Tại sao các tổ chức tài chính chấp nhận thế chấp dưới chuẩn

Khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ (sub-prime) đã và đang gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế Mỹ, tạo ra các khoản lỗ lên tới hàng trăm tỷ USD cho các ngân hàng đầu tư lớn trên thế giới.

Kết quả kinh doanh của các ngân hàng đầu tư lớn tại phố Wall được công bố trong những tháng đầu năm 2008 lần lượt cho thấy các khoản tổn thất khổng lồ (write-down) trong năm 2007. Dự kiến ảnh hưởng của cơn bão tín dụng nợ dưới chuẩn sẽ còn tiếp tục trong năm 2008.Để giúp bạn đọc có một cái nhìn tương đối về bản chất của vấn đề nợ dưới chuẩn, người viết xin trình bày một cách tổng thể nguyên nhân, cách thức và hậu quả của cuộc khủng hoảng tín dụng này.

Nợ dưới chuẩn là gì?

Nợ dưới chuẩn được hiểu là các khoản cho vay các đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo, không có công ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng không tốt trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn chỉ dành cho những đối tượng trên chuẩn. Chính vì vậy, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song bù lại có mức lãi suất cũng rất hấp dẫn. Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được thực hiện đối với các sản phẩm cho vay thế chấp mua nhà (mortgage), thế chấp mua trả góp ô tô, thẻ tín dụng... Các đối tượng tín dụng dưới chuẩn phần nhiều là dân nhập cư vào Mỹ.

Nguyên ngân khủng hoảng

Sự bùng nổ của cho vay nợ dưới chuẩn bắt nguồn sâu xa từ sự bất cân đối về nguồn vốn tín dụng toàn cầu trong những năm gần đây. Trong khi nguồn vốn tín dụng gia tăng từ các chính sách tiền tệ mở thì nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp sau các bê bối tài chính tại Mỹ như Enron, Worldcom và khủng hoảng các công ty công nghệ thông tin từ năm 2001 lại suy giảm. Các chính phủ cũng ngày càng kiểm soát thâm hụt ngân sách để tránh việc vay nguồn vốn bên ngoài. Sự bất cân đối cung cầu về vốn dẫn đến việc thừa các nguồn vốn mà thị trường không sử dụng hiệu quả. Cho vay nợ dưới chuẩn là một giải pháp để giải quyết bài toán thừa vốn nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Việc cho vay nợ dưới chuẩn một cách thái quá trong một thời gian ngắn dẫn đến việc mất kiểm soát chất lượng tín dụng, chính là nguyên nhân tạo nên cuộc khủng hoảng tín dụng 2007.

Cách thức tạo khủng hoảng

Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn được thực hiện thông qua một công cụ tàichính hiện đại rất khá tinh vi được gọi là nghiệp vụ chứng khoán hóa(securitisation). Chứng khoán hóa có lịch sử phát triển từ năm 1977 tạiMỹ song thực sự phát triển mạnh từ thập kỷ 90. Về bản chất, chứng khoán hóa là một quá trình huy động vốn bằng cách sửdụng các tài sản sẵn có trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảocho việc phát hành các loại chứng khoán nợ. Nói một cách khác, chứngkhoán hóa là quá trình phát hành chứng khoán nợ trên cơ sở đảm bảo bởidòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản tài chính sẵncó. Do đó, các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ chấp nhận rủi ro liên quantới danh mục tài sản đảm bảo được đem ra chứng khoán hóa. Ngày nay, các tài sản tài chính có thể dùng để chứng khoán hóa rất đadạng bao gồm các khoản cho vay thế chấp mua nhà, các khoản cho vaythương mại, các khoản phải thu thương mại, danh mục các khoản cho vaythẻ tín dụng, danh mục nợ dưới chuẩn, các trái phiếu hạng đầu cơ(high-yield bond) hay các khoản cho vay bất động sản thương mại. Như vậy với nghiệp vụ chứng khoán hóa, người cho vay không nhất thiếtphải nắm giữ rủi ro tín dụng mà có thể chuyển hóa sang cho người khácmột cách dễ dàng thông qua việc phát hành chứng khoán nợ lấy danh mụctín dụng làm tài sản đảm bảo. Chính điều này là cơ sở để các ngân hàngđầu tư đã tự tin bơm vốn vào hoạt động cho vay nợ dưới chuẩn một cáchdễ dàng. Quá trình này được thực hiện một cách cơ bản như sau: Trước tiên, ngân hàng đầu tư tạm ứng nguồn vốn cho các công ty tàichính chuyên về cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn. Các công ty tàichính thực hiện cho vay mua nhà thông qua mạng lưới các đại lý cho vay.Các đại lý cho vay là người làm việc trực tiếp với khách hàng, thẩmđịnh tín dụng theo các mẫu hồ sơ chuẩn của công ty tài chính và chuyểnhồ sơ cho công ty tài chính phê duyệt. Sau khi phê duyệt, công ty tàichính sẽ làm thủ tục thế chấp nhà đất và tiến hành giải ngân. Các công ty tài chính sẽ gom các khoản cho vay lại thành một danh mụctín dụng gồm nhiều khoản vay và bán lại cho ngân hàng đầu tư mà thựcchất là thanh toán số tiền ngân hàng đầu tư đã cung ứng trước cho côngty tài chính. Sau khi đã mua danh mục tín dụng dưới chuẩn, các ngân hàng đầu tư thựchiện chứng khoán hóa chúng. Danh mục tín dụng được bán sang cho mộtcông ty có mục đích đặc biệt (special purpose vehicle) do ngân hàng đầutư lập lên và công ty này phát hành chứng khoán nợ cho nhà đầu tư. Công ty đặc biệt này không có vốn, không có nhân viên mà chỉ có tài sảnlà danh mục cho vay và công nợ là các trái phiếu phát hành. Tất cả cáchoạt động như theo dõi, thu đòi nợ và thanh toán gốc, lãi trái phiếuđều được thuê ngoài cho công ty dịch vụ (thường chính là công ty tàichính thực hiện cho vay). Trong điều kiện lý tưởng, khi các danh mụccho vay được thu hồi toàn bộ và thanh toán hết nợ trái phiếu cho nhàđầu tư thì công ty đặc biệt này hoàn thành nhiệm vụ và được giải thể. Chứng khoán nợ phát hành tạm gọi là trái phiếu được đảm bảo bởi danhmục cho vay thế chấp mua nhà (mortgage backed obligations). Trái phiếuđược phân ra thành nhiều gói (tranche) được định mức tín nhiệm với cáchệ số khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau và cuống lãi suất khácnhau, ví dụ gói A, gói B và gói Z. Gói A với hệ số tín dụng cao nhất được thanh toán toàn bộ gốc đầu tiên.Sau khi thanh toán hết gốc của gói A, sẽ đến lượt gói B và cuối cùng làgói Z. Gói Z là gói đặc biệt không được định mức tín nhiệm, có mức độrủi ro tín dụng cao nhất do đó có tính chất như cổ phiếu. Nếu danh mụctín dụng hoạt động tốt, gói Z sẽ hưởng nhiều lợi nhuận nhất và ngượclại. Nguyên tắc phân chia dòng tiền cho các trái chủ được gọi là nguyêntắc thác nước tức là nước chảy từ trên xuống dưới. Như vậy các nhà đầu tư có rất nhiều sự lựa chọn gói trái phiếu hìnhthành từ chứng khoán hóa tùy theo sở thích rủi ro của mình. Đây cũngchính là động lực kích thích nhu cầu mua các loại trái phiếu hình thànhtừ chứng khoán hóa và làm bùng nổ cho vay dưới chuẩn.

Bùng nổ…

Chứng khoán hóa đã trở thành một công cụ chuyển giao rủi ro hiệu quảđược các ngân hàng đầu tư quốc tế nắm bắt kịp thời để thực hiện cho vaynợ dưới chuẩn. Nếu như trước đây các ngân hàng thương mại với nguồn vốnhữu hạn của mình từ tiền gửi của khách hành dùng để cho vay thế chấpmua nhà thì giờ đây, nguồn vốn này trở nên dường như bất tận. Các ngân hàng đầu tư quốc tế thi nhau bơm vốn cho các công ty tài chínhchuyên làm nhiệm vụ cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn hoặc thành lậpcác công ty cho vay của riêng mình. Hàng loạt chủ thể tham giao vào quytrình cho vay và chứng khoán hóa như ngân hàng đầu tư, công ty tàichính, môi giới cho vay, công ty định mức tín nhiêm, công ty quản lý,đều thu được những khoản thu nhập kếch sù. Ngân hàng đầu tư có lẽ là người hưởng lợi nhiều nhất. Cho vay thế chấpmua nhà dưới chuẩn có lãi suất rất cao, do đó ngân hàng đầu tư vừa thulãi từ cung cấp vốn cho công ty tài chính, vừa thu lãi từ nghiệp vụchứng khoán hóa. Lãi cao sẽ giúp việc đóng gói thêm thực hiện dễ dàng,và đây là điểm hấp dẫn các nhà đầu tư lao vào thị trường mua các góitrái phiếu chứng khoán hóa đầy rủi ro. Lợi nhuận cao kết hợp với lòng tham đã dẫn đến lạm dụng việc cho vay nợdưới chuẩn. Các thủ tục thẩm định thực hiện bởi các đại lý cho vay diễnra hết sức lỏng lẻo và việc tiếp cận vốn tín dụng mua nhà trở nên nhanhchóng, dễ dàng hơn bao giờ hết. Những người có thu nhập thấp, đặc biệtlà dân định cư đầu tiên có cơ hội mua nhà. Cho vay thế chấp mua nhàdưới chuẩn lan nhanh ra toàn nước Mỹ. Giá bất động sản tăng nhanhchóng. Nếu như cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn mới bắt đầu hình thành từnhững năm đầu 90 và phát triển rất chậm thì trong 5 năm gần đây con sốnày gia tăng một cách kỷ lục. Năm 2002, doanh số cho vay dưới chuẩncung cấp cho thị trường khoảng 200 tỷ USD, năm 2003 là 320 tỷ, năm 2004là 550 tỷ, năm 2005-2006 con số này đạt gần 700 tỷ USD hàng năm, chiếmkhoảng 25% thị phần cho vay thế chấp mua nhà toàn nước Mỹ.

… và khủng hoảng

Khi nền kinh tế hoạt động không hiệu quả, lãi suất tăng tạo nên gánhnặng trả nợ với những người thu nhập thấp, thất nghiệp gia tăng thì rủiro cho vay nợ dưới chuẩn bị ảnh hưởng nhanh nhất. Không trả được nợ, hàng loạt người mua nhà bị xiết nợ và phát mại tàisản. Cleveland (Ohio) là thành phố đầu tiên châm ngòi cho cuộc khủnghoảng lan rộng ra toàn nước Mỹ và thế giới. Theo số liệu thống kê,khoảng 1/10 số nhà tại Cleveland bị thu hồi để phát mại. Những ngườinhập cư với giấc mơ mua nhà lại trở về tay trắng. Giá nhà tại Mỹ giảmthảm hại trong Qúy 3 năm 2007, mức tồi tệ nhất từ cuộc khủng hoảng tàichính năm 1930. Ngay lập tức, Cục dự trữ liên bang Mỹ và Ngân hàng Trung ương Châu Âuphải bơm số vốn khổng lồ vào thị trường. Từ tháng 9/2007, Cục dự trữliên bang Mỹ đã liên tục 5 lần cắt giảm lãi suất chiết khấu đồng USD từ5,25%/năm xuống mức hiện tại 3%/ năm. Đây là những biện pháp rất mạnhnhằm cứu vãn nền kinh tế Mỹ khỏi cuộc khủng hoảng này.

Hậu quả nặng nề

Hậu quả của cuộc khủng hoảng tín dụng cho nước Mỹ và thế giới là rấtlớn. Thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán bị ảnh hưởngnặng nề. Thị trường trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa bị mất khảnăng thanh khoản. Ngành xây dựng Mỹ đóng góp 15% GDP có thể phải cắtgiảm một nửa sản lượng và cắt 1-2 triệu công việc. Các khoản cho vay thế chấp không có khả năng thu hồi và giá trị tài sảnđảm từ những ngôi nhà bị sụt giảm là nguyên nhân giá trị đánh giá lại(mark to market) của các gói trái phiếu phát hành bị giảm giá khôngphanh, đặc biệt là các gói trái phiếu có rủi ro cao (gói Z). Các nhàđầu tư nắm giữ trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa nợ dưới chuẩnlà người chịu hậu quả nặng nề. Dự báo số tổn thất do giảm giá trị tráiphiếu cho toàn thị trường lên tới khoảng 220 tỷ – 450 tỷ USD. Hàng loạt ngân hàng đầu tư trót nắm giữ các gói trái phiếu rủi ro màchưa kịp chuyển giao cho thị trường đã phải ghi nhận các khoản tổn thấtlên đến hàng trăm tỷ USD như Citi (21 tỷ USD), Merrill Lynch (25 tỷUSD), UBS (18 tỷ USD), Morgan Stanley (10 tỷ USD), JP Morgan (2,2 tỷUSD), Bear Stearns (2 tỷ USD), Lehman Brothers (1,5 tỷ USD), GoldmanSachs (1,3 tỷ USD). Tổng thiệt hại tài chính của các ngân hàng đầu tưtrong năm 2007 ước tính lên tới gần trăm tỷ USD. Citi và Merrill Lynchphải cầu viện tăng vốn khẩn cấp từ các quỹ đầu tư Châu Á. Hàng ngànnhân viên phố Wall bị sa thải. Không chỉ thiệt hại về giảm giá trái phiếu, mảng kinh doanh béo bở từchứng khoán hóa của các ngân hàng đầu tư cũng bị tạm ngưng hoạt động.Cổ phiếu các ngân hàng đầu tư rớt thảm hại trong 6 tháng cuối năm 2007.Với tổn thất nặng nề này, các ông chủ phố Wall lần lượt phải ra đi, cụthể là các ông chủ UBS, Citigroup, Merrill Lynch và Bear Stearns.

Kết luận

Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2007 của Mỹ bắt nguồn từ sự quản lý lỏnglẻo trong cho vay tín dụng dưới chuẩn và từ lòng tham của thị trường.Chứng khoán hóa là một công cụ tài chính thông minh song đã bị lợi dụngvào việc xấu gây nên hậu quả khôn lường. Các nhà đầu tư cần thấu hiểucác rủi ro trước khi mua các sản phẩm tài chính phức tạp nhằm tránhnhững tổn thất nặng nề. Đây là những bài học không thừa cho bất cứ quốcgia nào trong quá trình hội nhập và phát triển.