Tên gọi hà nội có từ năm nào năm 2024

Các tên gọi của Hà Nội qua các thời kì lịch sử và ý nghĩa của mỗi tên gọi

Tên chính quy ( là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong

kiến, nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra)

  1. Long Đỗ (866)

Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường, vào năm 866 đắp Thành

Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là Thần Long Đỗ. Do đó trong sử

sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.

Năm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý

định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời Kinh đô về đất An Tôn, Phủ

Thanh Hóa. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói:

“Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời Kinh đô đều gặp điều chẳng lành.

Nay đất Long Đỗ có Núi Tản Viên, có Sông Lô Nhị (tức Sông Hồng ngày

nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi”. Điều đó cho thấy Long

Đỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.

  1. Tống Bình (454 – 767)

Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tùy (581 - 618),

Đường (618 - 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc

Ninh ngày nay). Tới đời Tùy chúng mới chuyển đến Tống Bình.

  1. Đại La (767 – 1010)

Đại La hay Đại La Thành, nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc

lấy Kinh đô.

Theo kiến trúc xưa, Kinh đô thường có “Tam trùng thành quách”: Trong

cùng là Tử Cấm Thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi Vua và hoàng tộc

ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La Thành.

Năm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Đại La Thành rộng hơn và vững chãi

hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là Thành Đại La.

Trong Chiếu dời đô của Vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: “...

Huống chi Thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa

khu vực trời đất...” (Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr. 241).

  1. Thăng Long (1010 – 1397)

Theo sách Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long, năm 1397, dưới thời vua Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly nảy sinh ý định truất ngôi nhà Trần nên muốn dời đô về đất An Tôn, Phủ Thanh Hóa.

Lúc này, vị quan Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can rằng: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời đô đều gặp điềm chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có Núi Tản Viên, có sông Lô Nhị (sông Hồng ngày nay), núi cao sông sông, đất phẳng lại rộng rãi”.

Ngoài ra, cũng có truyền thuyết kể rằng vào năm 866, Cao Biền đắp thành Đại La, thấy thần nhân xuất hiện, tự xưng là Thần Long Đỗ. Vì vậy, sử sách thời đó thường gọi đất Thăng Long là Long Đỗ.

2. Cái tên này có ý nghĩa là gì?

  • Đầu rồng
  • Mắt rồng
  • Rốn rồng
  • Tim rồng

Chính xác

Long Đỗ hay Long Độ có nghĩa là “rốn rồng”. Đây cũng là tên của vị Thành hoàng đất Thăng Long. Theo quan niệm dân gian, thần núi Long Đỗ bảo hộ cho người dân Thăng Long được an cư lạc nghiệp, tránh khỏi thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh.

3. Người Hà Nội ngày nay thờ thần Long Đỗ ở ngôi đền nào?

  • Đền Bạch Mã
  • Đền Voi Phục
  • Đền Kim Liên
  • Đền Quán Thánh

Chính xác

Đền Bạch Mã hay “Bạch Mã tối linh từ” là một trong Thăng Long Tứ Trấn, trấn giữ phía Đông của kinh thành suốt hàng nghìn năm. Hiện đền Bạch Mã đang nằm tại số 76 phố Hàng Buồm, Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Đền Bạch Mã được xây dựng từ thế kỷ IX để thờ thần Long Đỗ. Đến thế kỷ X, khi đưa quân dẹp loạn, vua Đinh Tiên Hoàng đã tới đền Bạch Mã làm lễ xin thần phù hộ cho đất nước. Sau khi chiêu binh ở làng Đặng Xá (Văn Xá, Kim Bảng, Hà Nam), vua đánh đâu thắng đấy, bình định 12 sứ quân, thống nhất thiên hạ.

Trở về làng Đặng Xá, vua nằm mơ thấy vị thần hiện lên báo mộng: “Thần vâng mệnh trời, theo vua đánh giặc. Nay giặc đã yên, vua chưa lễ tạ, như thế là không đúng”. Sau khi tỉnh giấc, vua liền cho xây thêm một ngôi đền thờ Thần Linh Lang Bạch Mã ở Hà Nam, sắc phong Thượng Đẳng Phúc Thần.

Đến thời vua Đồng Khánh triều Nguyễn, triều đình lại ban sắc phong cho thần Long Đỗ là Hàm Quang Thượng Đẳng Thần.

4. Tên gọi Đông Kinh xuất hiện dưới thời đại nào?

  • Nhà Trần
  • Nhà Lê Sơ
  • Nhà Nguyễn
  • Nhà Mạc

Chính xác

Thời Lê Sơ, khi vua Lê Thái Tổ Lê Lợi mới đánh đuổi giặc Minh, vùng đất Hà Nội ngày nay được gọi với tên Đông Kinh.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa Hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi (1427), vua từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành Đông Kinh, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô tại Đông Kinh. Ngày 15, vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức thành Thăng Long. Vì đất Thanh Hóa có Tây Đô, nên gọi Thăng Long là Đông Kinh”.

5. Hà Nội mang tên gọi Bắc Thành dưới triều đại nào?

  • Nhà Tây Sơn
  • Nhà Nguyễn
  • Nhà Mạc
  • Nhà Lê trung hưng

Chính xác

Đến thời Tây Sơn, Quang Trung Hoàng đế lựa chọn đóng đô tại Phú Xuân (Huế). Lúc này, đất Thăng Long lại nằm ở phía Bắc so với kinh đô, vì vậy được gọi với tên Bắc Thành.

Tên Hà Nội có từ khi nào?

Tên gọi của Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử.

Năm 1400 Hà Nội có tên gọi là gì?

Cuối thời Trần, Hồ Quý Ly dời đô từ Thăng Long vào Tây Đô (Thanh Hóa), đổi tên Thăng Long thành Đông Đô. Năm 1400, Hồ Quý Ly lên làm vua, lập ra nhà Hồ, lấy quốc hiệu là Đại Ngu, đóng đô ở Thanh Hóa.nullThăng trầm qua các thời kỳ lịch sử - Báo Nhân Dânspecial.nhandan.vn › thangtramquacacthoikylichsunull

Năm 1397 Hà Nội có tên gọi là gì?

Đông Đô: Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" viết: "Mùa Hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Hồ Hán Thương coi phủ đô hộ là Đông Đô" (Sách “Toàn thư”, Tập I, Hà Nội 1993, tr 192).nullÝ nghĩa những tên gọi của Hà Nội qua các thời kỳ lịch sửwww.vietnamplus.vn › y-nghia-nhung-ten-goi-cua-ha-noi-qua-cac-thoi-ky...null

Hà Nội có tên gọi đầu tiên là gì?

Tên gọi Đông Kinh xuất hiện dưới thời đại nào? Thời Lê Sơ, khi vua Lê Thái Tổ Lê Lợi mới đánh đuổi giặc Minh, vùng đất Hà Nội ngày nay được gọi với tên Đông Kinh.7 thg 4, 2023nullHà Nội có tên gọi đầu tiên trong lịch sử là gì? - VietNamNetvietnamnet.vn › Giáo dục › Trắc nghiệmnull

Chủ đề