có thể nói cho đến nay, kể từ Marx và Ph.Anghen phôi thai, phép biện chứng duy vật luôn thể hiện tính khoa học, tiên phong của nó.
  12. CHƯƠNG II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG HỌC THUYẾT VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ PHÁT TRIỂN Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp. Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng đắn thế giới khách quan mà còn chỉ ra những cách thức để định hướng cho con người trong nhân thức thế giới và cải tạo thế giới. Phép biện chứng duy vật không chỉ khái quát những thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể, mà còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình phát triển tư tưởng triết học của nhân loại. Phép biện chứng duy vật trình bày một cách có hệ thống, chặt chẽ tính chất biện chứng của thế giới thông qua những phạm trù và những quy luật chung nhất của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy). Nội dung của phép biện chứng duy vật rất phong phú và đa dạng nhưng tóm lại được khái quát qua hai nguyên lý: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự vận động và phát triển. Hai nguyên lý này được cụ thể hóa qua các quy luật. Các quy luật này được chia thành các quy luật cơ bản và các quy luật không cơ bản(hay các cặp phạm trù cơ bản). Các quy luật cơ bản chỉ về nguồn gốc của sự phát triển (quy luật mâu thuẩn); chỉ ra cách thức sự phát triển(quy luật lượng đổi dần đến chất đổi) và chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển (quy luật phủ định của phủ định). Các quy luật này cụ thể hóa đặc trưng thứ hai của phép biện chứng đó là sự vận động và phát triển của sự vật. Các quy luật không cơ bản (hay các cặp phạm trù cơ bản) chúng đề cập đến tính đa dạng của các mối liên hệ, là sự cụ thể hóa nguyên lý về mối quan hệ phổ biến, cụ thể hóa về sự liên hệ trong biện chứng chúng bao gồm:  Cái chung và cái riêng  Nguyên nhân và kết quả  Tất nhiên và ngẫu nhiên  Nội dung và hình thức  Bản chất và hiện tượng  Khả năng và hiện thực. Trong khi vạch ra những tính chất biện chứng chung nhất của thế giới, thông qua những phạm trù, những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của cả tự nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng rút ra những quan điểm, nguyên tắc xuất phát để chỉ đạo việc hoạch định phương pháp cho mọi hoạt động của con người . Đi sâu vào từng nguyên lý, phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy vật, chúng ta càng thấy rõ sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và phương pháp của phép biện chứng duy vật. I. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật khái quát bức tranh toàn cảnh chằng chịt những mối liên hệ của thế giới (tự nhiên, xã hội và
  13. tư duy). Tính chất vô hạn của thế giới cũng như tính chất có hạn của mỗi sự vật, hiện tượng quá trình chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến và được quyết định bởi rất nhiều mối liên hệ có vai trò và vị trí khác nhau. Sự liên hệ phổ biến là đặc trưng phổ quát nhất của thế giới. Phương pháp siêu hình coi như các sự vật và hiện tượng trong thế giới là những cái tồn tại và tách rời nhau, giữa chúng không có mối liên hệ, ràng buộc quy định và chuyển hoá lẫn nhau, nếu có chỉ là những mối liên hệ ngẫu nhiên, rời rạc hời hợt bên ngoài. Chẳng hạn theo họ thì giới tự nhiên vô cơ không có quan hệ với giới tự nhiên hữu cơ, xã hội loài người chỉ là tổng số đơn giản các cá thể riêng lẻ, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính của con người tách rời nhau. Phương pháp siêu hình trước hết phổ biến rộng rãi trong khoa học tự nhiên và sau đó là trong triết học suốt các thế kỷ XVII – XVIII, khi mà khoa học tự nhiên còn bị hạn chế ở phương pháp sưu tầm tài liệu nghiên cứu tách rời từng bộ phận riêng rẽ. Chính quan niệm này đã dẫn tới những sai lầm về thế giới quan triết học, dựng lên ranh giới giả tạo giữa các sự vật và hiện tượng . Vì vậy phương pháp siêu hình không có khả năng phát hiện ra cái chung, cái bản chất quy luật của sự vận động và phát triển của các sự vật và hiện tượng trong thế giới. Trên cơ sở kế thừa các giá trị tư tưởng về biện chứng trong kho tàng lý luận của nhân loại đồng thời khái quát những giá trị mới nhất của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX, phép biện chứng duy vật đã phát hiện ra nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng trong thế giới, coi đây là đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật. Khái niệm liên hệ phổ biến nói lên rằng các sự vật và hiện tượng muôn hình muôn vẻ trong thế giới không có cái nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập với các sự vật khác mà chúng là một thể thống nhất, trong đó các sự vật khác mà chúng là một thể thống nhất, trong đó các sự vật và hiện tượng tồn tại bằng cách tác động nhau, ràng buộc nhau, quy định và chuyển hóa lẫn nhau góp phần quy định sự tồn tại và phát triển của nhau, tự bản thân mỗi sự vật, hiện tượng không thể tự quyết định sự tồn tại và phát triển của chính nó. Điều đó là dễ hiểu vì vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng vận động, mà vận động thì có nghĩa là liên hệ Ph.Anghen viết:”Tất cả thế giới mà chúng ta nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp gồm các vật thể khắng khít với nhau…” Mối liên hệ này chẳng những diễn ra ở mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật và hiện tượng. Ví dụ: Trong giới tự nhiên, giữa động vật và thực vật, giữa cơ thể sống và môi trường có quan hệ với nhau; trong đời sống xã hội, giữa các cá nhân, các tập đoàn người, giữa cá quốc gia có quan hệ với nhau…  Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng có tính khách quan, là các vốn có của các sự vật và hiện tượng, nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của cả thế giới biểu hiện trong các quá trình tự nhiên, xã hội và tư duy. Mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng này khách quan
  14. vì nó không phụ thuộc vào ý thức con người, tồn tại ngoài ý thức con người.  Mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng còn có tính đa dạng(riêng biệt) sự vật khác nhau, ở những không gian và thời gian khác nhau thì sẽ có những mối liên hệ khác nhau. Ngay chính bản thân mỗi sự vật ở những nơi khác nhau sẽ có mối liên hệ khác nhau, vào những thời điểm khác nhau sẽ có mối liên hệ khác nhau. Như vậy, theo quan điểm của khoa học hiện đại thì mỗi sự vật đều được xem là một hệ thống nghĩa là bao hàm trong sự vật ấy nhiều bộ phận, nhiều yếu tố, nhiều mặt, phần tử hợp thành và giữa chúng có mối liên hệ với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Chính những mối liên hệ mới tạo nên chất lượng của hệ thống (cách liên hệ khác nhau sẽ tạo nên những sự vật khác nhau, cho nên mối liên hệ khác nhau sẽ tạo nên những chất lượng khác nhau và do đó tạo nên các sự vật khác nhau). Nhận thức sự vật là nhận thức các thuộc tính của nó, nhưng các thuộc tính của các sự vật chỉ biểu hiện thông qua những mối quan hệ của nó với các sự vật khác, do đó nhận thức sự vật chính là nhận thức các mối liên hệ của sự vật. Sự vật có vô số những mối liên hệ và do đó có vô số các thuộc tính (vì có mối liên hệ bên trong, liên hệ bên ngoài, mối liên hệ không gian, thời gian…) và những mối liên hệ này có vai trò, vị trí khác nhau. Các khoa học cụ thể nghiên cứu những mối liên hệ trong những phạm vi nhất định (chẳng hạn vật lý học, hóa học nghiên cứu mối liên hệ của quá trình phân giải các chất hữu cơ, vô cơ…) còn phép biện chứng chỉ nghiên cứu những mối liên hệ phổ biến, nghĩa là những mối liên hệ có trong tất cả các sự vật. Những mối liên hệ phổ biến nhất này được thể hiện trong những phạm trù của phép biện chứng. Từ nguyên lý về sự liên hệ phổ biến, ta rút ra được phương pháp luận là: Phải quán triệt phương pháp toàn diện là nguyên tắc phương pháp luận chung nhất chỉ đạo mọi hoạt động và suy nghĩ của con người. Nội dung chính của nguyên tắc này là: +Khi xem xét các sự vật hiện tượng cần phải tính đến tất cả các mặt của mối liên hệ kể cả những mắc, những khâu trung gian trong điều kiện không gian, thời gian nhất định. +Trong vô vàn các mối liên hệ phải xác định đâu là mối liên hệ cơ bản, chủ yếu. +Chống lại cách xem xét cào bằng, dân trải chống lại cách xem xét siêu hình phiến diện, đồng thời chống lại thuật phiến diện (quy cái thứ yếu thành cái chủ yếu, cái không cơ bản thành cái cơ bản), đặt sự vật hiện tượng trong điều kiện không gian, thời gian nhất định. II. Nguyên lý về sự vận động và phát triển: Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến gắn liền với nguyên lý về sự phát triển. Hai nguyên lý này thống nhất hữu cơ với nhau, bởi vì liên hệ cũng có nghĩa là vận động, không có vận động sẽ không có sự phát triển nào. Mọi sự vật ở trạng thái động nằm trong khuynh hướng chung là sự phát triển, nguồn gốc của sự phát triển là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập để giải quyết
  15. mâu thuẩn nội tại của sự vật. Cách thức của sự phát triển là lượng của sự vật biến đổi dẫn đến chất của sự vật biến đổi và ngược lại. Khuynh hướng của sự phát triển là theo đường tròn xoáy ốc đi lên là quá trình phủ định của phủ định. Cần phân biệt khái niệm vận động và khái niệm phát triển. Mọi sự vật đều có quá trình hình thành tồn tại và biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. Sự biến đổi, chuyển hóa này là vô cùng, vô tận với những tính chất và khuynh hướng khác nhau. Có những biến đổi làm cho sự vật mới ra đời nhưng cũng có sự biến đổi dẫn đến sự tan rã, tiêu vong của các vật thể, vật chất, hoặc caí lạc hậu thay thế cái tiến bộ …đây chính là khái niệm vận động nói chung. Tuy nhiên khái niệm phát triển không bao quát mọi sự vận động nói chung. Nó chí khái quát xu hướng chung của vận động, xu hướng vận độnglà đi lên, cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Sự vận động đi lên có thể diễn ra theo các chiều hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện… tùy theo các lĩnh vựa khác nhau của thế giới vật chất và sự phát triển thể hiện khác nhau. Trong giới vô cơ, sự phát triển biểu hiện dưới hình thức biến đổi của các yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác động lẫn nhau giữa chúng trong những điều kiện nhất định làm xuất hiện các hợp chất phức tạp. Chẳng hạn sự tác động lẫn nhau giữa các nguyên tử, phân tử dẫn đến sự hình thành các hợp chất hóa học. Trong sinh vật, sự phát triển của chúng thể hiện ở khả năng thích nghi trước sự biến đổi phức tạp của môi trường, ở sự hoàn thiện. Không ngừng quá trình trao đổi chất, ở sự tái sinh ra chính mình đã dẫn đến sự xuất hiện ngày càng phong phú các giống loài mới. Trong xã hội, sự phát triển thể hiện ở sự thay thế nhau ngày càng cao hơn của các phương thức sản xuất… Như vậy, sự phát triển và đổi mới là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội và cả trong tư duy mà nguồn gốc của nó là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật và hiện tượng. Song không nên hiểu sự phát triển này lúc nào cũng diễn ra một cách đơn giản. Xét trong trường hợp cá biệt, có những vận động đi lên tuần hoàn, thậm chí đi xuống nhưng xét cả quá trình trong phạm vi rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng thống trị. Vì vậy, phép biện chứng khẳng định rằng phát triển là khuynh hướng chung của sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng. Đối với phép biện chứng, quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển, họ tuyệt đối hóa sự ổn định của sự vật hiện tượng. Nếu có phát triển thì theo họ đơn thuần đó chỉ là sự tăng lên hay giảm đi về mặt lượng, là sự tuần hoàn, lặp đi lặp lại chứ không có sự thay đổi về chất, không có sự ra đời của cái mới và nguồn gốc của chúng nằm ở bên ngoài sự vật hiện tượng. Như vậy, quan điểm biện chứng khác với quan điểm siêu hình ở chỗ: Nó xem xét quá trình phát triển như là một quá trình tiến lên thông qua những bước nhãy vọt, cái cũ mất đi, cái mới ra đời. Nó vạch ra nguồn gốc bên trong của sự vận động và phát triển, đó là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong của sự vật và hiện tượng. Từ nội dung của nguyên lý này, ta rút ra phương pháp luận là đòi hỏi con người khi nghiên cứu một sự vật hiện tượng nào đó phải có quan điểm phát triển, muốn nhận thức cái gì phải đặt nó trong trạng thái động, nằm trong khuynh hướng
  16. chung là sự phát triển. Phải tìm ra được nguồn gốc, cách thức, khuynh hướng cụ thể của sự phát triển. Nguyên lý của sự phát triển của phép biện chứng duy vật phản ánh đặc trưng biện chứng phổ quát của thế giới. Mọi sự vật hiện tượng luôn vận động, biến đổi không ngừng và về phương diện bản chất của mọi sự vận động, biến đổi của thế giới có xu hướng phát triển. Lý luận về các cặp phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy vật như là sự cụ thể hóa thêm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển. Ở đây cần phân biệt nguyên lý với các cặp phạm trù cơ bản và quy luật của phép biện chứng duy vật. Nguyên lý của phép biện chứng là quan niệm bao quát những tính chất chung nhất của thế giới. Còn các cặp phạm trù và quy luật là lý luận nghiên cứu các mối liên hệ và khuynh hướng phát triển trong thế giới của các sự vật hiện tượng và quá trình cụ thể. Chính vì thế, các cặp phạm trù và các quy luật của phép biện chứng duy vật. Nguyên lý của phép biện chứng là quan niệm bao quát những tính chất chung nhất của thế giới còn các cặp phạm trù và quy luật là lý luận nghiên cứu các mối liên hệ và khuynh hướng phát triển trong thế giới của các sự vật, hiện tượng và quá trình cụ thể. Chính vì thế, các cặp phạm trù và các quy luật của phép biện chứng duy vật cho ta phương pháp luận thực hiện quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển gắn liền với quan điểm lịch sử cụ thể trong việc nhận thức và hoạt động thực tiễn. Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử cụ thể về phương tiện vạch ra nguồn gốc động lực, cách thức và xu hướng phát triển tiến lên của các sự vật hiện tượng trên thế giới. * Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (gọi tắt là quy luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển, phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật. Mỗi sự vật là một chỉnh thể bao gồm những mặt, những yếu tố khác nhau, liên kết với nhau tạo thành. Trong đó có những mặt, những yếu tố, những khuynh hướng ngược chiều nhau gọi là những mặt đối lập cứ hai mặt đối lập thì tạo nên một mâu thuẫn những mặt đối lập này vừa thống nhất với nhau đến một mức độ nhất định và trong những điều kiện nhất định thì mâu thuẫn được giải quyết, khi đó sự vật chuyển hoá, là cho sự vật mới ra đời sẽ có những mặt đối lập mới những mâu thuẫn mới… Qúa trình thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập vừa được hình thành đến một lúc nào đó thì mâu thuẫn lại được giải quyết, sự vật lại được chuyển hoá… Như vậy, đấu tranh giữa các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của sự vật là nguồn gốc của sự phát triển. * Quy luật về lượng của sự vật thay đổi dẫn đến chất của sự vật thay đổi (hay còn gọi là quy luật lượng chất) Quy luật này chỉ ra cách thức của sự phát triển. Mỗi một sự vật là một thể thống nhất giữa chất và lượng. Trong đó chất của sự vật tương đối ổn định còn lượng của sự vật thường xuyên biến đổi hơn lượng của sự vật biến đổi. Đến một mức độ nhất định và trong những điều kiện nhất định thì chất sẽ thay đổi theo, khi đó sự vật được chuyển hoá, sự vật mới ra đời và sẽ có chất mới. Lượng mới. Lượng lại thường xuyên biến đổi để đến một lúc nào đó chất
  17. lại thay đổi theo, sự biến đổi về lượng này khác hẳng sự biến đổi của lượng cũ cả về tốc độ quy mô, khunh hướng… điều này do chất quy định. Như vậy, cách thức của sự phát triển là lượng của sự vật biến đổi dần đến chất của sự vật biến đổi và ngược lại. Đó chính là cơ sở phương pháp luận chung cho mọi cơ chế phát triển với 3 yêu cầu. - Thường xuyên và tăng cường tích luỹ về lượng để tạo điều kiện cho sự thay đổi về chất. Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí muốn đốt cháy giai đoạn. - Khi lượng được tích luỹ đến giới hạn độ, phải mạnh dạn thực hiện bước nhảy vọt cách mạng. Chống thái độ bảo thủ trì trệ. - Vận dụng linh hoạt các hình thức nhảy vọt để đẩy nhanh quá trình phát triển. - Cần phải xác định biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật hiện tượng có thể dùng các biện pháp sau: - Thay đổi các yếu tố cấu thành nên sự vật (tăng hoặc giảm về số lượng các yếu tố cấu thành…) + Giữ nguyên số lượng các yếu tố và phải thay đổi chất lượng của các yếu tố. + Cần phải thay đổi cấu trúc của sự vật hiện tượng (cách thức liên hệ giữa các yếu tố cấu thành). + Thay đổi các yếu tố cấu thành nên sự vật (tặng hoặc giảm về số lượng các yếu tố cấu thành…) + Giữ nguyên số lượng các yếu tố và phải thay đổi chất lượng của các yếu tố. + Cần phải thay đổi cấu trúc của sự vật hiện tượng (cách thức liên hệ giữa các yếu tố cấu thành). + Thay đổi mối quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác, nhất là thay đổi cơ chế của mối quan hệ. + Thay đổi chức năng của các yếu tố, của toàn bộ sự vật với tư cách là một hệ thống. + Thay đổi môi trường tồn tại của sự vật hiện tượng kể cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Và cũng cần phải xác định trong đời sống xã hội chất lượng tự nhiên và chất lượng xã hội của sự vật khi nào cần nhấn mạnh cái này hay cái kia tuỳ vào từng điều kiện cụ thể. * Quy luật phủ định của phủ định: Quy luật này chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển. Quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng không phải diễn ra theo đường thẳng mà là một đường quanh co được biểu diễn bằng đường xoáy ốc đi lên. Đây là quá trình phủ định của phủ định, trong đó cái mới ra đời thay thế cái cũ và cứ thế hết một chu kỳ sự vật lặp lại dường như cái cũ và cứ thế hết một chu kỳ sự vật lặp lại dương như cái ban đầu nhưng ở mức độ cao hơn. Đó chính là cơ sở phương pháp phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi phương pháp luận của phương pháp phủ định biện chứng. Chỉ đạo mọi phương pháp suy nghĩ và hoạt động của con người. Phủ định biện chứng đòi hỏi phải có tính kế thừa nhưng kế thừa phải có tính chọn lọc, cải tạo, phê phán, chồng kế thừa nguyên si, máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư vô đối với quá khứ.
  18. Tóm lại, có thể nói phép biện chứng duy vật là phương pháp xem xét đối tượng về nhận thức thế giới một cách khoa học với một hệ thống những nguyên lý, những quy luật, những cặp phạm trù đã phản ánh một cách cụ thể và khoa học nhật sự tồn tại cũng như quá trình vận động và phát triển của thế giới nói chung từ giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người, chỉ rõ những nguồn gốc, cách thức và khuynh hướng phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Từ đó giúp con người rút ra được những phương pháp luận quan trọng chỉ đạo mọi hoạt động nhận thức cũng như thực tiễn của con người. Như V.I.Lênin nói: “Phép biện chứng duy vật là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và phát triển”. III. Sự vận dụng cụ thể phép biện chứng duy vật trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Quá trình đổi mới trước hết phải đảm bảo quan điểm toàn diện trên 4 lĩnh vực cơ bản: Kinh tế, đời sống xã hội; chính trị và tinh thần. Trong đó lấy kinh tế làm trọng tâm. Trọng điểm. Quan điểm toàn diền đồng thời phải đi sâu vào từng lĩnh vực một, từng cơ chế một, đổi mới trọng tâm của từng lĩnh vực. Trong lĩnh vực chính trị, tập trung đổi mới hệ thống chính trị qua 3 yếu tố cơ bản: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận tổ quốc tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực tinh thần tập trung đỗi mới về văn hoá vì văn hoá là nền tảng tinh thần của đời sống xạ hội, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Kế đó là đổi mới về giáo dục vì giáo dục liên quan đến toàn bộ đời sống xã hội, liên quan đến từng cá nhân trong xã hội chính vì thế giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu do đó phải đổi mới cả về nội dung, phương hướng mục tiêu… đổi mới cả về hình thức đào tạo của các trường đặc biệt là các trường dân lập. Quan điểm phát triển: Trong quá trình đổi mới phải chấp nhận những bước lùi từ những bước lùi ấy làm cơ sở cho sự phát triển Quan đimể lịch sử cụ thể: phải tính đến từng điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, mỗi địa phương cụ thể. Quy luật mâu thuẫn: phải xác định được các mâu thuẩn trong xã hội, về bản chất là mâu thuẫn giữa các thực thể xã hội mang lợi ích trái ngược nhau. Trong khi xây dựng mâu thuẩn xã hội cần xác định mâu thuẫn cơ bản. Đó là mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới đan xen với nhau. Cái cũ mất đi nhưng chưa mất hẵn và cái mới ra đời nhưng chưa hoàn chỉnh. Cái mất đi và cái nảy sinh cũng là quá trình biện chứng mất đi có thể có sự phát triển ở một khía cạnh nào đó còn cái nảy sinh đồng thời cũng có khía cạnh thụt lùi. Đất nước ta đang thực hiện hai mục tiêu chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội theo quy luật lượng chất: tích luỹ về vốn, nguồn nhân lực, tích luỹ về trình độ nhận thức. Đảng đã đưa ra chiến lược “tiết kiệm là quốc sách hàng đầu”, phải nắm bắt thời cơ thực hiện bước nhảy kịp thời đồng thời đi tắt đón đầu một cách cải thiện. Quy luật phủ định của phủ định: loại bỏ cái lợi thời lạc hậu, tiếp thu cái tiến bộ. Về kinh tế: gạt bỏ tính chất tự phát của nền kinh tế thị trường (về mục đích) nhưng vẫn giữ lại cơ chế thị trường (về bản chất) theo định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên sự tôn trọng quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường với mục đích là nền dân chủ xã hội chũ nghĩa. Trong khi đổi mới về kinh tế gạt bỏ tính trì trệ của nền sản xuất bao cấp, không phát huy tính tích cực, sáng tạo của người lao động
  19. nhưng vẫn giữ lại tinh thần tương thân tương trợ, giữ lại kế hoạch vĩ mô dựa trên cơ sở thị trường bằng những hoạt động thực chất của người lao động dựa trên nhu cầu thực chất của xã hội.
  20. KẾT LUẬN Phép biện chứng đã xuất hiện lâu đời cùng với lịch sử phát triển của triết học. Có thể nói từ khi xã hội loài người xuất hiện và con người thể hiện khát vọng nhận thức và chinh phục thế giới thì cũng là lúc mà phép biện chứng bắt đầu phối thai ra đời. Trong quá trình hình thành tồn tại và phát triển của mình, cùng với sự hoàn thiện dần của con người về năng lực nhận thức và từ sự duy trì phép biện chứng cũng ngày càng được hoàn thiện hơn so với phép biện chứng tự phát vào thời cổ đại thì đến nay phép biện chứng đã được xây dựng trên một thế giới quan khoa học. Đó chính là phép biện chứng duy vật Mácxit thành quả to lớn và vĩ đại của Marx và Anghen. Phép biện chứng duy vật macxit có một nội dung cực kỳ phong phú và đa dạng, nó bao gồm hệ thống những nguyên lý, những quy luật và những cặp phạm trù chi phối quá trình hình thành tồn tại và phát triển của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan, từ các quy luật tự nhiên, đến các quy luật xã hội và cả hoạt động tư duy của con người. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chỉ ra rằng tất cả mọi sự vật trong thế giới khách quan đều có mối liên hệ, tác động qua lại, ràng buộc và qui định nhau, quyết định sự tồn tại và phát triển của nhau. Nguyên lý về sự vận động và phát triển chỉ ra rằng vận động và phát triển là bản chất của mọi sự vật mọi hiện tượng trong thế giới khách quan Nguyên lý đó đã chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển là quá trình đấu tranh và giải quyết các mâu thuẩn nội tại trong bản thân mỗi sự vật; cách thức của sự phát triễn là từ lượng của sự vật biến đổi dần đến chất cuảe sự vật biến đổi và khuynh hướng phát triển là phát triển theo đường tròn xoáy ốc từ dưới đi lên, đó là quá trình phủ định của phủ định. Tóm lại, phép biện chứng duy vật như Ph.Angghen đã nói là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển sâu sắc nhất, hoàn bị nhất… vì vậy, Đảng và Nhà nước ta hiện nay đã vận dụng vào công cuộc đổi mới đất nước là một quy luật tất yếu khách quan của sự phát triển.

Page 2

YOMEDIA

Tiểu luận "Phép biện chứng duy vật - Học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển" có nội dung các chương như sau: Chương 1 - phép biện chứng và những hình thức lịch sử của phép biện chứng; chương 2 - phép biện chứng duy vật – học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triễn. Mời các bạn cùng tham khảo bài tiểu luận này chi tiết hơn.

20-02-2013 2083 191

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Chủ đề