Tại sao nói hàng hóa sức lao động la hàng hóa đặc biệt

Mục lục bài viết

  • Mở đầu
  • I. Lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác.
  • II. Lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác với thị trường lao động của Việt Nam hiện nay.
  • III. Thực trạng thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay
  • IV. Vận dụng lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác với thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay
  • Kết bài

Mở đầu

Trong những năm gần đây, Việt Nam dần hội nhập với nền kinh tế thế giới, kinh tế tri thức trở thành xu hướng phát triển chung của cả thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Con người được đặt ở vị trí trung tâm nên việc phát triển thị trường hàng hóa sức lao động sao cho hợp lý là một nhu cầu cấp thiết đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Lý luận về loạihàng hóa đặc biệt – sức lao động theo chủ nghĩa Mác đã cung cấp thêm nhiều luận điểm khoa học, toàn diện và biện chứng. Trên cở sở đó, tạo lý luận tiền đề vững chắc cho việc lý giải và áp dụng vào thực tiễn xã hội những giải pháp nhằm ổn định và phát triển thị trường của loại hàng hóa đặc biệt này và các vần đề liên quan tới nó. Nhận thấy sự quan trọng của vấn đề sức lao động, em xin lựa chọn đề tài:

I. Lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác.

Sức lao động, theo C. Mác, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực ở trong thân thể, trong nhân cách một con người, thể lực và trí lực mà con người đem ra vận dụng để sản xuất ra những sản phẩm có giá trị sử dụng. Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất nhưng không phải trong bất kì điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hóa. Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hóa khi nó mang những điều kiện sau: Thứ nhất, người lao động phải được tự đo về thân thể, làm chủ sức lao động của mình, và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa. Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, họ trở thành người “vô sản”. Để tồn tại, người đó buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm sống.

Thuộc tính của hàng hóa sức lao động, cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.

Giá trị của hàng hóa sức lao động được quyết định bởi lượng thời gian lao động cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Sức lao động là khả năng lao động gắn liền với cơ thể sốn của con người. Vì vậy để duy trì sự hoạt động bình thường của con người phải cần có những tư liệu sản xuất nhất định. Do đó giá trị hàng hóa sức lao động là giá trị những tư liệu sản xuất cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Giá trị hàng hóa sức lao động gồm có: giá trị những tư liệu sản xuất về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì hoạt động sống của bản thân mỗi người công nhân; phí tổn đào tạo người công nhân để có trình độ tay nghề thích hợp; giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cho gia định người lao động. Hay nói cách khác, giá trị của hàng hóa sức lao động có đặc điểm là được quyết định một cách gián tiếp thông qua các giá trị tư liệu sản xuất ra sức lao động.

Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là công cụ của nó để thỏa mãn nhu cầu tiên dùng sức lao động của người sử dụng sức lao động. Khác với hàng hóa thông thường ( sau một thời gian tiêu dùng sẽ mất đi giá trị và giá trị sử dụng theo thời gian) thì hàng hóa sức lao động, khi được tiêu dùng, ngoài việc sản xuất ra một loại hàng hóa nào đó thì đồng thời nó cũng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Phần giá trị lớn hơn đó được gọi là giá trị thặng dư. Đây là điểm cơ bản nhất của hàng hóa sức lao động.

II. Lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác với thị trường lao động của Việt Nam hiện nay.

Thị trường lao động:

“Thị trường lao động - đólà một cơ chế hoạt động tương hỗ giữa người sử dụnglaođộngvà người lao độngtrong mộtkhông gian kinh té xác định,thể hiện những quan hệ kinh tê' và pháplýgiữa họvới nhau” ( theo nhà khoa học kinh tế NgaKostin Leonit Alecxeevich).Hay nói chi tiết hơn, thị trường lao động là tập hợp những quan hệ kinh tế, pháp lý, xuất hiện giữa người sở hữu sức lao động (người lao động) và người sử dụng nó (người thuê lao động) về vấn đề chỗ làm việc cụ thể, nơi và hàng hóa và dịch vụ sẽ được làm ra. Quá trình sử dụng sức lao động, lao động sẽ được hình thành trong sản xuất chứ không phải trên thị trường. Đối với người nắm giữ sức lao động sẽ được tạo ra cơ hội để nhận chỗ làm việc, nơi mà anh ta có thể làm việc, thể hiện khả năng, và nhận thụ nhập để tái sản xuất sức lao động của mình. Đối với người thuê lao động sẽ có cơ hội tăng lợi nhuận kinh tế.

III. Thực trạng thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay

a. Cung lao động.

Ở nước ta, lực lượng lao động rất dồi dào. Theo Tổng cục Thống kê, dân số cả nước năm 2012 khoảng 88.780.000 người, tăng 1,06% so với năm 2011, gồm: dân số nam 43.920.000 triệu người, tăng 1,09%; dân số nữ 44.860.000 người, tăng 1,04%.Việt Nam đang tiếp tục được hưởng lợi từ thời kỳ "dân số vàng". Tốc độ tăng dân số giảm dần, từ 1,16% trong năm 2002 xuống 1,03% trong năm 2012. Bên cạnh đó, lực lượng lao động tăng nhanh hơn, góp phần làm cho nguồn cung lao động dồi dào, với tỷ lệ tăng trung bình 2,6%/năm, tương đương với 1.200.000 lao động/năm. Đây là con số “mơ ước” để thúc đẩy lực lượng lao động phát triển và là nền tảng cho phát triển kinh tế trong tương lai. Cụ thể, số người trong độ tuổi lao động (từ 15 - 60 tuổi) đã tăng từ 39.394.000 người năm 1999 lên tới 53.098.000 người năm 2012, trong đó lao động nam chiếm 51,4%; lao động nữ chiếm 48,6%. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2012 là 52.114.000 người.

b. Cầu lao động

Tuy nhiên, số người trong độ tuổi lao động đông không có nghĩa là thị trường lao động Việt Nam đáp ứng đủ nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp. Bởi số lao động có tay nghề, có chất lượng của nước ta đang còn rất hạn chế. Trong tổng số 51,4 triệu lao động chỉ có gần 7,8 triệu người đã được đào tạo, chiếm 15,4%. Sự chênh lệch về chất lương nguồn lao động được thể hiện rõ nhất là ở khu vực nông thôn và thành thị. Ở thành thị lao động đã được đào tạo chiếm 30,9%, trong khi ở nông thôn chỉ có 9%. Sự chênh lệch này là quá lớn, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế chung của nước. Trong khi đó, lượng lao động từ nông thôn đến thành thị tìm việc là rất lớn.Nhưng mục đích chính của những lao động này lên thành phố không phải để học nghề, học việc mà tham gia vào các công việc mang tính chất thời vụ, buôn bán hoặc làm những công việc không đòi hỏi kinh nghiệm, tay nghề. Mức lương trả cho người lao động sẽ tuân thủ mức thối thiểu vùng theo quy định pháp luật.Mức tiền lương thấp nhất trả cho người lao động đã qua học nghề ( kể cả lao động tự dạy nghề) phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu.

Nguồn lao động dồi dào, tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta trong những năm gần đây liên tục tăng, nhưng các doanh nghiệp vẫn kêu thiếu lao động. Nguyên nhân là do lao động Việt Nam chỉ mới đáp ứng được nhu cầu về số lượng, chứ chưa đáp ứng được nhu cầu về chất lượng. Điều này không chỉ gây khó khăn cho các doanh nghiệp và còn khiến cho người lao động tự làm mất cơ hội việc làm cho bản thân. Đây cũng là nguyên nhân gây ra sự chện lệch cung – cầu về lao động tại thị trường lao động hiện nay. Lao động làm việc trong các khu vực cũng có sự chênh lệch lớn: Chỉ có 4 triệu người kiếm được việc làm tại khu vực nhà nước; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 1,67 triệu người, trong khi ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước thì có tới 40 triệu người.

IV. Vận dụng lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác với thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay

Trước thời kì đổi mới, nước ta xây dựng nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, theo đó không chấp nhận kinh tế thị trường, thị trường lao động và xóa bỏ quan hệ sản xuất hàng hóa – tiền tệ. Thị trường lao động công khai chỉ xuất hiện trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Việc sử dụng lao động mang nặng tính kế hoạch hóa tập trung. Lao động không được coi là hàng hóa đặc biệt và không được “mua bán” trên thị trường. Tuy nhiên, sau năm 1986, chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi căn bản vị trí của hàng hóa sức lao động trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên quá trình nhận thức và vận dụng ly luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác vẫn còn những giới hạn nhất định, chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chỉ nghĩa trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế. Cụ thể như: giá trị sử dụng của hàng hóa còn thấp làm giảm sự cạnh tranh của nước ta trên thị trường thế giới, giá trị của hàng hóa sức lao động chưa bao hàm hết những yếu tố đáp ứng cho yêu cầu tái sản xuất mở rộng sức lao động cho một bộ phận lớn những người làm công ăn lương, hệ thống thông tin lao động việc làm chưa được quản lý chặt chẽ, hệ thống giáo dục – đào tạo chưa đáp ứng được việc nâng cao tay nghề và chất lượng lao động cho sự nghiêp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước trong thời buổi kinh tế tri thức đang phát triển lớn mạnh.

Nhìn nhận về lý luận sức lao động của C. Mác, vận dụng vào thị trường sức lao động Việt Nam là một vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nya. Từ đó, đưa ra một số gải pháp cho thị trường lao động trong nước.

Thứ nhất: Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động phải phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế phát triển chung của nền kihn tế tri thức. Điều này đòi hởi hệ thống giáo dục cần xây dựng và phát triển nhiều hơn nữa cả về chất lượng và số lượng, nhất là về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật, về phẩm chất đạo đức, năng lực thì mới có thể tiếp cận, hướng dẫn người lao động tiếp cận với nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế.

Thứ hai: Vận dụng lý luận một cách phù hợp vào thực tế điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam. Với lợi ích của người sử dụng lao động và người lao động cần phải hài hòa, cân đối. Tránh việc làm phát sinh, gây mâu thuẫn gay gắt mà phải tạo mối quan hệ gần gũi, thân thiết, thống nhất giữa người lao động và người đi thuê lao động.

Thứ ba: Vận dụng lý luận về hàng hóa sức lao động phải gắn liền với việc hình thành đội ngũ lao động có trình độ và cơ cấu hợp lý, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phải xây dựng và phát triển nguồn nhân lực mới đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Phải biết nắm bắt sử dụng có hiệu quả những phương tiện kỹ thuật hiện đại. Đi đôi với việc đào tạo tay nghề cần quan tâm tới giáo dục phẩm chất cho người lao động, rèn luyện ý thức trách nhiệm, kỷ luật, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, trung thành với mục tiêu, lú tưởng mà Đảng và Nhà nước đề ra.

Thứ tư: Thúc đẩy sự giao dịch trên thị trường lao động băng các hình thức như phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm, tăng cường quản lý Nhà nước, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, phát triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động, hoàn thiện hệ thống pháp luật về thị trường lao động, hoàn thiện bộ máy quản lý và vận hành có hiệu quả thị trường lao động,…

Thứ năm: Bên cạnh việc nâng cao chất lượng lao động, đồng thời phải có chế độ tiền lương hợp lý, đảm bảo cho việc người lao động có thể đảm bảo cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, đáp ứng việc sản xuất va tái sản xuất sức lao động. Phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đấy nước.

Tóm lại, sự tồn tại và phát triển của hàng hóa sức lao động và thị trường lao động là một tất yếu khách quan. Việc thừa nhận sức lao động trở thành hàng hóa giúp kích thích người lao động và người sử dụng lao động có những đóng góp tích cực hơn vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.

Kết bài

Có thể nói thị trường lao động khá mới mẻ đối với Việt Nam bới lẽ việc hình thành thị trường lao động còn khá nhỏ lẻ ở những khu công nghiệp hoặc ở những thành phố lớn. Việt Nam đã gia nhập vào WTO, đây là cơ hội và cũng là thách thức lớn đối với Việt Nam. Vì vậy, để tồn tại và phát triển, trong thị trường thế giới đầy khắc nghiệt, các nhà kinh tế Việt Nam cần có những chiến lược cụ thể nhằm nâng cao sức cạnh trạnh của hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa sức lao động. Do vây, cần áp dụng triệt để lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác vào thực tế Việt Nam một cách có hiệu quả để mang lại nguồn nhân lực có chất lượng tay nghề, phẩm chất tốt để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước trong thời đại mới.

Danh mục tài liệu tham khảo

1/ Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin. Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2004.

2/ Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2013.

3/ Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 22/02/2008

4/ http://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-phan-tich-khai-niem-su-menh-lich-su-cua-giai-cap-cong-nhan-35322/

Luật MInh Khuê (Tổng hợp)