KẾT QUẢ CẦN ĐẠT - Nắm được một số quy tắc về số câu, số tiếng, vần, nhịp, thanh,... của một số thể thơ truyền thống (lục bát, song thất lục bát, ngũ ngôn và thất ngôn Đường luật), từ đó hiểu thêm về những đổi mới, sáng tạo của thơ hiện đại. - Biết lĩnh hội và phân tích thơ theo những quy tắc của luật thơ. I – KHÁI QUÁT VỀ LUẬT THƠ Show Trong đầm gì đẹp bàng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng...Vị trí hiệp vần là một yếu tố quan trọng để xác định luật thơ. Mỗi tiếng có một trong số 6 thanh điệu (thanh): ngang, huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã. Theo truyền thống, người ta phân chia các thanh có đường nét bằng (ngang và truyền) gọi là thanh bằng (B) và các thanh còn lại (sắc, nặng, hỏi, ngã) có đường nét gãy, đổi hướng là thanh trác (T). Sự luân phiên đối xứng và hài hoà của các thanh bằng, trắc tạo nên nhạc điệu thơ. Các tiếng có thanh bằng hay trắc ở những vị trí không đổi tạo chỗ ngừng, sự ngắt nhịp. Số tiếng chẵn hoặc lẻ ở vế cuối dòng thơ tạo nên nhịp thơ chẵn hoặc lẻ. Chẳng hạn, thể lục bát có nhịp chẵn 2/2..., thể ngũ ngôn có nhịp lẻ 2/3,... Như vậy, số tiếng và các đặc điểm của tiếng về cách hiệp vần, phép hài thanh, ngắt nhịp,... là các nhân tố cấu thành luật thơ. Ngoài việc căn cứ vào đặc điểm của tiếng, luật thơ ca được xác định theo số dòng thơ trong bài, quan hệ của các dòng thơ về kết cấu, về ý nghĩa. Những điều này phụ thuộc vào từng thể thơ.II – MỘT SỐ THỂ THƠ TRUYỀN THỐNG 1. Thể lục bát (còn gọi là thể sáu - tám) Ví dụ:Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.- Số tiếng: Mỗi cặp lục bát gồm hai dòng (dòng lục: 6 tiếng, dòng bát: 8 tiếng). Bài thơ lục bát là sự kế tiếp của các cặp như thế. - Vần: Hiệp vần ở tiếng thứ 6 của hai dòng và giữa tiếng thứ 8 của dòng bát với tiếng thứ 6 của dòng lục. - Nhịp: Nhịp chẵn dựa vào tiếng có thanh không đổi (tức các tiếng 2, 4, 6): - Hài thanh: Có sự đối xứng luân phiên B - T - B ở các tiếng 2, 4, 6 trong dòng thơ; đối lập âm vực trầm bổng ở tiếng thứ 6 và thứ 8 dòng bát. 2. Thể song thất lục bát (còn gọi là thể gián thất hay song thất) Ví dụ: Ngòi đầu cầu nước trong như lọc, Đường bên cầu cỏ mọc còn non. Đưa chàng lòng dặc dặc buồn, Bộ khôn bằng ngựa, thuỷ khôn bằng thuyền.- Số tiếng: Cặp song thất (7 tiếng) và cặp lục bát (6 - 8 tiếng) luân phiên kế tiếp nhau trong toàn bài. - Vần: Hiệp vần ở mỗi cập (lọc - mọc, buồn – khôn); cặp song thất có vần trắc cặp lục bát có vần bằng. Giữa cặp song thất và cặp lục bát có vần liền (non - buồn). - Nhịp: 3 /4 ở hai câu thất và 2/2/2 ở cặp lục bát. - Hài thanh: Cập song thất lấy tiếng thứ ba làm chuẩn, có thể có thanh bằng (câu thất – bằng) hoặc trắc (câu thất - trắc) nhưng không bắt buộc. Ví dụ:Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.Còn cặp lục bát thì sự đối xứng bằng - trắc chặt chẽ hơn (giống như ở thể lục bát). 3. Các thể ngũ ngôn Đường luật Gồm 2 thể chính: ngũ ngôn tứ tuyệt (5 tiếng 4 dòng) và ngũ ngôn bát cú (5 tiếng 8 dòng). Theo quan niệm phổ biến, bài thơ thuộc thể ngũ ngôn bát cú có bố cục 4 phần: đề, thực, luận, kết. Ví dụ một bài thơ ngũ ngôn bát cú: MẶT TRĂNG Vằng vặc bóng thuyền quyên Mây quang gió bốn bên Nề cho trời đất trắng Quét sạch núi sông đen Cô khuyết nhưng tròn mãi Tuy già vẫn trẻ lên Mảnh gương chung thế giới Soi rõ: một hay, hèn.- Số tiếng: 5 tiếng; số dòng: 8 dòng (thơ tứ tuyệt chỉ có 4 dòng). - Vần: 1 vần (độc vận), gieo vần cách (bên, đen, lên, hèn). - Nhịp lẻ: 2/3. - Hài thanh: Có sự luân phiên B - T hoặc niêm B - B, T - T ở tiếng thứ hai và thứ tư 4. Các thể thất ngôn Đường luật Gồm 2 thể chính: thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú. Đây là hai thể thơ có kết cấu, niêm luật chặt chẽ, được nhiều người ưa thích và đến nay vẫn được nhiều người sử dụng để sáng tác. a) Thất ngôn tứ tuyệt (còn gọi là thể tứ tuyệt hay tuyệt cú) Ví dụ:ÔNG PHỖNG ĐÁ Ông đứng làm chi đó hỡi ông? Trơ trơ như đá, vững như đồng. Đêm ngày gìn giữ cho ai đó Non nước đầy vơi có biết không?- Số tiếng: 7 tiếng; số dòng: 4 đòng. - Vần: Vần chân, độc vận, gieo vần cách (đồng – không). - Nhịp: 4/3. b) Thất ngôn bát cú Ví dụ: QUA ĐÈO NGANG Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi, tiêu vài chú, Lác đác bên sông, chợ mấy nhà. Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia. Dừng chân đứng lại, trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta.- Số tiếng: 7 tiếng; số dòng: 8 dòng (chia thành 4 phần: đề, thực, luận, kết. - Vần: Vần chân, độc vận (tà, hoa, nhà, gia, ta). - Nhịp: 4/3. - Hài thanh theo mô hình sau: Luật thơ thất ngôn bát cú rất chặt chẽ: một mặt là luật hài thanh, đối xứng giữa các tiếng 2, 4, 6 (có thể theo thể trắc hoặc theo thể bằng); mặt khác, đòi hỏi phải niêm (dính) giữa các dòng 2 – 3, 4 - 5, 6 - 7 và 1 - 8. Về bố cục, bài thơ chia thành 4 cặp: 2 dòng đầu là đề (phá đề và thừa đề) để vào bài; 2 dòng tiếp theo là thực để giải thích rõ đề; 2 đòng luận đề bàn luận; hai dòng kết đề kết bài. Như vậy, thơ Đường luật hết sức chặt chẽ, cũng vì vậy mà rất gò bó và khó diễn đạt được những cảm xúc phóng khoáng. nhịp điệu rộng mở.III – CÁC THỂ THƠ HIỆN ĐẠI Phong trào Thơ mới (1932 - 1945) đã mở đầu cho việc đổi mới thơ Việt Nam. Nhiều thể thơ hiện đại xuất hiện từ đây.Các nhà thơ trong phong trào Thơ mới đã tiếp nhận ảnh hưởng của thơ Pháp và đổi mới luật thơ cũ, “phong trào Thơ mới đã vứt đi nhiều khuôn phép xưa, song cũng nhiều khuôn phép nhân để sẽ thêm bền vững” (Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 2003). Các thể thơ Việt Nam hiện đại rất đa dạng và phong phú: năm tiếng, bảy tiếng, tám tiếng hỗn hợp, tụ do, thơ - văn xuôi,... Chúng vừa tiếp nối luật thơ trong thơ truyền thống.GHI NHỚ Trong luật thơ, tiếng là đơn vị quan trọng. Số tiếng định hình trong dòng thơ, sự phối hợp thanh điệu, sự liên kết bằng vần của tiếng, sự đối lập hay kết dính ở dòng trước vớI dòng sau, cách ngắt nhịp thơ,... đều trở thành những quy tắc của thơ ca truyền thống, đặc biệt là các thể thơ Đường luật. Thơ hiện đại đã biến đổi nhiều, tuy nhiên, nhiều trường hợp vẫn dựa trên các quy tắc trong thơ truyền thống.LUYỆN TẬP Phân biệt cách gieo vần, ngắt nhịp và hài thanh của hai câu thơ bày tiếng trong thể song thất lục bát với thể thất ngôn Đường luật qua các ví dụ sau:a) Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt, Khôi Cam Tuyền mờ mịt thức mây, Chín lần gươm báu trao tay Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh...b) CẢNH KHUYA Các thể thơ Việt Nam phổ biến nhất, đặc điểm, quy luật bằng trắc, cách gieo vần và ví dụ minh họa cho từng thể loại thơ có trong bài viết này. Các thể thơ Việt NamCác thể thơ Việt Nam trong chương trình Ngữ văn các cấp học khá phong phú. Được lồng ghép vào chương trình giảng dạy một cách khéo léo để các em học sinh tiếp cận dễ dàng nhất. Vậy đâu là những thể thơ phổ biến nhất, quy luật gieo vần, làm thơ của từng thể loại như thế nào? Bài viết sau đây sẽ giúp các em học sinh giải đáp thắc mắc này. Các thể thơ Việt Nam độc đáo trong từng câu chữ Thể thơ lục bátĐịnh nghĩa Là một trong những thể thơ lâu đời nhất của dân tộc. Thơ được đặc trưng bởi các cặp thơ gồm một câu thơ 6 chữ và một câu thơ 8 chữ, được sắp xếp nối tiếp và xen kẽ với nhau. Thông thường câu lục sẽ mở đầu bài thơ và câu bát dùng để kết bài. Một bài thơ lục bát không giới hạn số lượng câu. Thể lục bát xuất hiện nhiều nhất là ở các bài đồng dao, ca dao hay trong lời mẹ ru. Quy luật Luật bằng trắc trong thể lục bát được thể hiện như sau:
Cách gieo vần Cách gieo vần của thể thơ lục bát vô cùng linh hoạt. Có thể gieo vần bằng ở tiếng cuối câu lục, và tiếng cuối này lại hiệp vần với tiếng thứ sáu của câu bát nối tiếp. Sau đó tiếng cuối của câu bát này lại hiệp với tiếng cuối của câu lục tiếp theo… Cứ như vậy cho tới khi hết bài thơ. Ví dụ: “Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” (Truyện Kiều – Nguyễn Du) Thơ song thất lục bátĐịnh nghĩa Đây cũng là thể thơ truyền thống do dân tộc Việt Nam sáng tạo nên. Ở thể thơ này, ta sẽ thấy cấu trúc gồm hai câu 7 chữ kết hợp với một cặp lục – bát. Ở thể thơ này cũng không giới hạn số lượng câu. Quy luật Thể thơ song thất lục bát có quy luật bằng – trắc như sau:
Cách gieo vần Tiếng cuối của câu bảy chữ ở trên hiệp với tiếng thứ 5 của câu bảy chữ ở dưới. Tiếng cuối của câu bảy chữ ở dưới lại hiệp với tiếng thứ 6 của câu lục. Tiếng cuối của câu lục lại hiệp với tiếng thứ 6 của câu bát. Cứ như vậy cho tới kết thúc bài thơ. Ví dụ: “Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu. Ngàn dâu xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” (Chinh Phụ ngâm – Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm) Thơ đường luậtĐịnh nghĩa Thơ đường luật là một thể thơ cổ bắt nguồn từ Trung Quốc. Khi được du nhập vào Việt Nam, ông cha ta đã có sự kế thừa những tinh hoa của thể thơ này và kết hợp với những yếu tố thuần Việt. Quy luật Tính quy luật của thể thơ này vô cùng nghiêm ngặt và không thể bị phá vỡ. Số chữ trong một câu và số câu trong cả bài thơ sẽ quyết định quy luật của bài thơ: -Thể thất ngôn tứ tuyệt (gồm 4 câu, mỗi câu có 7 chữ) Ví dụ: “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng” (Chiều tối – Hồ Chí Minh) -Thể thất ngôn bát cú đường luật (gồm 8 câu, mỗi câu có 7 chữ): Cấu trúc là 2 câu đầu (mở đề và vào đề), câu 3 và 4 (câu thực), câu 5 và 6 (câu luận), câu 7 và 8 (câu kết) Ví dụ: “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá, đá chen hoa Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại, trời non nước Một mảnh tình riêng, ta với ta.” (Qua đèo ngang – Bà Huyện Thanh Quan) -Thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt (gồm 4 câu, mỗi câu 5 chữ) Ví dụ: Đoạt sóc Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Thái bình tu nỗ lực, Vạn cổ thử giang san. (Phò giá về kinh – Trần Quang Khải) Thể thơ bốn chữĐịnh nghĩa Là thể thơ mà mỗi câu thơ gồm 4 chữ, trong bài không giới hạn số lượng câu. Quy luật Luật bằng – trắc trong thể thơ này là: chữ thứ 2 và chữ thứ 4 có sự luân phiên T – B hoặc B – T Cách gieo vần Thể thơ bốn chữ có cách gieo vần khá linh hoạt, có thể hiệp vần chéo, vần bằng, vần liền, vần chân, vần lưng… Ví dụ: “Mùa xuân đi rồi Nhiều hoa vắng mặt Như chị hoa đào Ra đi trước nhất (Tế Hanh – Hoa cỏ) Thể thơ năm chữLà thể thơ mà mỗi câu thơ gồm 5 chữ, trong bài số câu không bị giới hạn. Quy luật bằng trắc và cách gieo vần giống với thể thơ 4 chữ ở phía trên. Ví dụ: “Trên đường hành quân xa Dừng chân bên xóm nhỏ Tiếng gà ai nhảy ổ: “Cục… cục tác cục ta” Nghe xao động nắng trưa Nghe bàn chân đỡ mỏi Nghe gọi về tuổi thơ” (Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh) Thể thơ sáu chữLà thể thơ mà tất cả các câu trong bài đều gồm 6 chữ. Có thể gieo vần ôm hoặc vần chéo. Ví dụ: “Quê hương là chùm khế ngọt Cho con trèo hái mỗi ngày Quê hương là đường đi học con về rợp bướm vàng bay” (Quê hương – Đỗ Trung Quân) Thể thơ bảy chữLà thể thơ mà mỗi câu đều gồm 7 chữ, trong bài không bị khống chế về số lượng câu. Ví dụ: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái nước song song. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; Củi một cành khô lạc mấy dòng (Tràng giang – Huy Cận) Thể thơ tám chữThể thơ có các câu gồm 8 chữ, bài thơ không giới hạn về số lượng câu. Quy luật bằng trắc: Tiếng cuối và tiếng thứ 3 có vần trắc thì tiếng thứ 5 và tiếng thứ 6 là vần bằng và ngược lại. Cách gieo vần: vần ôm, vần chéo và vần tiếp Ví dụ: Mặt trời lên! Sáng rõ rồi mẹ ạ! Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà Giặc Pháp, Mỹ còn giết người, cướp của trên đất ta Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ (Nguyễn Khoa Điềm – Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ) Thể thơ tự doLà thể thơ hiện đại, thể hiện được sự cái tôi và sự phá cách, sáng tạo của người thi sĩ. Trong một bài thơ tự do, số chữ trong câu, số câu trong một khổ và số lượng khổ thơ của toàn bài đều không bị giới hạn. Các quy luật về hiệp vần, bằng trắc cũng vô cùng linh hoạt, tùy theo cảm xúc và chủ ý của người viết. Ví dụ: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể” (Sóng – Xuân Quỳnh) Mong rằng bài viết giới thiệu về các thể thơ Việt Nam trên đây sẽ giúp bạn phân biệt một cách dễ dàng hơn các thể loại thơ với nhau và không còn gặp nhiều khó khăn khi phân tích thơ.
|