So sánh từ ấy và tây tiến năm 2024

TÓM TẮTMục tiêu: trình bày đặc điểm siêu âm xoắn lách phụ. Phương pháp: mô tả ba ca lâm sàng.Kết quả: Trường hợp 1: bé gái 2 tuổi nhập viện vì đau hông trái 2 ngày. Siêu âm phát hiện một khối dạng đặc echo kém, không tưới máu nằm sát cực dưới lách. Trường hợp 2: bé trai 14 tuổi nhập viện vì đau quặn từng cơn hạ sườn trái 10 ngày. Siêu âm phát hiện cực dưới lách có khối dạng đặc echo kém không đồng nhất, tưới máu ít, có vài mạch máu nhỏ ngoại biên, có dấu whirlpool ở cuống kèm dãn mạch máu cực dưới lách. Trường hợp 3: bé trai 8 tháng, ói, sốt, quấy khóc liên tục. Vùng hạ sườn phải cạnh lách có một khối echo kém, không thấy phổ mạch máu, dày mạc nối quanh. Cả ba trường hợp siêu âm kết luận xoắn hoại tử lách phụ. Kết quả phẫu thuật và giải phẫu bệnh khẳng định chẩn đoán.Kết luận: xoắn lách phụ là một bệnh lý cực kỳ hiếm gặp, có thể đến trong bệnh cảnh đau bụng cấp hoặc bán cấp. Siêu âm là phương tiện chẩn đoán hình ảnh đơn giản và chính xác nếu chúng ta biết và nghĩ tới.

Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX được xem là giai đoạn “giao thời”, với sự đấu tranh giữa thơ Cũ và thơ Mới, giữa truyền thống và cách tân, tồn tại nhiều khuynh hướng, dòng phái khác nhau. Từ góc độ thể loại, không ít người cho đây là thời điểm thơ tự do thắng thế, thơ Đường luật nói chung bị xem là hết mùa, lỗi thời. Song vẫn còn đó một minh chứng hùng hồn cho sự hiện diện của thơ Nôm Đường luật Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX, đó là Nôm Đường luật Phan Bội Châu. Bài viết trên cơ sở chỉ ra một vài đặc điểm về ngôn ngữ trong thơ Nôm Đường luật Phan Bội Châu thời kỳ ở Huế, từ đó cho thấy những đổi mới, cách tân của Phan Sào Nam trong việc sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc.

Trong bài báo này chúng tôi nghiên cứu các tính chất phi cổ điển như tính chất nén tổng hai mode, nén hiệu hai mode và tính chất phản kết chùm hai mode bậc cao của trạng thái kết hợp cặp thêm và bớt photon hai mode (PAASTMPCS). Các kết quả khảo sát về tính chất nén cho thấy rằng trạng thái PAASTMPCS có tính chất nén tổng hai mode nhưng không có tính chất nén hiệu hai mode. Tính chất nén tổng hai mode của trạng thái PAASTMPCS luôn xuất hiện khi thêm và bớt photon vào trạng thái kết hợp cặp (PCS). Ngoài ra, kết quả khảo sát chỉ ra rằng trạng thái PAASTMPCS còn có tính chất phản kết chùm hai mode bậc cao và tính chất này được tăng cường khi thêm và bớt photon vào PCS. Qua đó, vai trò của việc thêm và bớt photon đã được khẳng định thông qua việc tăng cường tính chất phi cổ điển của trạng thái PAASTMPCS.

Electronic Journal of Foreign Language Teaching 2007, Vol. 4, No. 2, pp. 257–266 © Centre for Language Studies National University of Singapore. Exploring the Concept of “Face” in Vietnamese: Evidence From Its Collocational Abilities. ...

Hiện nay, tại chùa Bảo Ninh Sùng Phúc (huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang) còn lưu giữ được tấm bia cổ duy nhất thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta có niên đại từ thời nhà Lý. Nội dung văn bia chép về dòng họ Hà và những đóng góp của dòng họ này đối với vùng đất Vị Long nói riêng và đất nước nói chung ở thế kỷ XI - XII. Trong đó phải kể đến công lao to lớn của nhân vật lịch sử Hà Di Khánh.

Đặt vấn đề: Can thiệp sang thương tắc hoàn toàn mạn tính (THTMT) là thử thách lớn trong can thiệp động mạch vành (ĐMV) qua da với tỉ lệ thất bại thủ thuật cao hơn can thiệp các sang thương khác. Các nghiên cứu về kết quả can thiệp qua da sang thương THTMT tại Việt Nam không nhiều nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm có thêm dữ liệu về kết quả can thiệp sang thương THTMT ĐMV. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ thành công, các yếu tố liên quan thất bại của thủ thuật can thiệp qua da sang thương THTMT ĐMV. Phương pháp: Nghiên cứu quan sát trên 194 bệnh nhân được can thiệp ĐMV qua da sang thương THTMT tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh, từ 04/2017 đến 06/2019. Kết quả: Bệnh nhân có tuổi trung bình là 67,3±11,3; với 73,7% nam cao so với nữ; 82,5% có tiền sử ghi nhận tăng huyết áp, 26,3% nhồi máu cơ tim cũ, can thiệp ĐMV qua da trước đây (26,3%), đái tháo đường (29,9%), bệnh thận mạn (9,8%) và 77,4% bệnh nhân nhập viện vì hội chứng vành cấp. Điểm SYNTAX I trung bình là 21,7±7,2. Tỉ ...

Trong nỗi nhớ nhung, hình ảnh đầu tiên hiện về trong tâm trí nhà thơ là dòng sông Mã và rừng núi đại ngàn Tây Bắc. Nó không chỉ là một vùng đất mà giờ đây đã trở thành miền kí ức không thể nào quên, là địa chỉ tìm về của nỗi nhớ. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” như lan rộng khắp không gian, thời gian, giải tỏa bao nỗi niềm nhớ thương. Đó là “nỗi nhớ chơi vơi”- một sáng tạo ngôn từ độc đáo của riêng Quang Dũng. Với nhà thơ, nhớ Tây Tiến không dữ dội, cuộn lòng mà cứ mênh mang, tha thiết, ám ảnh dư âm. Nhưng giờ đây tất cả chỉ là kỉ niệm vì “Sông Mã xa rồi”- đó là sự ý thức của nhân vật trữ tình về hiện thực phũ phàng, khắc nghiệt, nhưng càng xa càng nhớ, nỗi nhớ cứ đong đầy, đọng lại bao dư ba. Nỗi nhớ mỗi lúc một hiện rõ qua kí ức qua dòng cảm xúc của nhà thơ.

  • “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
  • Mường Lát hoa về trong đêm hơi
  • Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
  • Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
  • Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
  • Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Chặng đường hành quân của quân đoàn Tây Tiến hiện ra với muôn vàn khó khăn vất vả, trắc trở, Quang Dũng vô cùng tinh xảo khi sử dụng một loạt những tính từ láy “ khúc khuỷu, thăm thẳm, hun hút ” gợi tả độ cao, độc sâu dốc của đèo cao dốc đứng Tây Bắc. Họ phải hành quân trong màn sương rậm rạp che khuất tầm nhìn, phải vượt qua những dốc thẳng, đèo cao vực sâu hun hút. Tưởng như chỉ một chút ít sảy chân cũng hoàn toàn có thể khiến bất kể ai phải trả giá bằng cả tính mạng con người. Những địa điểm “ Sài Khao, Mường lát, Pha Luông, Mường Hịch ” hiện lên đầy mới lạ, lạ lẫm với những chàng trai Hà thành. Nhưng những khó khăn vất vả ấy không khiến họ chùn bước. Ở đoạn thơ, ta vẫn phát hiện chút phảng phất của một tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Trong những đêm hành quân khó khăn, những người lính Tây Tiến vẫn luôn sáng sủa và lãng mạn trong những suy tư liên tưởng về “ đêm hơi ”, “ mưa xa bờ ” đầy chất thơ của những chàng trai Hà thành hào hoa .

  • “Anh bạn dãi dầu không bước nữa
  • Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

Câu thơ như khắc họa hình ảnh những chiến sỹ đã quá stress, gục đầu bên súng mũ. Đó hoàn toàn có thể là tích tắc nghỉ ngơi khan hiếm của người lính sau thời hạn mỏi mệt, nhưng cũng hoàn toàn có thể là khoảng thời gian ngắn hi sinh của những chiến binh trong quân đoàn Tây Tiến. Nói về cái bi nhưng Quang dũng không gợi cảm giác sầu thương, ghê rợn mà bừng lên cái ngang tàng can đảm và mạnh mẽ của chất lính. Họ không gục ngã bởi bom đạn quân địch mà đơn thuần là rời xa thực tại tối tăm để “ bỏ quên đời ”. Ở câu thơ người ta phát hiện chút gì đó bất cần, ngông nghênh mà đày tươi tắn đặc trưng của những người lính bước vào trận chiến mà ta đã từng thấy trong những vần thơ của Phạm Tiến Duật :

  • “Không có kính, ừ thì có bụi,
  • Bụi phun tóc trắng như người già”
  • “Không có kính, ừ thì ướt áo
  • Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”
  • (Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Phạm Tiến Duật)

Dù là thời nào thì ý thức kiên cường, sáng sủa vẫn luôn soi đường chỉ lối cho ý thức người chiến sỹ. Không chỉ phải đương đầu với những khó khăn vất vả về địa hình mà tính mạng con người người lính còn bị rình rập đe dọa bởi thú dữ đại ngàn :

  • “Chiều chiều oai linh thác gầm thét
  • Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Không gian “ chiều chiều, đêm đêm ” gợi cảm giác tối tăm, u mịch. Ở giữa khoảng trống ấy – nơi quân đoàn Tây Tiến đóng quân sau ngày chiến đấu ác liệt, vẫn luôn bảo phủ bởi tiếng gào thét kinh hoàng và bước chân rình rập của cọp dữ. Chúng luôn quanh quẩn đâu đây, rình rập đe dọa tính mạng con người của bộ đội ta. Vượt lên trên những gian truân ấy, tâm hồn người lính Tây Tiến vẫn hứng về những mái nhà, nhà bếp lửa ấm nồng tình quân dân .

  • “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
  • Mai Châu mùa em thơm nếp xôi ‘’

Không còn là tiếng gọi “nhớ ơi” mênh mông, tha thiết bên trên nữa, giờ đây, nỗi nhớ Tây Tiến đã quặn thắt, dội ngược vào tâm can nhân vật trữ tình. Hiện về trong nỗi nhớ ấy là hình ảnh của những gian bếp thơm mùi khói, Mai Châu dịu dàng và đầm ấm lạ thường. Ở đó còn đặc biệt hơn khi có “em”. Thật khó cắt nghĩa em ở đây là ai, là cô gái Tây Bắc đằm thắm, là người thương chờ đợi nơi quê nhà hay là đồng bào dân tộc đang ngóng tin thắng trận trở về. dù là ai thì đó cũng là một phần tâm hồn người lính, là hậu phương vững chắc cho họ an tâm ra trận, gìn giữ hòa bình, thống nhất đất nước. Tâm hồn những người lính trẻ luôn dội ngược những âm vang của đêm hội liên hoan tưng bừng nơi mảnh đất Tây Bắc.

  • “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
  • Kìa em xiêm áo tự bao giờ
  • Khèn lên man điệu nàng e ấp
  • Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Đối với mọi người, đây có thể chỉ là một đêm liên hoan bình thường, vui vẻ, nhưng với Quang Dũng nó còn khắc sâu ý nghĩa hơn thế. Nó là một vùng kí ức không thể nào quên, là thời gian quý giá gắn kết tình quân dân, tiếp thêm sức mạnh cho đoàn quân ra trận. Đêm liên hoan ấy nhộn nhịp, sôi động với đuốc hoa, lửa trại, những tấm áo điệu nhảy mê hoặc lòng người. Chỉ một chữ “bừng” cũng đủ làm tươi sáng, thổi lên ngọn lửa niềm vui trong lòng những chiến sĩ xa quê. Họ rời xa quê hương vì nghĩa lớn, được đón tiếp bằng tất cả tình thương, lòng nồng hậu của đồng bào Tây Bắc. Trong không gian ấy, hình ảnh “em” một lần nữa xuất hiện. Có lẽ đây là những nàng thơ Tây Bắc dịu dàng, đằm thắm trong xiêm áo dân tộc, múa điệu truyền thống, khơi nguồn thi hứng cho bao tâm hồn nghệ sĩ. Tấm lòng những người lính ấm áp, lửng lơ bay lên cùng làn khói, xây nên bao viễn tưởng tươi đẹp. Đọc đến đây, dừng như haonf toàn không hề có chút không khí của bom bay đạn nổ, họ đang sống trong những giờ phút tươi đẹp nhất của đời mình. Cái khốc liệt của chiến tranh đã đầu hàng trước cái lãng mạn của lòng người. Để rồi, sau những giây phút vui tươi, họ lại chìm sâu vào suy tư sâu lắng khi đứng trước cái mênh mang của sông nước Tây Bắc.

  • “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
  • Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
  • Có nhớ dáng người trên độc mộc
  • Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Khung cảnh hiện lên nhuốm màu ảm đạm, từ thời gian của buổi chiều tà đến không gian mênh mông mà đơn độc của sông nước. Giữa cái rộng lớn, bất tận của đất trời chỉ hiện lên duy nhất hình ảnh con người trên chiếc thuyền độc mộc. Thật nhỏ bé, thật cô đơn và buồn thương biết mấy. Trên dòng nước chỉ hiu hiu cánh hoa mơn man theo làn nước, lơ phơ mấy nhánh lau trước gió. Là dòng nước đột ngột chậm rãi hay lòng người bỗng sâu lắng, quạnh hiu hơn? Là cái buồn của cảnh thấm vào lòng người hay nỗi buồn của người nhuốm màu lên cảnh? Nguyễn Du từng nói quả không sai: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”. Đứng trước dòng sông Tây Bắc, phải chăng người lính nghĩ về dòng sông quê hương, nghĩ về nhịp sống nơi quê nhà, mà phảng phất niềm thương nỗi nhớ tha thiết. Những người lính ra trận không chỉ với nhiệt huyết tuổi trẻ, tình yêu đất nước mà còn chất chứa bao nỗi nhớ, lòng mong ngóng nơi quê nhà. Họ trẻ trung nhưng cũng đầy chiêm nghiệm sâu lắng. Bước sang những đoạn thơ tiếp theo, cái khốc liệt, dữ dội cùng vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến được Quang Dũng khắc họa rõ nét.

  • “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
  • Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Nhà thơ đã khôn khéo sử dụng lối nói giảm nói tránh khi miêu tả về đời sống củ người lính Tây Tiến. Họ phải đương đầu với căn bệnh sốt rét rừng, khiến da xanh tái, tóc không hề mọc. Hình ảnh này gợi ta nhớ về những dòng thơ của Chính Hữu trong “ Đồng chí ” :

  • “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
  • Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”

Căn bệnh sốt rét rừng như mối rình rập đe dọa nguy hại đến người chiến sỹ, khiến họ stress, hao hụt cả về thể xác lẫn ý thức. Nhưng viết về hiện thực ấy, nhà thơ vẫn ánh lên tia sáng của niềm sáng sủa, can đảm và mạnh mẽ. Những khó khăn vất vả về thực trạng, bệnh tật ấy không hề khiến họ chùn bứơc, không dập tắt được ngọn lửa căm thù giặc đang hừng hực cháy .

  • “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
  • Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Dù trong trường hợp nào, tâm hồn họ vẫn lửng lơ bay theo tiếng gọi của khát vọng, của sự lãng mạn trẻ trung. Tinh thần người lính luôn hừng hực, cháy bùng khí thế, luôn không ngừng mơ về giấc mộng chiến công, giấc mộng lập lại hòa bình, thống nhất cho đất nước. Và điểm tựa cho mỗi khát vọng ấy luôn hiện hình ảnh người con gái nơi Hà Nội dấu yêu. Những chiến sĩ của binh đoàn Tây Tiến đều xuất thân từ Hà Nội- thủ đô hoa lệ, ấy vậy mà họ gạt bỏ mọi mối riêng tư để lên đừơng cứu nước. Giắt trong tim vẫn lưu dấu hình bóng quê nhà cùng những người thân yêu. Họ chính là động lực Cách mạng cho mỗi cuộc kháng chiến. Những khó khăn, mất mát tiếp tục được mở ra trước mắt bạn đọc. Cái bi một lần nữa tạo dư ba.

  • “Rải rác biên cương mồ viễn xứ
  • Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
  • Áo bào thay chiếu, anh về đất
  • Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Những chiến binh Tây Tiến đều là những chàng trai trẻ, rời xa giảng đường, rời xa những hoài bão tuổi trẻ để lên đường đi cứu nước. Bước vào trận chiến, không ai chắc còn hay mất, những họ vẫn kiên quyết cất bước ra đi, và có lẽ không ít người đã bỏ mạng nơi xứ người. Họ nằm xuống giữa mảnh đất xa lạ, nhưng đó là sự hi sinh đáng quý cho một điều thân quen và cao cả- đất nước. Không cất niệm, an táng, tất cả những gì theo họ ngay khi nằm xuống cũng chỉ có manh chiếu cuốn vội của những đồng đội cùng chung lý tưởng. Họ đắp cho nhau manh chiếu nhỏ, cũng là đắp cho nhau tình thương, lời chia tay chân thành nhất. “Anh về đất”-ba chữ nghe thật giản dị và thân quen. Họ không chết, họ chỉ đang quay trở về với đất mẹ, với nơi đã sinh thành gắn bó với cuộc đời mình mà thôi. Dòng sông Mã dữ dội đón tiếp họ, và cũng chính sông Mã cuồn cuộn tiễn họ đi. “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Cả thanh xuân họ đã cống hiến cho đất nước, bởi vậy khi trở về với đất mẹ, họ cũng bước đi trong tư thế hiên ngang giữa khúc độc hành của đại ngàn Tây Bắc. Đoạn thơ không hề bi mà tác sâu chữ hùng, hùng vĩ, hùng tráng đến lạ lùng.