So sánh trong người lái đò sông Đà


So sánh trong người lái đò sông Đà

    

            Sau khi đọc tập truyện ngắn đầu tay “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân, nhà văn Thạch Lam đã khẳng định: “Nguyễn Tuân là nhà văn có tài năng đặc biệt, một nghệ sĩ có lương tâm, ở đó chúng ta đặt những hi vọng tốt đẹp nhất về sự nghiệp”.

            Thach Lam quả là có con mắt tinh đời. Nguyễn Tuân đã đóng góp lớn cho xã hội trên hai bình diện: nhân cách cao đẹp của con người và những tác phẩm văn học tuyệt bích, chuẩn mực. Chúng ta tiếc vì vốn sống của Nguyễn Tuân dày, tài hoa nhưng ông viết ít, và tiếc hơn là những trang viết của ông  góp mặt trong chương trình giảng dạy bậc Trung học phổ thông không nhiều.

            Chỉ một đoạn trích “Người lái đò Sông Đà” trong chương trình Ngữ văn 12, chưa đầy 7 trang in khổ 17x24 cm, lượng thông tin rất lớn về lịch sử, địa lý, văn hóa dòng sông chảy trong mạch cảm xúc yêu thương nồng thắm, được thể hiện dưới ngòi bút tinh tế, tài hoa của Nguyễn. Bài viết này chỉ khảo sát biện pháp nghệ thuật so sánh, qua đó nhằm giúp các em học sinh nhận thức sâu hơn về một  "tài năng đặc biệt" .

            Trong đoạn trích, tác giả viết 22 câu có sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh. Câu dài nhất có 45 chữ, câu ngắn nhất có 9 chữ. Phân bố câu so sánh trong những trang viết tùy theo việc chuyển tải nội dung, nhưng nhìn chung khá cân đối. Hình ảnh “con Sông Đà hung tợn” có 13 câu so sánh; “con Sông Đà trữ tình” có 7 câu. Tỉ lệ hai câu liên tiếp có sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh trở lên chiếm gần 1/3 số câu so sánh (7/22).

            Đọc văn Nguyễn Tuân, chúng ta thấy luôn tươi mới. Chỉ 22 câu dùng biện pháp nghệ thuật so sánh nhưng có tới 10 cách so sánh khác nhau, một tỉ lệ rất cao, rất khó đạt được nếu người viết không dày vốn sống và tâm hồn luôn trong sáng, tinh tế, nhạy cảm. Đây là một trong những điểm mạnh tôn lên phong cách độc đáo.

            “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Tác giả sử dụng biện pháp so sánh bằng miêu tả sự vật ít tương đồng, giữa hình ảnh nhà cao tầng, tắt phụt đèn điện với những vách đá dựng đứng của “yết hầu” Sông Đà, nơi có lần con nai, con hổ nhảy qua.

            Cũng có câu văn, mới đọc qua không thấy tác giả dùng biện pháp so sánh, nhưng kỳ thực đây là câu so sánh ẩn ý rất đắt, làm tiền đề cho đoạn văn sau. Hình ảnh “cánh quạ đàn” biểu trưng cho cái chết đang rình rập: “Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang lừ lừ những cánh quạ đàn”.

            Để miêu tả tiếng thác nước giữa núi rừng thâm u, Nguyễn Tuân rất tài tình dùng các cung bậc cảm xúc của con người: “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Độc đáo hơn, tác giả dùng hình ảnh đối lập, lấy âm thanh của lửa để miêu tả tiếng gầm gào của nước: “ Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Và ở một đoạn khác, hình ảnh ngọn sóng – ngọn lửa được miêu tả rất bất ngờ, tinh tế: “Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”.

            Miêu tả hình ảnh người lái đò vượt qua sóng thác, Nguyễn Tuân so sánh bằng các thế dánh của võ thuật: “Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”; “Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”.

            Người đọc cảm nhận rõ hơn sự nguy hiểm khi Nguyễn Tuân dùng nhiều động từ liên tiếp để so sánh: “Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm”

            Cách viết của Nguyễn Tuân hiện đại, giàu sáng tạo nhưng cũng có đoạn ông trích dẫn người xưa  hay dùng cách nói dân gian trong so sánh: “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.

            Khi miêu tả “con Sông Đà trữ tình”, cách so sánh của Nguyễn đậm nét tài hoa, tinh tế, giàu vốn sống, hiểu biết sâu sắc: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”, hay: “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.

            Bằng sự chiêm nghiệm tâm lý con người, Nguyễn Tuân có cách so sánh thú vị miêu tả vẻ đẹp của dòng sông: “Chao ôi, trông con sông như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.

            Hình ảnh con Sông Đà tĩnh lặng, thơ mộng, nuôi dưỡng tâm hồn lãng mạn của người đọc được tác giả so sánh bằng mối liên hệ độc đáo với lịch sử, với cội nguồn bản sắc văn hóa dân tộc: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

            Đọc văn Nguyễn Tuân chậm rãi, nghiền ngẫm mới thấy hết được cái hay, cái đẹp bởi lượng thông tin phong phú, đa chiều. Chẳng hạn, câu văn: “Con Sông Đà tuon dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”, vừa thể hiện tài hoa của Nguyễn vừa chứa đựng một lượng thông tin lớn. Bình thường, viết: “Con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc” đã có hình ảnh rồi, nhưng Nguyễn thổi hồn cho dòng sông mềm mại, lãng mạn hơn bằng cách dùng điệp từ “tuôn dài tuôn dài”, rồi định ngữ “trữ tình” cho “áng tóc”. Chưa hết, con sông được quan sát từ trên cao (máy bay): “đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc”. Cái tài của Nguyễn Tuân là ở trên cao nhìn xuống dưới để rồi lại miêu tả độ cao khác: “mây trời Tây Bắc”. Nhưng lãng mạn biết bao, ở xa tít “mây trời Tây Bắc” mà Nguyễn thấy: “bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Câu văn được miêu tả kết hợp giữa thị giác và tâm thức. Động từ “bung” miêu tả sức sống mạnh mẽ hoa ban hoa gạo, còn “cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân” cung cấp cho người đọc về thời gian đốt nương làm rẫy của đồng bào Mèo (nay gọi là H.Mông hay Mông)…

            Văn Nguyễn Tuân kén độc giả, bởi suy cho cùng, ông không “chiều” theo số đông  mà dễ dãi trong dùng từ, đặt câu hay sử dụng cẩu thả những biện pháp tu từ như: ẩn dụ, hoán dụ, ngoa dụ, tượng trưng, so sánh…Kho từ vựng của Nguyễn Tuân rất phong phú, ông thỏa sức sử dụng khối tài sản giàu có đó. Vì vậy, khi thưởng thức những tác phẩm của ông, người đọc cần chuẩn bị tâm thế, thời gian. Chỉ xem xét một biện pháp nghệ thuật so sánh trong một đoạn trích ngắn, chúng ta đã phần nào cảm nhận được tài hoa, tinh tế của Nguyễn Tuân. Nhưng để thấy được ánh sáng lấp lánh như kim cương trong từng trang viết của ông, chúng ta không thể không nhìn ở nhiều góc độ khác.

Những so sánh liên tưởng độc đáo về hình tượng Sông Đà trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân Giáo viên: Phạm Thị Thanh Huyền Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn- tỉnh Lai Châu So sánh liên tưởng vốn là một biện pháp quen thuộc của các nhà văn, tuy nhiên liên tưởng so sánh phải mới mẻ, bất ngờ và giúp người đọc hình dung ra sự vật, sự việc, nhận ra ngay thần thái của chúng một cách rõ nét, độc đáo thì mới có giá trị. Một trong những nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân là nhà văn luôn tìm đến những cảm giác mới lạ, những cái phi thường, cái tuyệt mĩ khi miêu tả sự vật, hiện tượng hay con người. Để đạt được điều đó, Nguyễn Tuân luôn tích luỹ kho từ vựng độc đáo với các biện pháp tu từ được nhà văn vận dụng linh hoạt. Con sông Đà dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân hiện lên với hai nét tính cách dường như đối lập nhau: Trữ tình và hung bạo. Hai nét tính cách này được nhà văn sử dụng nhiều so sánh liên tưởng . Mỗi so sánh chứa đựng một góc nhìn độc đáo, đầy tính phát hiện của nhà văn trước đối tượng thẩm mĩ của mình. Con sông Đà hung bạo mang diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của con người hiện lên thật ấn tượng, Sự hung bạo của Sông Đà được thể hiện trước hết ở vách đá. Sông Đà cã nh÷ng qu·ng s«ng hÑp, s©u tèi vµ l¹nh “ mặt sông lúc ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông như một cái yết hầu”. Cách so sánh, liên tưởng bất ngờ mà chính xác đã giúp người đọc hình dung cụ thể độ cao, hẹp, sâu của vách đá Sông Đà. Nguyễn Tuân tiếp tục khắc sâu ấn tượng độ cao của vách đá, sự lạnh lẽo, u tối của đoạn sông và sự nhỏ hẹp của dòng chảy bằng một liên tưởng độc đáo, bất ngờ và thú vị khi nhà văn so sánh cảm giác của con người giữa thiên nhiên hoang sơ hùng vĩ với khoảng cách của đời sống chốn thị thành điều này khiến cho những ai chưa có dịp được trải nghiệm cảm giác ngồi trong khoang đò qua quãng ấy có thể cảm nhận điều đó trong một hiện thực rất gần với mình.“ Ngồi trong khoang đò mà đi qua quãng ấy đang mùa hè cũng thấy lạnh cảm thấy như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy vừa tắt phụt điện”. Những cái hút nước sông Đà làm chóng mặt, sởn gai ốc người ta cũng do phép so sánh liên tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân mang lại “ những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.” ,“nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” có lúc “những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Âm thanh được cụ thể hóa cao độ, nó làm ta hình dung đến sự giận dữ và nguy hiểm tột độ, đặc biệt nhờ phép so sánh độc đáo ấy ta không chỉ “nghe” được âm điệu, cường điệu mà cả độ vang của tiếng hút nước. Trong lối so sánh của Nguyễn Tuân, ta cũng bắt gặp những phép so sánh chứa đầy ẩn ý. Nó như một dự cảm lo sợ “trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ như cánh quạ đàn”. Ngoài sự hung bạo dữ dội những hút nước ấy còn ẩn họa một sự chết chóc đáng sợ “cánh quạ đàn”. Đó cũng chính là một lời cảnh báo để những thuyền đi qua phải trèo thật nhanh “y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường”. Ngoài việc sử dụng các phép so sánh thì ở đoạn miêu tả những cái hút nước trên sông, nhà văn còn vận dụng rất linh hoạt những liên tưởng độc đáo. Đó là khi nghĩ đến “một anh quay phim táo tợn nào dám ngồi vào một chiếc thuyền thúng rồi cho cả mình và máy quay xuống cái hút sông Đà ấy”. Sự liên tưởng dường như được chuyển thành một thước phim điện ảnh. Vừa đẹp một cách hùng vĩ lại vừa có cái giật gân táo bạo. Nhưng dữ dội nhất là ở những thác đá. Nguyễn Tuân đã buộc sự dữ dội, nham hiểm của sông Đà phải hiện lên thành hình và gào thét bằng trăm ngàn âm thanh. Thực sự đến đây, Nguyễn Tuân mới hòa nhịp đúng vào khúc “độc tấu” ngôn từ và hình ảnh. Trước giờ ta bắt gặp không ít những hình ảnh so sánh và độc đáo giữa hai sự vật hiện tượng tương đối “nắng hạ rũ rượi, mệt nhoài sau quãng rừng thưa như từng hột mưa kiệt sức trên thảm lá dày” ( Nhật kí đào hoa – Lê Như ). Nhưng đến Nguyễn Tuân, những phép so sánh lên đến cực điểm. Được làm nên từ hàng loạt phép so sánh liên hoàn dồn dập, tiếng nước thác hiện lên như một con người với đủ cung bậc tâm trạng “nghe như oán trách gì rồi lại như là van xin, rồi lại như khiêu khích giọng gằn mà chế nhạo.” Các câu so sánh “tới tấp” đẩy cái dữ dội lên đỉnh điểm, dùng các cung bậc của con người tả thác để dội lại cái vang vọng đầy cảm xúc ấy cho người đọc. Bước đệm ấy đã phát huy tác dụng không ngờ, nó đẩy cái cuồng nộ của thác nước lên đến nghẹt thở, cho người đọc cảm giác lạc vào trận địa dữ dội của sông nước và đá thác. Chính sự táo bạo trong miêu tả dám lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông – phép so sánh đối lập cao độ. “Nó rống lên như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa một rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Ta có cảm giác luồng nước thác dữ dội táp vào mình qua thính giác bỏng rát, tất cả như tóe ra một sự giận dữ không kiềm chế ,vừa hùng vĩ vừa đầy hiểm nguy thách thức. Cách so sánh nhân hóa đã cho ta một khung cảnh Sông Đà như con thủy quái với sức công phá ghê gớm báo hiệu một trận chiến giằng co căng thẳng sắp diễn ra. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân sông Đà không chỉ hung bạo mà nó còn rất trữ tình.Vẻ mơ màng, thơ mộng, kiều lệ của sông đạt đến độ tuyệt vời cũng nhờ những so sánh hay. Từ trên cao nhìn xuống Nguyễn Tuân được chiêm ngưỡng toàn cảnh dòng sông trong dáng hình mềm mại uốn lượn tự nhiên của nó. Nguyễn Tuân đã so sánh dòng Sông Đà với sợi dây thừng ngoằn ngoèo. Sự so sánh giản đơn nhưng chính xác độc đáo nên tạo được sự bất ngờ thú vị. Sông Đà đẹp thơ mộng trước hết ở vẻ đẹp tự nhiên ấy. Đặc biệt hình dáng của con sông được nhà văn miêu tả qua so sánh rất tài hoa “con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nếu áng tóc là sự vật cụ thể thì áng tóc trữ tình lại là một khái niệm trừu tượng. Tác giả đã dùng hình ảnh áng tóc trữ tình để nói lên vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông. Nhìn con sông Đà tuôn dài, nhà văn có cảm tưởng đó như một áng tóc. Phép so sánh độc đáo này đã tôn lên vẻ đẹp mềm mại, thơ mộng và hiền hoà của dòng sông. Dòng sông ấy hiền hoà, thơ mộng gợi bao cảm hứng trữ tình, cảm hứng thơ với các du khách. Tả màu nước Sông Đà ta lại bắt gặp những so sánh rất thú vị và chính xác“ Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm sông Lô”. “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.Sự so sánh về màu sắc làm cho con sông có vẻ đẹp riêng. Bằng sự chiêm nghiệm tâm lý con người, Nguyễn Tuân có cách so sánh thú vị miêu tả vẻ đẹp của dòng sông“Chao ôi, trông con sông như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. So sánh sông Đà với một cố nhân vừa thể hiện sự gắn bó của nhà văn với dòng sông vừa lột tả được hết cái tính tình “lắm bệnh lắm chứng” của sông Đà. Cảnh ven sông Đà quãng hạ lưu lặng tờ đẹp một vẻ đẹp nguyên khôi được truyền thần bằng hai câu văn so sánh tài hoa“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn đã đem so sánh một đặc tính đã khá trừu tượng (hoang dại, hồn nhiên) bằng những khái niệm còn trừu tượng hơn nữa bằng cách không gian hoá thời gian (một bờ tiền sử), nội tâm hoá sự kiện (một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa), gợi mở những liên tưởng cập bờ siêu cảm giác! Với liên tưởng của mình , Nguyễn Tuân vẽ ra trước mắt bạn đọc một bức tranh sinh động đến không ngờ. Một vẻ non tơ của nương ngô nhú lên mấy lá non đầu mùa, một chú hươu tha thẩn và một cuộc nói chuyện ngắn ngủi trong tưởng tượng để cùng lắng đợi một “tiếng còi sương”. Có thể nói, với cách tạo ra những so sánh liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân đã miêu tả thành công nhân vật sông Đà trong tác phẩm với hai nét tính cách dường như trái ngược nhau. Mỗi phép so sánh, nhà văn đem đến cho người đọc những cảm giác bất ngờ thú vị. Chỉ xem xét những liên tưởng so sánh về hình tượng Sông Đà trong một đoạn trích ngắn, chúng ta đã phần nào cảm nhận được tài hoa, tinh tế của Nguyễn Tuân. Với Nguyễn Tuân “Tiếng Việt như một khối ru bích, dưới bàn tay của người nghệ sĩ ngôn từ họ Nguyễn, khối vuông ấy biến hóa liên tục và đầy màu sắc-sắc màu Nguyễn Tuân” (Đỗ Ngọc Thống)