Sáng kiến lồng ghép tiếng Anh vào các hoạt động

Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm áp dụng trò chơi trong dạy học Tiếng Anh THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

h. Tôi đã từng được đọc một câu nói của Khổng Tử rằng “biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bắng say mê mà học”. Đây là một câu nói hay mà tôi rất tâm đắc, tôi luôn trăn trở làm sao để học sinh của chúng ta “say mê mà học” không chỉ môn Tiếng Anh nói riêng mà tất cả các môn học khác nói chung. Trong quá trình học tập, khó khăn nhất của các em học sinh đó chính là các em phải học nhiều môn học, nhiều nội dung cùng một lúc. Nhiệm vụ của các em là phải nhớ nhiều thứ trong một khoảng thời gian nhất định. Điều này sẽ tạo ra áp lực rất lớn với các em, đặc biệt là những em học sinh có lực học không tốt. Thế cho nên trong quá trình giảng dạy, ngoài việc truyền thụ những kiến thức cơ bản tôi luôn cố gắng giúp các em tiếp cận nội dung môn học một cách thoải mái, tích cực và dễ ghi nhớ bằng một số hoạt động vừa chơi vừa học. Mỗi nội dung trong một đơn vị bài học cần phải có cách học và cách nhớ khác nhau mà giáo viên là người phải phân loại để giúp các em có các phương pháp ghi nhớ phù hợp, hứng thú và đam mê học tập bộ môn của mình. Muốn học sinh say mê trước hết giáo viên phải làm sao cho tự bản thân học sinh đó phải năng động, tích cực, kể cả học sinh yếu, học sinh thiếu tự tin vào bản thân. Tôi nghĩ áp dụng trò chơi là một phương pháp rất phù hợp để thực hiện được điều này. Ở trong các trò chơi, cơ hội dành cho tất cả các học sinh để thể hiện mình là rất lớn, đặc biệt là các em học sinh yếu kém, rụt rè, tự ti. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ 1. Thuận lợi: - Việc dạy và học Tiếng Anh hiện nay được sự quan tâm và chỉ đạo sâu sắc của Ngành và của Nhà trường. - Điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học bộ môn Tiếng Anh tại trường THCS Buôn Trấp khá đầy đủ như: smart TV, máy chiếu, máy tính, tranh ảnh, ... - Đa số phụ huynh và học sinh đã nhận thức được tầm quan trọng của việc học Ngoại Ngữ (nhất là Tiếng Anh). - Hầu hết giáo viên Tiếng Anh tại trường có trình độ chuyên môn cao và đạt chứng chỉ Tiếng Anh bậc 4 – tương đương cấp độ B2 khung tham chiếu Châu Âu, rất nhiệt tình trong công tác giảng dạy. - Được học tập và công tác trong một môi trường có rất nhiều giáo viên có kinh nghiệm lâu năm trong việc giảng dạy nên bản thân tôi luôn phấn đấu học hỏi, trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ. - Qua quá trình giảng dạy bộ môn tiếng Anh tại trường THCS Buôn Trấp, tôi nhận thấy rằng hoc sinh cấp THCS là học sinh đang ở độ tuổi ham chơi, hiếu động, thích đổi mới. Nên việc học ngôn ngữ phải thú vị, gây hào hứng và tránh nhàm chán. - Đa số các em hoc sinh rất chăm ngoan, ham học, chịu khó tìm tòi và tỏ ra thích thú với môn học. - Khả năng tự học ở nhiều em học sinh tương đối cao, các em có ý thức tự giác học tập tốt và khá linh hoạt trong các hoạt động học tập ở trên lớp. 2. Khó khăn: - Trình độ giáo viên cũng chưa thật đồng đều để giảng dạy thật tốt, vì thế tôi thấy bản thân giáo viên chúng tôi còn nợ học sinh. Đó cũng là tình trạng chung của hầu hết giáo viên tiếng anh Việt Nam khi mà “giáo viên tiếng Anh Việt Nam khó chạm chuẩn quốc tế” (theo buonho.edu.vn). - Hiện nay tại trường THCS Buôn Trấp đang thực hiện giảng dạy song song hai loại sách giáo khoa Tiếng Anh: sách giáo khoa thí điểm và sách giáo khoa hiện hành. Điều này dẫn tới áp lực về việc soạn giảng và hoàn thành kế hoạch giảng dạy theo đúng phân phối chương trình. Hơn nữa, quỹ thời gian của mỗi bài học thì có hạn nên giáo viên ít có điều kiện mở rộng bài học cũng như tiến hành các trò chơi để tạo không khí sôi động cho bài dạy. - Trình độ các em học sinh chưa được đồng đều, bên cạnh những em học khá tốt thì vẫn còn những em chưa nắm chắc kiến thức, học tập một cách thụ động. - Nhiều học sinh vẫn còn lười nhác, ham chơi hơn ham học. Nhiều em đến trường vì áp lực từ xã hội “học cho bằng bạn bằng bè”. - Không ít học sinh đến từ những gia đình khó khăn, thiếu điều kiện để học tập, và bên cạnh đó nhiều bậc phụ huynh học sinh còn phó mặc việc dạy dỗ con em mình cho nhà trường, thiếu quan tâm đến con em của mình. - Dù là trường điểm của huyện nằm ở trung tâm thị trấn nhưng vẫn có một số lượng nhỏ các em học sinh người đồng bào dân tộc thiểu số tham gia học tập và được xếp xen kẽ vào các lớp. Các em này còn khá e dè và sống khép kín với tập thể, các em ngại tiếp xúc và trao đổi với thầy cô và bạn bè. - Chất lượng học tập bộ môn Tiếng Anh ở một số lớp chưa được cao. Tôi đã thống kê kết quả học tập của một số lớp như sau: Năm học Lớp SL Giỏi Khá Tb Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 2017-2018 6ª5 28 2 7,1 10 35,7 11 39,3 5 17,9 0 0 7ª7 29 2 6,9 9 31,0 11 37,9 5 17,2 2 7,0 7ª8 33 5 15,2 8 24,2 15 45,5 7 15,1 0 0 8ª6 35 4 11,4 12 34,3 11 31,4 7 20,0 1 2,9 Kết quả trên cho thấy khả năng học tiếng Anh của các em không đồng đều: học sinh giỏi, khá chưa nhiều, số lượng trung bình yếu vẫn còn chiếm tỉ lệ khá cao. Từ những thực trạng nêu trên, sau đây tôi xin trình bày một số trò chơi ngôn ngữ tôi đã áp dụng trong những bài học trên lớp mà theo tôi nghĩ đó là những trò chơi tương đối đơn giản và dễ thực hiện. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm này được đúc rút từ những kinh nghiệm của bản thân tôi trong quá trình giảng dạy những năm qua, chắc hẳn còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý tận tình của quý giám khảo. III. CÁC GIẢI PHÁP Đà TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ (VẬN DỤNG TRÒ CHƠI TRONG CÁC TIẾT DẠY TIẾNG ANH CỤ THỂ) 1. Checking – up (Kiểm tra bài cũ) Thay cho việc gọi học sinh lên bảng kiểm tra bài theo kiểu thầy, cô hỏi trò trả lời một cách khô khan, cứng nhắc làm cho học sinh sợ sệt, tạo không khí lớp học căng thẳng ngay từ đầu tiết học. Tôi sẽ gọi một hoặc một nhóm học sinh lên chơi trò chơi liên quan đến nội dung bài đã học. Nếu học sinh làm đúng yêu cầu thì tôi cho điểm. Ví dụ 1: khi dạy Unit 12: Let’s eat phần A2, A3 (b) - Tiếng Anh lớp 7 thì tiến hành kiểm tra bài cũ như sau: Giáo viên chuẩn bị một số trái cây, rau củ (nếu không có trái cây thật ta có thể sử dụng mô hình hoặc tranh màu) như: đậu ve (peas) , dưa chuột (cucumber), rau củ, quả (vegetables) , cà rốt (carrot), cam (orange), dứa (pineapple), sầu riêng (durian). Gọi 2 học sinh lên bảng, giáo viên đặt tất cả đồ chơi bằng mô hình, vật thật hoặc tranh lên một cái bàn hoặc ghế ở giữa 2 học sinh sao cho khoảng cách mỗi học sinh đến bàn là bằng nhau. Giáo viên hô to mỗi tên đồ vật bằng Tiếng Anh, học sinh chạy đến lấy. Ai lấy được nhiều hơn sẽ là người thắng cuộc và dành được điểm cao hơn. Việc này sẽ giúp học sinh nhớ lại những từ vựng đã được học ở bài trước tốt hơn là chỉ gọi các em lên viết từ mới trên bảng như nhiều người thường áp dụng. Ví dụ 2: Trước khi dạy Unit 9: Cities of the world – Loong back and project – Tiếng Anh 6 thí điểm thì tôi kiểm tra bài cũ học sinh bằng cách sau: Giáo viên đưa ra tên các châu lục ở cột đầu tiên, yêu cầu học sinh tìm những từ liên quan đến các chủ đề: quốc gia, thủ đô, thành phố, địa danh ở các cột còn lại, những từ ở các cột còn lại phải là những địa danh có liên quan đến châu lục đó. Trò chơi này có thể được gọi là “Về đích”. Trò chơi này sẽ giúp các em củng cố lại các từ vựng liên quan tới châu lục, quốc gia, thành phố đã học ở những tiết trước và mở rộng thêm vốn từ cho các em. Em nào có nhiều ý trả lời đúng nhất thì tôi sẽ cho điểm em đó. Để thực hiện tốt và hiệu quả trò chơi này, giáo viên phải có định hướng và giao cho học sinh tìm hiểu trước như một phần bài tập về nhà. Nếu thực hiện ngay mà không có sự chuẩn bị trước sẽ khó khả thi. Continent Country Capital City Landmark Asia China Beijing Shanghai Great Wall of China Europe Sweden Stockholm Stockholm Royal Palace, Old Town Africa Egypt Cairo Tanta Nile River, The Pyramid of Giza Australia Australia Sydney Melbourne Sydney Opera House South America Brazil Brasília  Rio de Janeiro. Iguazu Waterfall, Savaldo beach North America The USA New York Los Angeles, California. Statue of Liberty, Times Square 2. Warm-up (Dẫn nhập vào bài) Hoặc là khi tôi muốn dẫn nhập, giới thiệu bài mới (warm up), dùng trò chơi cũng là một biện pháp tích cực, tạo không khí sôi nổi khi vào bài học. Khi dạy Unit 5: Work and play – A – In class (A1) Tiếng Anh lớp 7 tôi cho học sinh chơi trò chơi Kim’s game. Yêu cầu học sinh nhìn vào một số bức tranh được chiếu trong vòng 1 phút và sau đó nêu tên những môn học xuất hiện trong bức tranh đó. Sau đó tôi sẽ giới thiệu cho học sinh: “Chúng ta đã được học rất nhiều môn học khác nhau và trong từng môn học các em sẽ học những nội dung khác nhau. Vậy để tìm hiểu cụ thể trong từng môn học chúng ta sẽ nghiên cứu những vấn đề gì thì chúng ta sẽ đi vào nội dung bài học ngày hôm nay” thay vì vào bài một cách buồn tẻ bằng cách nói trực tiếp ra nội dung bài học ngay. C. The New lesson Warm – up T: show some pictures, ask Ss to observe in some seconds then give the names of the subjects they saw. Ss: look at the pictures and give the names of the subjects T: show all the pictures again and give the correct names of the subjects Ss: compare the answers Khi dạy Unit 9: The first aid course phần Getting stared - Listen and read - Tiếng Anh lớp 8 thì giáo viên có thể giới thiệu bài bằng cách: viết sẵn một số từ ở trong những mẩu giấy nhỏ (flashcards) có màu sắc khác nhau: headache (đau đầu), broken leg (gãy chân,) nose bleed (chảy máu cam), having a bad cut on arm (bị thương ở cánh tay) gấp giấy lại và yêu cầu một học sinh lên bảng chọn một tờ bất kỳ và diễn tả cho cả lớp hiểu bằng hành động, diễn tả đúng và các bạn đoán được thì sẽ được phần thưởng. Cứ tiếp tục như vậy cho tới khi hết từ giáo viên chuẩn bị. Giáo viên hỏi học sinh “What will we do if we or the others have them?” “And today we will learn how to solve these problems.” 3. The New lesson (Dạy bài mới) Trong quá trình dạy học ngôn ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng thì tôi thấy rằng việc sử dụng trò chơi là biện pháp hiệu quả nhất. Cũng giống như khi dạy một đứa trẻ làm quen với ngôn ngữ thì ta dùng trò chơi để dạy trẻ thì sẽ có hiệu quả hơn nhiều. Vậy sử dụng trò chơi là cách dạy hiệu quả, phù hợp với mọi trình độ, lứa tuổi. Trong quá trình dạy bài mới môn tiếng Anh luôn luôn xuất hiện rất nhiều từ mới. Tôi thường áp dụng các trò chơi sau phần dạy từ mới để củng cố lại những từ vựng các em mới được học , để học sinh khắc sâu nội dung bài học và từ đó thuộc bài mới ngay tại lớp. Phần này được gọi là phần củng cố từ vựng. Ví dụ : Unit 12: A vacation abroad – Listen – Tiếng Anh 8, sau khi dạy những từ mới có trong nội dung bài nghe về thời tiết và nhiệt độ ở các thành phố trên thế giới, tôi tiến hành củng cố từ vựng cho các em bằng cách giới thiệu trò chơi “Cool pair matching”. Đây là một trò chơi rất quen thuộc và phổ biến đã xuất hiện trong cuộc thi Olympic Tiếng Anh trên mạng một thời được các em học sinh rất ưa chuộng. Nhiệm vụ của các em là nối những từ hoặc cụm từ Tiếng Anh với các bức tranh hoặc nghĩa tiếng Việt tương ứng. Hoạt động này tôi thực hiện luyện tập cá nhân cho học sinh để em nào cũng có cơ hội trả lời. Trong đó tôi chỉ lựa chọn những từ vựng trọng tâm hoặc gây khó nhớ để giúp các em ghi nhớ dễ hơn. T: introduce new words by using pictures or explanation Ss: listen, repeat and take notes T: ask Ss to read new words in chorus Ss: read in chorus T: call some Ss to read individually Ss: read individually T: correct if wrong T: consolidate vocabulary by asking Ss to do the “cool pair matching” Ss: do the matching Trong sách tiếng Anh 6 thí điểm cũng có nhiều nội dung của các đơn vị bài học mà chúng ta có thể áp dụng các trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh. Lấy ví dụ khi dạy Unit 1: My new school – Getting started phần 3 – Match the words with the school things, sau khi dạy xong từ mới bằng cách cho học sinh nối những từ tiếng Anh với những bức tranh về đồ dùng học tập, sau đó nghe và kiểm tra lại. Giáo viên có thể củng cố và mở rộng vốn từ cho học sinh bằng cách cho học sinh chơi trò chơi “Sờ vật đoán tên”. Giáo viên chia lớp thành bốn đội. Chuẩn bị sẵn bốn giỏ đồ trong đó có chứa các dụng cụ học tập hoặc các đồ vật liên quan tới chủ đề “school things”. Gọi lần lượt đại diện của từng nhóm lên. Mỗi em sẽ được sờ vào các đồ vật có trong giỏ đồ sau đó gọi tên chúng bằng Tiếng Anh một cách chính xác nhất. Đại diện của đội nào gọi tên chính xác được nhiều từ hơn thì sẽ giành chiến thắng. Trò chơi này dễ thực hiện bởi vì có nhiều em học sinh có vốn từ rất lớn, các em cũng đã được học về chủ đề này ở lớp dưới rồi. Trò chơi thường được thực hiện trong những nội dung liên quan tới từ vựng. Nhưng trong các phần dạy ngữ pháp khô khan chúng ta cũng có thể lồng ghép trò chơi giúp cho lớp học sôi nổi hơn. Trong Unit 3: My friends – Getting started – phần 1b, sau khi dạy cấu trúc câu yêu cầu với “Can you + V-inf” và câu đề nghị với “Would you like to + V-inf”, giáo viên cho học sinh luyện tập thêm về cấu trúc này bằng cách chơi trò chơi “Lucky number”. Cắt 6 mẩu giấy nhỏ. Đánh số từ 1 tới 6. Cho học sinh luyện tập theo cặp, lần lượt chọn một số. Nhìn vài bảng từ cho sẵn, hoặc là tự mình yêu cầu sự giúp đỡ hoặc đề nghị. Nếu bốc trúng số 1,3,5: đặt câu yêu cầu; 2,4,6: đặt câu đề nghị, bạn còn lại trong cặp đáp lại lời yêu cầu hoặc đề nghị của bạn trước đó. Việc luyện tập này sẽ giúp các em sử dụng thành thạo và không bị nhầm lẫn hai loại cấu trúc trên. Những cặp nào nói tốt nhất sẽ được cho điểm hoặc tặng quà. Nhiều người cho rằng dạy Viết (writing) thì sẽ gây nhàm chán, vậy tại sao giáo viên không tạo hứng khởi cho học sinh bằng những trò chơi? “Học mà chơi, chơi mà học” sẽ làm cho học sinh khắc sâu kiến thức hơn, sử dụng ngôn ngữ đích nhiều hơn. Ví dụ như khi dạy phần Viết ở Unit 1 tiếng Anh lớp 8 tôi sẽ cho học sinh chơi trò “ Who is the best friend?” – “Ai là người bạn thân”. Sau khi hướng dẫn học sinh cách để mô tả ngoại hình và tính cách của một người, yêu cầu tất cả các học sinh tả về người bạn nào đó trong lớp mà mình thích nhất nhưng phần tên để trống, chỉ ghi tên người được mô tả ở dưới cùng của bài, và phải bí mật với bạn bên cạnh. Giáo viên sẽ thu hết các bài và chọn một số bài bất kỳ đọc to cho cả lớp nghe. Nếu bạn nào trong lớp đoán được tên bỏ trống là ai thì người mô tả và người đoán được ghi điểm. Ví dụ : Her name is .. and she is 14 years old. She lives at 20 Tran Phu street with her father, mother and her sister, Lan. She is tall and fat. She has long black hair. She is is hard-working, humorous and helfup. Her best friend is Giang Anh. (NGUYEN THI THUY GIANG) (lớp 8A7) Sau khi đọc xong bài viết của học sinh đó thì giáo viên sẽ hỏi cả lớp “Who can guess this person?”. Nếu ai đoán là Nguyễn Thị Thùy Giang sẽ được ghi điểm và tác giả của bài viết cũng được ghi điểm vì mô tả chính xác. 4. Tổng kết bài học (Consolidation) Trong sách giáo khoa Tiếng Anh 6 thí điểm, mọi kĩ năng đều được lồng ghép vào các bài học. Ví dụ như khi dạy Unit 4: My neighborhood – Getting started, sau khi học phần 5 về một số lời hướng dẫn chỉ đường, chúng ta cho các em chơi trò chơi: “Chiếc ghế âm nhạc”để cho các em vừa luyện nghe vừa tổng kết bài học. Chọn 7 học sinh bất kì. Chuẩn bị 6 chiếc ghế nhựa xếp theo hình vòng tròn sát nhau. Các học sinh đứng thành hình vòng tròn xung quanh những chiếc ghế. Giáo viên in các bức tranh theo đúng 7 cụm từ chỉ đường vừa học ở phần 5 đặt ở giữa vòng tròn những chiếc ghế. Bắt đầu bật nhạc theo file nhạc có sẵn. Tất cả các học sinh phải nghe nhạc đi thành vòng tròn theo chiều kim đồng hồ xung quanh ghế. Khi giáo viên bất ngờ tắt nhạc, sau đó hô to một cụm từ bất kì, mỗi bạn phải nhanh chóng tìm ra bức tranh phù hợp với câu nói của giáo viên và nhanh chóng ngồi xuống một chiếc ghế. Khi nhạc tắt, em nào không ngồi được vào ghế sẽ bị loại. Tiếp tục như vậy 5 vòng nữa, em nào là người ngồi lại ở chiếc ghế cuối cùng thì em đó là người chiến thắng. Lưu ý giáo viên liên tục xếp ghế sao cho số lượng ghế luôn ít hơn một cái so với số thành viên tham gia. Go straight on Turn left at the traffic lights Go past the bus stop Take the first turning on the left Go to the end of the road Go along the street Cross the street Mục đích của trò chơi này nhằm giúp cho các em biết cách sử dụng các cụm từ chỉ đường thông qua đó biết chấp hành đúng luật lệ giao thông khi nhìn thấy các biển báo đó. 5. Ôn tập kiểm tra Tiết ôn tập cũng là một tiết học cần nhiều hứng thú để học sinh khắc sâu kiến thức tự tin hơn trước khi bước vào các kỳ thi. Giáo viên có thể tổ chức chơi các trò chơi truyền hình như “Who is the milionaire? - Ai là triệu phú” hay “The Golden bell contest - Rung chuông vàng” để tất cả học sinh đều có cơ hội thể hiện mình. Ví dụ khi ôn tập để chuẩn bị kiểm tra định kỳ học kỳ 2 Tiếng Anh lớp 8 ta có thể cho học sinh thi “Rung chuông vàng” dưới dạng trả lời nhanh. Trước khi thực hiện tiết ôn tập giáo viên yêu cầu mỗi học sinh mang theo bảng nhỏ. Ví dụ: Question 1 Give the correct form of verbs: While my father (read) . books, my mother (cook) meal last night. Question 2: Rewrite these sentence They have built a new church near my house. A new church Sau thời gian suy nghĩ và học sinh đưa ra đáp án , giáo viên đưa ra câu trả lời Question 1: was reading – was cooking Question 2: A new churchh has been built near my house. Sau khi kết thúc trò chơi học sinh nào trả lời được nhiều câu hỏi nhất sẽ được khen thưởng. Hay là trong trò chơi “Ai là triệu phú?” , giáo viên chuẩn bị sẵn các câu hỏi dưới hình thức trắc nghiệm, giáo viên chia học sinh thành 4 đội. Mỗi đội chuẩn bị sẵn 1 tấm bảng nhỏ để ghi đáp án đúng của đội mình. Sau khi dành thời gian cho các đội suy nghĩ giáo viên hô “Time is over!” . Các đội cùng giơ cao kết quả đội nào trả lời đúng nhiều câu hỏi nhất sẽ là đội chiến thắng. Ví dụ: Question 1: .is often called “The windy city” A. New York B. San Francisco C. Chicago D. Ha Noi Đáp án : C. Chicago Question 2: “Do you like watching TV?” She said. A. She asked me if I liked watching TV. B. She asked me if I like watching TV. C. She asked me whether I liked watching TV. D. A and C are correct. Đáp án: D. A and C are correct. Trong các tiết ôn tập thì việc củng cố nội dung của các bài đọc trong sách hết sức cần thiết, để đạt hiệu quả cao trong việc thống kê lại kiến thức cho học sinh thì ta có thể cho học sinh chơi trò “Don’t believe your eyes but your ears” (đừng tin vào mắt chỉ tin vào tai). Trò này giống trò: “làm như tôi nói, đừng làm như tôi làm” Cách thực hiện như sau: giáo viên chuấn bị các bức tranh về các từ vựng liên quan đến nội dung các bài đã học (nhiều hay ít tùy vào thời gian dành cho trò chơi của tiết ôn tập đó) , chuẩn bị cho mỗi đội thi một bộ giống như của giáo viên . Khi thực hiện giáo viên giơ lên một tấm hình bất kỳ, và hô to tên của tấm hình khác. Học sinh phải đưa ra chính xác các tấm hình mà giáo viên gọi tên. Đội nào chính xác nhiều nhất là đội chiến thắng. Ví dụ khi ôn tập để kiểm tra định kỳ 2 học kì 2 Tiếng Anh lớp 9, giáo viên có thể chuẩn bị các bức tranh như sau: Father’s day Peach blossoms Vocano Christmas tree Tidal waves Easter Tornado Earthquake Khi thực hiện giáo viên có thể giơ tấm hình “Easter” lên và hô “Tornado” nhiệm vụ vủa học sinh là phải giơ đúng tấm hình “Easter” mà giáo viên gọi tên. IV. TÍNH MỚI CỦA GIẢI PHÁP Thông qua việc sử dụng trò chơi đổi mới được hình thức kiểm tra bài cũ và tăng thêm sự hấp dẫn, sinh động cho phần dẫn nhập trước khi học bài mới. V. HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Trong phần giải pháp tôi có áp dụng trò chơi khi dạy các lớp Tiếng Anh 6 thí điểm, nhưng chưa có sự đối chiếu được do các em đang là học sinh đầu cấp, tôi chỉ áp dụng một số trò chơi để tăng tính sinh động cho bài học và thấy các em cũng rất hào hứng. Từ những thực trạng đã nêu trước đó, sau khi áp dụng các trò chơi vào trong công tác giảng dạy, tôi đã thu được kết quả khá khả quan trong học kì I năm học 2018 – 2019 ở một số lớp tôi đã khảo sát kết quả của năm học trước như sau: Năm học Lớp SL Giỏi Khá Tb Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 2018-2019 7ª5 28 4 14,3 14 50 8 28,6 2 7,1