GIÁ TRỊ CỦA CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam vượt qua bao khó khăn giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đã 91 năm trôi qua, nhưng những ý nghĩa lịch sử trọng đại và giá trị chỉ đạo thực tiễn to lớn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã định hướng cho sự phát triển của đất nước và chỉ đường cho mọi hoạt động của Đảng ta, Nhân dân ta.
Ngày đăng
:
08/02/2021
Xem với cỡ chữ
Cuối thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ, các nước phương Tây đua nhau xâm chiếm thuộc địa, tìm kiếm thị trường. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Trước họa xâm lăng, nhân dân Việt Nam liên tục đấu tranh nhưng cuối cùng các cuộc khởi nghĩa đều bị thực dân Pháp đàn áp đẫm máu. Bước sang thế kỷ XX, phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam chịu sự tác động của các cuộc cách mạng tư sản, với hai khuynh hướng chủ yếu là bạo động và bất bạo động do Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh khởi xướng. Nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản cuối cùng bị thực dân Pháp đàn áp và thất bại, Việt Nam rơi vào bế tắc và khủng hoảng về đường lối cứu nước. Show Giữa lúc khó khăn đó, ngày 05 tháng 06 năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người đã bôn ba qua nhiều nước đế quốc và thuộc địa, khảo sát, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, cuối cùng Người đã bắt gặp và lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin, xác định con đường cứu nước, giải phóng dân tộc là cách mạng vô sản. Người tin theo và vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin để hoạch định con đường cách mạng Việt Nam: chuẩn bị các tiền đề để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo cơ sở về tổ chức cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người theo con đường cách mạng vô sản. Người sớm xác định rõ: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Định hướng đúng đắn đó nhanh chóng đưa tới sự phát triển của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam cuối những năm 20 của thế kỷ trước đòi hỏi phải có một Ðảng Cộng sản đảm nhiệm vai trò lãnh đạo cách mạng thay cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tháng 3-1929, những người tích cực nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kỳ đã thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên tại nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội) và thành lập Ðông Dương Cộng sản Ðảng ngày 17-6-1929. Tổng bộ Thanh niên và Kỳ bộ Nam Kỳ cũng cải tổ thành An Nam Cộng sản Ðảng vào tháng 8-1929. Ngày 1-1-1930, những đại biểu Tân Việt Cách mạng Ðảng đã ra "Tuyên đạt" chính thức lập ra Ðông Dương Cộng sản Liên đoàn. Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi thư cho những người cộng sản Ðông Dương yêu cầu các tổ chức cộng sản hợp nhất thành lập một Ðảng Cộng sản duy nhất ở Ðông Dương. Ðầu năm 1930, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu tập và chủ trì Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Ðảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Hội nghị họp tại Hương Cảng gồm đại biểu của Ðông Dương Cộng sản Ðảng (Trịnh Ðình Cửu, Nguyễn Ðức Cảnh) và An Nam Cộng sản Ðảng (Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm), Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là đại diện của Quốc tế Cộng sản. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã phân tích về vai trò, trách nhiệm của những người cộng sản trước vận mệnh dân tộc, về đòi hỏi của sự đoàn kết nhất trí của những người cộng sản Việt Nam. Các đại biểu đã nhất trí hợp nhất hai tổ chức cộng sản thành Ðảng Cộng sản Việt Nam; Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là tất yếu của lịch sử, là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, khoa học của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên cả ba mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. Hội nghị cũng đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Ðiều lệ vắn tắt của Ðảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng thể hiện cô đọng các luận điểm cách mạng cơ bản, đánh giá chính xác tính chất xã hội Việt Nam thuộc địa và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân xâm lược; xác định đường lối phát triển, chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam được thực hiện bằng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Ðảng đã nêu những vấn đề cơ bản về đường lối của cách mạng Việt Nam, là lời tuyên bố về sự lựa chọn con đường phát triển cách mạng Việt Nam của Ðảng ta khi mới ra đời. Cương lĩnh xác định chiến lược cách mạng của Ðảng là tiến hành cuộc “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cương lĩnh đã xác định rõ sự lựa chọn con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam. Ðây là cuộc cách mạng vô sản do giai cấp công nhân lãnh đạo và là cuộc cách mạng không ngừng. Luận điểm cách mạng của Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chánh cương phân tích, đánh giá khái quát những đặc điểm quan trọng nhất của kinh tế công nghiệp, nông nghiệp của nước Việt Nam thuộc địa; tính chất độc quyền khai thác thuộc địa của thực dân Pháp với những hậu quả tiêu cực cản trở sự phát triển độc lập về kinh tế của Việt Nam. Chánh cương xác định rõ phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam là tiến lên chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Về phương pháp cách mạng, về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Với Cương lĩnh chính trị đúng đắn và sáng tạo nên từ khi ra đời Đảng đã trở thành lực lượng lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình toàn thể dân tộc theo con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Vì vậy, Người đã khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”. Dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh Đảng đã dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thác nghềnh. Cho đến nay, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là ngọn cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam tiến bước trên con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc đã lựa chọn. Phạm Xuân Ngọc
Lần xem:
48213
Go top
Chân lý và sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vẫn khẳng định và tỏa sángTrong lịch sử đôi khi có những trường hợp, những phát hiện hoặc quan điểm cách mạng thật sự có tính khoa học, mới mẻ, sáng tạo, nhưng lúc mới xuất hiện, chưa được thừa nhận ngay, thậm chí còn bị quy kết là sai. Những đúng đắn, sáng tạo trong Cương lĩnh chính trị […] Trong lịch sử đôi khi có những trường hợp, những phát hiện hoặc quan điểm cách mạng thật sự có tính khoa học, mới mẻ, sáng tạo, nhưng lúc mới xuất hiện, chưa được thừa nhận ngay, thậm chí còn bị quy kết là sai. Những đúng đắn, sáng tạo trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta do Hồ Chí Minh khởi thảo chính là một trường hợp như thế. Song, cùng với niềm tin khoa học và sự kiên định cách mạng của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng, thực tiễn cách mạng nước ta đã làm sáng ngời chân lý sáng tạo trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.
Trong Hội nghị thành lập Đảng từ ngày 3-2 đến mồng 7-2-1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, với tư cách là Ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam của Quốc tế Cộng sản chủ trì Hội nghị hợp nhất các đảng cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện thông qua Hội nghị này như:Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Lời kêu gọi, tuy rất vắn tắt, nhưng tập trung đầy đủ tính khoa học, cách mạng, sáng tạo của tư duy Nguyễn Ái Quốc trong việc hoạch định những nét cơ bản về đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam. Ngày nay, các văn kiện đó được gọi làCương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta. Tuy nhiên, đó là danh hiệu tôn vinh của ngày hôm nay. Còn trong Lịch sử Đảng, chính Hội nghị thành lập Đảng và những văn kiện nói trên từng bị nhận những đánh giá, phê phán, quy kết hết sức nặng nề của một số đồng chí trong Đảng, của Hội nghị Trung ương Đảng và cả của Quốc tế Cộng sản thời kỳ 1930 – 1938. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất họp tháng 10 – 1930, thảo luận và thông qua bản dự thảo Luận cương Chính trị do đồng chí Trần Phú trình bày và thông qua nhiều nghị quyết quan trọng. Trong đó“Án nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng”đã phê phán nhiều sai lầm của Hội nghị hiệp nhất Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Một là sai lầm về tổ chức: “Lúc đầu tổ chức đảng, kế hoạch không xác đáng Hiệp hội hiệp nhất Đảng, lại không lấy một nền chính trị cộng sản làm căn bổn…”1. Hai là sai lầm về chính trị: “Vấn đề thổ địa“. Không rõ ràng và có chỗ không đúng như chia địa chủ làm đại, trung và tiểu địa chủ…Vấn đề tư bổn. Trong sách lược nói phải lợi dụng bọn tư bản mà chưa rõ mặt phản cách mạng…. “Những điều sai lầm về sách lược đó chứng tỏ ra rằng chỉ lo đến việc phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu ấy là một sự rất nguy hiểm”.2 Ba là sai lầm về Điều lệ và tên Đảng: “Trong hệ thống tổ chức của Đảng thì bỏ mất xứ bộ… gọi là “Việt Nam cộng sản Đảng” thì không gồm được Cao Miên và Lào, mà để vô sản giai cấp hai xứ ấy ra ngoài phạm vi đảng là không đúng”3. Án Nghị quyết này đi đến kết luận”: a) Thủ tiêu chánh cương sách lược và Điều lệ cũ của Đảng, lấy kinh nghiệm trong thời kỳ vừa qua mà thực hành công việc cho đúng như Án Nghị quyết và Thơ chỉ chị của quốc tế cộng sản. b) Bỏ tên “Việt Nam Cộng sản Đảng mà lấy tên” Đông Dương Cộng sản Đảng”4. Sau Hội nghị Trung ương tháng 10 – 1930, trong Thư gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc cho rằng công việc của Người chỉ như một “thùng thơ”, nên đề nghị xin đổi chỗ, vì “thùng thơ” thì người khác cũng làm được”5. Đồng chí Hà Huy Tập, trong cuốn sách“Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương”khi phê phán Cương lĩnh chính trị của Hội nghị hợp nhất đảng cho rằng: “Các văn kiện chính thức chứng tỏ rằng đường lối chính trị của Hội nghị hợp nhất và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đều sai lầm trên nhiều phương diện”6. “Sở dĩ sai lầm như vậy là vì đồng chí Nguyễn Ái Quốc và các đại biểu Hội nghị hợp nhất còn mang nặng những tàn tích của chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa sôvanh. Những danh từ mà đồng chí Nguyễn Ái Quốc dùng trong lá truyền đơn của mình: “Đồng bào…, cách mạng Việt Nam…, nếu chúng ta cứ bỏ mặc cho tất cả giống nòi Việt Nam bị quét sạch….” chứng tỏ rằng khuynh hướng sai lầm đóđã tồn tại không thể biện bạch nổi”7. Sách này do Thư viện phong trào cách mạng của Đảng Cộng sản Phân bộ của Quốc tế Cộng sản xuất bản năm 1933. Bên cạnh những hiểu lầm về những giá trị sáng tạo của Cương lĩnh chính trị đầu tiên như vậy, thì bản thân tác giả của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta cũng gặp nhiều khó khăn thử thách rất lớn. Đó là với sự phối hợp của mật thám Pháp và cảnh sát Anh, ngày 6 – 6 – 1931, cảnh sát Anh đã bắt giam Nguyễn Ái Quốc tại nhà tù Victoria ở Hồng Kông. Sau đó, nhờ có sự phối hợp giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với Hội Quốc tế cứu tế Đỏ và nhất là hoạt động của vợ chồng Luật sư Lô-dơ-bai cộng với sự năng động sáng tạo đặc biệt của mình, Nguyễn Ái Quốc được trắng án, thoát khỏi nhà tù ở Hồng Kông và trở lại Liên Xô. Mùa thu năm 1934, Nguyễn Ái Quốc được nhận vào học Trường Quốc tế Lênin niên khóa 1934 – 1935. Ngày 29 – 6 – 1935, trong thư của Trưởng phòng Đông Dương Vera Vasilieva gửi Ban Phương Đông Quốc tế cộng sản có một ý nghi ngờ: “tháng 6 – năm 1934, Nguyễn Ái Quốc đến Mát-xcơ-va. Qua lời kể của đồng chí thì khó xác định được tại sao đồng chí lại dễ dàng ra khỏi nhà tù và thoát khỏi tay cảnh sát Pháp”8. Sau đó, trong thư gửi Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Đông Dương, bà viết: “Đối với đồng chí Nguyễn Ái Quốc, chúng tôi cho rằng trong hai năm tới đây, đồng chí ấy cần phải nghiêm túc, nỗ lực học tập và không được làm một việc gì khác”9. Tháng 2 – 1936: Ban thẩm tra vụ việc Nguyễn Ái Quốc được thành lập để thẩm tra: 1-Vì sao biết Lâm Đức Thụ là kẻ phản bội mà vẫn sử dụng? 2- Vì sao Tòa án Hồng Kông chỉ kết tội nhẹ và thoát khỏi nhà tù một cách dễ dàng? 3- Bằng cách nào đến được Mát-xcơ-va? Sở dĩ xuất hiện những đánh giá không đúng về Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta như vậy là vì ảnh hưởng của đường lối tả khuynh từ Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản họp năm 1928. Đường lối đó hối thúc quần chúng cách mạng các nước tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt để giành thắng lợi cách mạng đang đến rất gần. Tinh thần của đường lối ấy được khái quát là “lấy giai cấp chống giai cấp”10. Đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ởcác nước thuộc địa, nửa thuộc địa, đường lối đó cho rằng giai cấp tư sản dân tộc không có vai trò quan trọng trong lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc, cho nên không được liên minh với giai cấp tư sản dân tộc, phú nông, không nên cường điệu khuynh hướng cách mạng của giai cấp tiểu tư sản thành thị. Sau Nguyễn Ái Quốc, các đồng chí Trần Phú, Hà Huy Tập đều là những người từng được học tập ở trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, ra trường bước vào hoạt động trong thời kỳ Đảng ta vừa mới thành lập, cũng là lúc đường lối tả khuynh của Đại hội VI Quốc tế Cộng sản đang được quán triệt đến các chi bộ và các tổ chức chịu ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản, cho nên những sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc lại bị đánh giá là sai lầm.
Trong các Văn kiện thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốcđã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam xác định rõ chủ trương “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”11. Cuộc cách mạng này đánh đổ thực dân Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, nhân dân được các quyền dân chủ, tự do, hạnh phúc. Đó chính là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xuyên suốt các chủ trương đường lối cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ta ra đời đến nay. Trong tư tưởng lớn đó, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ: xác định độc lập dân tộc là mục tiêu cốt tử, trực tiếp trước mắt, là tiền đề, điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn đầu của tiến trình cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với hai nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc và phong kiến, nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên trước hết, trên hết; nhiệm vụ dân chủ phải được thực hiện đồng thời, nhưng tiến hành từng bước, căn cứ theo tiến trình giải phóng dân tộc và nhằm hỗ trợ nhiệm vụ giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Các nhà kinh điển như Mác, Ăng ghen quan niệm lực lượng cách mạng chủ yếu là liên minh công nông. Lênin quan niệm đó là liên minh Công-Nông-Binh. Còn sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là ở chỗ quan niệm lực lượng cách mạng ở nước ta là toàn thể nhân dân. Cho nên, trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Người chủ trương Đảng không chỉ thu phục giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, mà “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”12. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên trong Đảng ta nêu ra tư tưởng cần xây dựng liên minh Công-Nông-Trí dưới sự lãnh đạo của Đảng làm nòng cốt cho lực lượng cách mạng Việt Nam bao gồm tất cả các tầng lớp nhândân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong lúc đó, dự thảo luận cương chính trị của đồng chí Trần Phú thông qua tại Hội nghị Trung ương tháng 10-1930, lại thụt lùi so với Sách lược vắn tắt trong việc đánh giá vai trò và xác định thái độ với tầng lớp trí thức: “Bọn trí thức, tiểu tư sản, học sanh,…. là bọn xu hướng quốc gia chủ nghĩa, chúng nó đại biểu quyền lợi cho tất cả giai cấp tư bổn bổn xứ, chớ không phải chỉ bênh vực quyền lợi riêng cho bọn tiểu tư sản mà thôi. Trong thời kỳ chống đế quốc chủ nghĩa thì bọn ấy cũng hăng hái tham gia, nhưng chỉ lúc đầu mà thôi; chúng nó không thể binh vực quyền lợi cho dân cày được, vì chúng nó phần nhiều có dây dướng với bọn địa chủ”13. Còn trong phong trào Xô viết Nghệ – Tĩnh 1930-1931, có nơi đã xuất hiện khẩu hiệu tả khuynh cực kỳ sai lầm: “Trí phú địa hào đào tận gốc, trốc tận rễ”. Nguyễn Ái Quốc đánh giá đúng tầm quan trọng của nhân tố dân tộc trong cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, nêu ra chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân có thể đoàn kết được, có thể tạo nên sức mạnh đánh đổ đế quốc và phong kiến. Cho nên chủ trương: “Đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”14. Chính chủ trương đúng đắn và sáng tạo đó, manh nha của tư tưởng lập Mặt trận dân tộc thống nhất ở nước ta lại bị coi là sai lầm là “chỉ lo đến việc phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu ấy là một sự rất nguy hiểm”.
Quốc tế Cộng sản do không sát tình hình Đông Dương nên ngày 27 – 10 -1929 ra Chỉ thị gửi những người cộng sản Đông Dương về việc thành lập một Đảng cộng sản ở Đông Dương. Những người thừa hành việc đổi tên Đảng thì quan niệm: “Ba xứ Việt Nam, Cao Miên, Lào, tuy thường gọi là ba nước nhưng kỳ thực chỉ thành một xứ thôi”15. Còn Nguyễn Ái Quốc quan niệm rất đúng là Việt Nam, Lào, Cămpuchia là ba quốc gia dân tộc, mỗi quốc gia dân tộc cần có một Đảng cách mạng chân chính để đoàn kết toàn dân tộc đứng lên làm cách mạng mới thành công. Điều đó là đúng với nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin. Khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cái từ Đông Dương rất rộng và theo nguyên lý chủ nghĩa Lênin, vấn đề dân tộc là một vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt buộc các dân tộc khác gia nhập Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý chủ nghĩa Lênin. Còn cái từ An Nam thì hẹp, vì An Nam chỉ là miền Trung của Việt Nam mà thôi và nước ta có 3 miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Do đó, từ Việt Nam hợp với cả ba miền và khôngtrái với nguyên lý chủ nghĩa Lênin về vấn đề dân tộc”16. Thực tiễn cách mạng đã chứng tỏ nhận định của Nguyễn Ái Quốc là hoàn toàn sáng suốt. Bởi với tên Đảng Cộng sản Đông Dương, với nhiều chủ trương đúng đắn, nhưng với chủ trương thành lập Liên bang Đông Dương vì đây chỉ là một xứ thì đã không thể thực hiện được. Cho nên, đến năm 1951, khi Đảng ta ra hoạt động công khai thì Đảng lại được đổi tên theo tinh thần Đảng ta là Đảng của Dân tộc Việt Nam.
Tổng kết thực tiễn cách mạng thế giới thời kỳ 1928-1935, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản họp từ 25-7 đến 21-8 năm 1935 đã sửa chữa và khắc phục về căn bản chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa biệt phái tả khuynh trước đây trong phong trào Cộng sản quốc tế, và có đường lối mới. Ngày nay chúng ta thấy rõ có một sự gặp gỡ giữa tư tưởng Nguyễn Ái Quốc với đường lối mới của Quốc tế cộng sản về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Có hai vấn đề đáng chú ý,một là: sự đánh giá đúng đắn nhân tố dân tộc trong cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc; chỉ rõ tính chất cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa và phụ thuộc,hai là: Đường lối thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống đế quốc và con đường tiến lên của cách mạng giải phóng dân tộc. Mặc dầu không tham dự Đại hội lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương, mặc dầu bị phê phán, bị nghi ngờ, song với sự kiên trì đường lối độc lập tự chủ, đúng đắn, sáng tạo và sự hoạt động không mệt mỏi với uy tín cao, đồng chí Nguyễn Ái Quốc vẫn được bầu là ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta và là đại diện của Đảng tại Quốc tế cộng sản. Với cương vị đó, Nguyễn Ái Quốc vẫn có những đóng góp tích cực vào đường lối và sự lãnh đạo của Đảng với cách mạng Việt Nam. Từ Hội nghị Trung ương tháng 7 – 1936, Đảng ta đã bước đầu thực hiện sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược theo tinh thần nghị quyết Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản và theo những đúng đắn, sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc. Cũng trong năm 1936, Ban thẩm tra vụ việc Nguyễn Ái Quốc ở Quốc tế cộng sản gồm các đồng chí: Cônxinna, Hải An và Krapxki nhóm họp và đi đến những kết luận chính như sau :
Ngày 6 – 6 – 1938, dự kiến những biến đổi tình hình thế giới và trong nước khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, Nguyễn Ái Quốc viết thư cho một đồng chí trong Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản đề nghị cho được về nước hoạt động. Bà Vasilieva người có quá trình theo dõi và công tác lâu năm với Nguyễn Ái Quốc lúc này đã hiểu biết rất rõ về uy tín và tài năng của Nguyễn Ái Quốc, nên có thư gửi Ban bí thư Quốc tế cộng sản rằng: “Đồng chí Lin (tức Nguyễn Ái Quốc) là ủy viên Ban chấp hành Trung ương, là người có uy tín lớn trong Đảng Cộng sản Đông Dương, nay từ đây về thì Đảng sẽ chăm chú lắng nghe những ý kiến của đồng chí ấy”17. Đề nghị được chấp thuận. Ngày 29 – 9 – 1938, Nguyễn Ái Quốc rời viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, bỏ lại bản luận án đang viết dở, bắt đầu một hành trình hoạt động ở Trung Quốc trước khi trở về Tổ Quốc, ngày 28-1-194. Từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, với tư cách đại diện Quốc tế Cộng sản Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Chính thức từ Hội nghị này, tư tưởng Hồ Chí Minh và nhất là những đúng đắn, sáng tạo trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta được khẳng định, bổ sung, phát triển trực tiếp thành đường lối cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn việt gian đặng cứu lấy giống nòi ra khỏi nước sâu lửa nóng”18. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 của Đảng ta nhấn mạnh một cách hùng hồn tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”19. Những quan niệm giáo điều tả khuynh về đấu tranh giai cấp từng xuất hiện trước đó được khắc phục. Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh xuyên suốt trong mọi chủ trương chính sách của Đảng. Chủ trương thành lập Liên bang cộng hòa dân chủ Đông Dương được thay bằng chủ trương thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày 19 – 5 – 1941, Hồ Chí Minh sáng lập Mặt trận Việt Minh. Ngày 22 – 12 – 1944, Hồ Chí Minh sáng lập Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 8-1945, chớp đúng thời cơ, Hồ Chí Minh kêu gọi tổng khởi nghĩa giành chính quyền.Tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển và toả sáng trong thực tiễn. Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Đảng ta, nhân dân ta làmcách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, mở ra thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Ngày 2 – 9 – 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọcTuyên ngôn độc lập, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu tiên ở vùng Đông Nam Á. Một trong những mục tiêu cơ bản nhất trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta do Hồ Chí Minh khởi thảo trở thành hiện thực. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mới là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh trong lịch sử cách mạng Việt Nam. 1- Gian khó và thử thách lớn càng làm sáng tỏ phẩm chất người anh hùng của dân tộc, một danh nhân văn hóa kiệt xuất; làm sáng tỏ Hồ Chí Minh – Một người đại nhân, đại trí, đại dũng. 2- Chân lý và sáng tạo lớn trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được khẳng định: nhiệm vụ phản đế, giành độc lập dân tộc là cốt tử, đầu tiên, tiền đề để tiến tới chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ đấu tranh giai cấp, giành dân chủ phải thực hiện từng bước phục vụ cho giành độc lập dân tộc và tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. 3- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công-nông -trí không chỉ là sách lược chính trị mà còn là chiến lược lâu dài quyết định thắng lợi của công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc ta./. N.T.T
Các cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt NamTừ ngày thành lập đến nay, dưới những hình thức và tên gọi khác nhau, Ðảng ta đã năm lần ban hành cương lĩnh hoặc những văn bản có tính cương lĩnh. Mỗi cương lĩnh đều chứa đựng những giá trị nội dung, ý nghĩa lớn lao riêng và có vai trò lịch sử trọng đại đối với vận mệnh của dân tộc ta.
* Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt (tháng 2 năm 1930) Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Ðảng (tháng 2/1930) thảo luận, thông qua. Tuy ngắn gọn, chỉ có 282 chữ, nhưng Chánh cương đã xác định rõ ràng nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Chánh cương chỉ rõ, về chính trị: Ðánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và chế độ phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông. Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu hết các sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu ruộng đất của tư bản Pháp và đại địa chủ để làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang phát triển công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ. Về xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, thực hiện phổ thông giáo dục theo công nông hóa. Cùng với Chánh cương vắn tắt, Bác còn soạn thảo và được Hội nghị thành lập Ðảng thông qua Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt, Ðiều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Ðảng. Tất cả những tài liệu này đã trở thành những văn kiện quan trọng có tính kinh điển của Ðảng ta, xác lập đường lối chiến lược, sách lược cơ bản của cách mạng Việt Nam và tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ðảng Cộng sản Việt Nam. * Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10 năm 1930) Tháng 10/1930, sau 8 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời có ý nghĩa như một Đại hội cũng tổ chức tại Hương Cảng do điều kiện trong nước bị đế quốc đàn áp khủng bố gắt gao phong trào cách mạng. Hội nghị (họp từ ngày 14/10 đến 31/10/1930) thông qua bản Luận cương chánh trị, án nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, Điều lệ Đảng, hợp thành nội dung Cương lĩnh thứ hai của Đảng.
Luận cương chánh trị của Ðảng Cộng sản Ðông Dương (còn được gọi là Luận cương cách mạng tư sản dân quyền) do đồng chí Trần Phú khởi thảo. Toàn bộ nội dung Luận cương chánh trị của Ðảng Cộng sản Ðông Dương là những tư tưởng cơ bản về mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp đấu tranh cách mạng của Ðảng Cộng sản Ðông Dương; tiếp tục khẳng định và bổ sung một số vấn đề cốt lõi về con đường cách mạng của Việt Nam mà Chánh cương vắn tắt đã nêu. Luận cương nhận định, nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ, lập ra chính phủ công nông, tịch thu ruộng đất của địa chủ trao cho nông dân; bãi bỏ các sưu thuế hiện thời, ngày làm công 8 giờ, cải thiện sinh hoạt cho thợ thuyền và những người lao động; xứ Ðông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết; lập quân đội công nông; ủng hộ Liên Xô, liên kết với giai cấp công nhân thế giới và phong trào cách mạng thuộc địa, bán thuộc địa... Phương pháp đấu tranh của quần chúng là bãi công, bãi công thị oai, bãi công võ trang, tổng bãi công bạo động; kết hợp đòi quyền lợi hằng ngày như tăng tiền lương, bớt giờ làm, giảm thuế, chống thuế... với mục đích lớn của Ðảng là đánh đổ đế quốc, địa chủ phong kiến, giành độc lập, lập chính phủ công nông. Về vai trò lãnh đạo của Ðảng, Luận cương chỉ rõ: Ðiều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Ðông Dương là cần phải có một đảng cộng sản có đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Ðảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc, đại biểu cho quyền lợi chính và lâu dài cho cả giai cấp vô sản, lãnh đạo tranh đấu để đạt mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. * Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (tháng 2 năm 1951) Chính cương Ðảng Lao động Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ đạo soạn thảo và được Ðại hội II của Ðảng (tháng 2 năm 1951) thảo luận, thông qua. Chính cương chỉ rõ: trước khi thuộc Pháp, xã hội Việt Nam căn bản là một xã hội phong kiến, nông dân là giai cấp bị bóc lột nặng nề nhất. Từ khi thuộc Pháp, Việt Nam là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến; giai cấp công nhân Việt Nam hình thành và trưởng thành nhanh; tư bản Việt Nam ra đời nhưng bị tư bản độc quyền Pháp đè nén nên không phát triển được. Khi Nhật xâm chiếm Việt Nam, chế độ thuộc địa của Pháp ở Việt Nam cũng trở nên phát-xít hóa, làm cho nhân dân Việt Nam càng thống khổ hơn. Vì vậy, nhiệm vụ căn bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập thống nhất thật sự cho đất nước, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Ðộng lực của cách mạng Việt Nam lúc này là công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc, những thân sĩ yêu nước và tiến bộ; trong đó nền tảng là công nhân, nông dân, trí thức; lực lượng lãnh đạo là giai cấp công nhân. Từ đó Chính cương khẳng định: cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội. Ðây là một cuộc đấu tranh lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trọng tâm, trước mắt là phải tập trung sức hoàn thành giải phóng dân tộc. Về chính sách của Ðảng, Chính cương chỉ rõ: hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xóa bỏ phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách kháng chiến là thực hiện một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, trường kỳ, kháng chiến đến cùng để giành độc lập thống nhất cho Tổ quốc. Xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân, trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo. Chính cương còn nêu những quan điểm cơ bản về xây dựng quân đội, phát triển kinh tế tài chính, cải cách ruộng đất, phát triển văn hóa giáo dục, chính sách đối với tôn giáo, chính sách dân tộc, chính sách đối với vùng tạm chiếm, chính sách ngoại giao, chính sách đối với Việt kiều... Về ngoại giao, Chính cương khẳng định nguyên tắc "tôn trọng độc lập, chủ quyền lãnh thổ, thống nhất quốc gia của nhau và cùng nhau bảo vệ hòa bình, dân chủ thế giới, chống bọn gây chiến"; mở rộng ngoại giao nhân dân, giao thiệp thân thiện với Chính phủ nước nào tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, đặt quan hệ ngoại giao với các nước đó theo nguyên tắc tự do, bình đẳng và có lợi cho cả hai bên, đấu tranh cho hòa bình thế giới. * Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (tháng 6 năm 1991) Sau khi đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước đi lên CNXH, dưới sự lãnh đạo của Đảng, một lần nữa, nhân dân ta lại vượt qua thử thách hiểm nghèo. Mô hình xây dựng CNXH kiểu cũ bị sụp đổ tại trung tâm của hệ thống XHCN. Chế độ chính trị ở Liên Xô, các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ. Là một quốc gia chưa phát triển, lại vừa trải qua 30 năm chiến tranh, bị bao vây cấm vận, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện công cuộc đổi mới mở đầu từ Đại hội VI, năm 1986. Tại Đại hội VII, lần đầu tiên, Đảng ta đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong điều kiện hòa bình. Đó là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” năm 1991 (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh chỉ rõ mục tiêu và đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng, đó là một xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Cương lĩnh cũng xác định, quá độ lên CNXH ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Thực hiện Cương lĩnh, Đảng và nhân dân ta một mặt kiên trì mục tiêu và các nguyên tắc của CNXH, mặt khác chuyển đổi mô hình xây dựng đất nước từ mô hình cũ với Nhà nước “chuyên chính vô sản”, “kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp” sang mô hình mới về CNXH. Về chế độ chính trị, đó là chế độ do “nhân dân lao động làm chủ”; về kinh tế, đó là nền “kinh tế hàng hóa nhiều thành phần”… * Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) Tại Đại hội XI, năm 2011, một lần nữa, Đảng ta điều chỉnh Cương lĩnh 1991. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) được xây dựng trên cơ sở tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, trực tiếp là tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 25 năm công cuộc đổi mới, dự báo xu thế phát triển của thế giới, của đất nước, đề ra mục tiêu, phương hướng và những định hướng lớn phát triển đất nước trong thập niên thứ hai của thế kỷ XX với tầm nhìn đến giữa thế kỷ. Thực tiễn 10 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn và giá trị to lớn, toàn diện về tư tưởng, lý luận, thực tiễn của Cương lĩnh 2011. Cương lĩnh 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ tiếp tục khẳng định con đường XHCN, mà đưa vào văn kiện này những nội dung mới phù hợp với những xu thế lớn của thời đại. Đó là xu thế “hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển”, đồng thời, Cương lĩnh cũng chỉ ra những thách thức đang diễn ra gay gắt trên thế giới và khu vực. Đó là “… chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang… hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế”. Theo thời gian và tiến trình lịch sử, mỗi Cương lĩnh của Đảng chứa đựng những giá trị nội dung và ý nghĩa lớn lao riêng. Các Cương lĩnh năm 1930 đã đưa đến ba cao trào cách mạng trong những năm 30, 40 thế kỷ trước và thắng lợi huy hoàng của Cách mạng Tháng Tám 1945; đồng thời là cơ sở cho Đảng ta đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh chống thực dân Pháp xâm lược. Cương lĩnh năm 1951 định hướng cho quyết tâm đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng miền Bắc XHCN, tạo tiền đề cho Đại hội III (9/1960) của Đảng đề ra đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược tập trung kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam diễn ra suốt từ sau Hiệp định Giơnevơ (7/1954) đến năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng quá độ lên CNXH. Cương lĩnh năm 1991 là bước phát triển, hoàn chỉnh các Cương lĩnh trước đó của Đảng, mở đầu cho quá trình nhận thức đầy đủ hơn, ngày càng rõ ràng hơn về CNXH và xây dựng xã hội XHCN Việt Nam. Cương lĩnh 2011 thể hiện niềm tin vững chắc của Đảng trên cơ sở khoa học, thực tiễn về mục tiêu, con đường đi lên CNXH. Niềm tin của Đảng tạo thành niềm tin của đại đa số cán bộ, đảng viên, nhân dân; khắc phục cơ bản sự mơ hồ về sự thay đổi bản chất và tiền đồ của chủ nghĩa tư bản, sự dao động, hoài nghi về tương lai của CNXH. Đây là cơ sở quan trọng góp phần củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận xã hội. Những điểm chung trong các Cương lĩnh của Đảng là tư tưởng nhất quán về cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đến cách mạng XHCN, độc lập dân tộc gắn với CNXH; nhân dân là động lực cách mạng; Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng; Nhà nước, Chính phủ, quân đội của nhân dân; xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./. Theo TTXVN
Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945(ĐCSVN) - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta. Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn. Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết). 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9]. Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ (5/1936). Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12]. Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15]. PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW |