Lựa chọn và sử dụng kháng sinhChỉ nên sử dụng kháng sinh nếu có bằng chứng lâm sàng hoặc xét nghiệm cho thấy nhiễm khuẩn. Sử dụng cho bệnh virus hoặc sốt không phân biệt là không phù hợp trong hầu hết các trường hợp; nó gây ra tác dụng phụ của thuốc mà không mang lại lợi ích gì và góp phần làm vi khuẩn kháng thuốc. Một số bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn (ví dụ, áp xe, nhiễm trùng với người nước ngoài) cần can thiệp phẫu thuật và không đáp ứng với kháng sinh một mình. Phổ kháng khuẩnCấy máu và kháng sinh đồ rất quan trọng trong việc lực chọn thuốc cho các trường hợp nhiễm khuẩn nặng Tuy nhiên, điều trị thường phải bắt đầu trước khi có kết quả nuôi cấy, cần phải lựa chọn theo các mầm bệnh có khả năng xảy ra nhất (lựa chọn kháng sinh theo kinh nghiệm). Cho dù được lựa chọn theo kết quả nuôi cấy hay không, những loại thuốc có phổ kháng khuẩn hẹp nhất có thể kiểm soát được nhiễm trùng nên được sử dụng. Để điều trị theo kinh nghiệm các trường hợp nhiễm trùng nghiêm trọng có thể liên quan đến bất kỳ một trong số các mầm bệnh (ví dụ như sốt ở bệnh nhân giảm bạch cầu) hoặc có thể là do nhiều mầm bệnh (ví dụ đa nhiễm trùng vi khuẩn kị khí) cần phải có một kháng sinh phổ rộng. Các mầm bệnh có khả năng xảy ra nhiều nhất và tính nhạy cảm với kháng sinh thay đổi tùy theo vị trí địa lý (trong các thành phố hoặc ngay cả trong bệnh viện) và có thể thay đổi từ tháng này sang tháng khác. Đối với những trường hợp nhiễm trùng nghiêm trọng, phối hợp kháng sinh thường cần thiết vì có thể có nhiều loài vi khuẩn hoặc do tác dụng hiệp đồng chống lại một loại vi khuẩn đơn lẻ. Tính hiệp đồng thường được định nghĩa là một hành động diệt khuẩn nhanh hơn và đầy đủ hơn từ sự kết hợp của kháng sinh hơn là chỉ xảy ra với một trong hai loại kháng sinh. Một ví dụ phổ biến là một kháng sinh có hoạt tính lên thành tế bào (ví dụ, một βlactam, vancomycin) cộng với một aminoglycosid. Tính hiệu quảTrong lâm sàng hiệu quả kháng sinh phụ thuộc nhiều yếu tố bao gồm
Kháng sinh diệt vi khuẩn. Thuốc kháng vi khuẩn sẽ làm chậm hoặc ngừng sự phát triển của vi khuẩn trong ống nghiệm. Những định nghĩa này không tuyệt đối; thuốc diệt khuẩn có thể giết chết một số loài vi khuẩn nhạy cảm, và các loại thuốc diệt khuẩn chỉ có thể ức chế sự phát triển của một số loài vi khuẩn nhạy cảm. Các kháng sinh diệt khuẩn có thể được cân nhắc hơn cho những bệnh nhân có nhiễm trùng làm suy yếu hệ miễn dịch tại cơ quan đó (ví dụ, viêm màng não, viêm nội tâm mạc) hoặc những người bị suy giảm miễn dịch (ví dụ như giảm bạch cầu trung tính). Các phương pháp định lượng chính xác hơn xác định nồng độ in vitro tối thiểu mà kháng sinh có thể ức chế sự tăng trưởng (nồng độ ức chế tối thiểu, hay MIC) hoặc giết chết vi khuẩn (nồng độ diệt khuẩn tối thiểu hay MBC). Thuốc kháng sinh có hoạt tính diệt khuẩn rất quan trọng nếu cơ chế bảo vệ cơ thể bị khiếm khuyết ở cơ quan nhiễm trùng (ví dụ như trong viêm màng não hoặc viêm nội tâm mạc) hoặc có hệ thống (ví dụ ở những bệnh nhân giảm bạch cầu trung tính hoặc suy giảm miễn dịch theo cách khác). Các yếu tố quyết định chủ yếu của đáp ứng vi khuẩn đối với kháng sinh là
β-Lactam và vancomycin có hoạt tính diệt khuẩn theo thời gian. Tăng nồng độ của chúng trên MIC không làm tăng hoạt tính diệt khuẩn, và việc giết chết cơ thể của chúng nói chung chậm. Ngoài ra, vì không có hoặc rất ngắn ức chế sự phát triển của vi khuẩn sau khi nồng độ giảm xuống dưới MIC (tác dụng hậu kháng sinh, hay PAE), β-lactam thường có hiệu quả nhất khi nồng độ thuốc trong huyết thanh (thuốc không liên quan đến protein huyết thanh) cao hơn MIC ≥ 50% thời gian. Bởi vì ceftriaxone có thời gian bán thải huyết thanh dài, nồng độ tự do tự miễn dịch vượt quá MIC của các mầm bệnh rất dễ bị nhiễm bệnh trong suốt khoảng thời gian dùng 24 giờ. Tuy nhiên, đối với βlactam có thời gian bán hủy huyết thanh ≤ 2 giờ, cần phải dùng liều thường xuyên hoặc tiêm truyền liên tục. Đối với vancomycin, nồng độ đáy được duy trì ít nhất là từ 15 đến 20 μg / mL. Aminoglycosides, fluoroquinolones và daptomycin có hoạt tính diệt khuẩn phụ thuộc vào nồng độ. Tăng nồng độ của chúng từ các mức hơi cao hơn MIC đến các mức cao hơn MIC làm tăng tỷ lệ hoạt động diệt khuẩn và làm giảm tải lượng vi khuẩn. Ngoài ra, nếu nồng độ vượt quá MIC thậm chí một thời gian ngắn, aminoglycosides và fluoroquinolones có PAE trên vi khuẩn còn lại; thời gian PAE cũng phụ thuộc vào nồng độ. Nếu PAE dài, mức độ thuốc có thể thấp hơn MIC trong thời gian dài mà không làm giảm hiệu quả, cho phép dùng ít thường xuyên hơn. Do đó, aminoglycosides và fluoroquinolones thường có hiệu quả nhất như boluses không liên tục mà đạt đến mức độ huyết thanh miễn phí cao điểm ≥ 10 lần MIC của vi khuẩn; thông thường, mức đáy không quan trọng. Đường dùngĐối với nhiều loại thuốc kháng sinh, dùng đường uống sẽ dẫn đến lượng thuốc điều trị gần như nhanh như dùng đường tiêm tĩnh mạch. Tuy nhiên, tiêm tĩnh mạch được ưu tiên trong những trường hợp sau:
Đối tượng đặc biệtCó thể cần phải điều chỉnh liều lượng và thời gian điều trị kháng sinh cho những đối tượng sau
Mang thai và cho con bú ảnh hưởng đến việc lựa chọn kháng sinh. Penicillin, cephalosporin, và erythromycin là những kháng sinh an toàn nhất trong thai kỳ; tetracyclines là chống chỉ định. Hầu hết các kháng sinh đều đạt được nồng độ đủ trong sữa mẹ để ảnh hưởng đến em bé bú sữa mẹ, đôi khi chống chỉ định của chúng đối với những phụ nữ đang cho con bú sữa mẹ. Thời lượngKháng sinh nên được tiếp tục cho đến khi các bằng chứng khách quan về nhiễm trùng hệ thống (ví dụ: sốt, triệu chứng, các kết quả xét nghiệm bất thường) hết trong nhiều ngày. Đối với một số trường hợp nhiễm trùng (ví dụ viêm nội tâm mạc, lao, viêm tủy xương), kháng sinh vẫn tiếp tục trong vài tuần hoặc vài tháng để tránh tái phát. Biến chứngCác biến chứng của điều trị kháng sinh bao gồm nhiễm trùng nặng do các vi khuẩn kém nhạy hoặc nhiếm nấm và các tác dụng phụ lên da, thận, huyết động và đường tiêu hoá Các tác dụng bất lợi thường đòi hỏi phải ngừng thuốc gây ra và thay thế một kháng sinh khác mà vi khuẩn có thể bị nhiễm; đôi khi, không có sự lựa chọn thay thế nào. 1. Lợi ích của việc sử dụng thuốc đúng liều lượngNếu muốn đảm bảo sức khỏe và hiệu quả điều trị, chúng ta không nên lạm dụng thuốc. Việc sử dụng thuốckháng sinhđúng liều lượng đem lại những lợi ích to lớn, đầu tiên đó là giữ tính hiệu quả, công dụng vốn có của thuốc kháng sinh. Nhờ vậy, bạn ngăn ngừa, hạn chế nguy cơ bị kháng kháng sinh. Đồng thời, việc tuân thủ phác đồ điều trị bác sĩ đưa ra giúp chúng ta tránh khỏi một số tác dụng phụ không mong muốn trong suốt quá trình điều trị bệnh. 1. Tìm hiểu về thuốc kháng sinhNhững thông tin về thuốc kháng sinh sau đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về loại thuốc khá quen thuộc này. Như thế nào được gọi là kháng sinh?Kháng sinh là những chất có khả năng kháng khuẩn, có nguồn gốc từ các chủng vi sinh vật như: nấm, vi khuẩn, Actinomycetes. Kháng sinh được sử dụng để ức chế, kìm hãm sự phát triển và tiêu diệt các vi sinh vật khác một cách toàn diện. Ngày nay, kháng sinh còn được tạo ra bằng các biện pháp tổng hợp hoặc bán tổng hợp từ các chất hóa học. Các loại thuốc kháng sinh với công dụng chính chống khuẩn và nấm dễ dàng tìm mua nhiều ở nhà thuốc Thuốc kháng sinh là gì?Thuốc kháng sinh là các loại thuốc có tác dụng tiêu diệt các loại vi khuẩn gây nên các bệnh lý nhiễm trùng hay được kết hợp trong việc điều trị một số loại bệnh khác. Các loại thuốc kháng sinh được chế xuất dưới dạng thuốc uống viên nén, dạng lỏng được truyền hoặc tiêm vào cơ thể. Tùy theo nhu cầu của người bệnh để lựa chọn các loại thuốc sử dụng mang đến hiệu quả . |