Sản xuất tự cung tự cấp là gì vị dụ

Mục lục bài viết

  • Khái quát về hàng hóa và sản xuất hàng hóa.
  • Phân tích những điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.
  • Phân công lao động xã hội.
  • Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
  • Ưu điểm.
  • Khuyết điểm.
  • Giải pháp.

Khái quát về hàng hóa và sản xuất hàng hóa.

Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi mua bán.

Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm do lao động tạo ra nhằm để thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất. Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán. Hay nói cách khác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó, sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác thông qua trao đổi, mua bán.

Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của loài người. Sản xuất hàng hóa làm xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và làm nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.

Phân tích những điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.

Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đủ hai điều kiện đó là có phân công lao động xã hội và có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.

Phân công lao động xã hội.

Phân công lao động xã hội chính là điền kiện cần cho sản xuất hàng hóa ra đời. Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, nghề khác nhau. Phân công lao động xã hội tạo sự chuyên môn hóa lao động, do đó dẫn đến chuyên môn hóa sản xuất.

Cơ sở của phân công lao động xã hội đó là: dựa trên những ưu thế về tự nhiên, kĩ thuật, năng khiếu, sở trường của từng người cũng như của từng vùng; dựa trên những đặc điểm, ưu thế về mặt xã hội như phong tục, tập quán, ăn ở,… của từng vùng.

Phân công lao động có vai trò đó là làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu vì khi có phân công lao động xã hội thì mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất định nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi nhiều sản phẩm dẫn đến họ phải trao đổi sản phẩm với nhau. Ngoài ra, phân công lao động xã hội còn làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên, do đó ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư lên trao đổi.

Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. Vì vậy, muốn sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai.

Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.

Bên cạnh điều kiện cần là sự phân công lao động xã hội, thì cần phải có điều kiện đủ, đó là phải có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất.

Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế tức là những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế hoặc do họ chi phối, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.

Có ba cơ sở của điều kiện này. Trong lịch sử, sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định còn trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.

Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Cụ thể, sản xuất hàng hoá ra đời trong chế độ chiếm hữu nô lệ. Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động. Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm cùa người khác phải thông qua việc mua - bán hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hóa.

Cơ sở thứ ba đó là do sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng trực tiếp tư liệu sản xuất quy định. Sự tách biệt về kinh tế không chỉ ở sự khác biệt về quyền sở hữu mà còn khác biệt ở quyền sử dụng những khối lượng tư liệu sản xuất khác nhau của cùng một chủ thể sở hữu. Khi sự tách biệt về kinh tế giữa những chủ thể sản xuất tồn tại trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội thì việc trao đổi sản phẩm giữa những chủ thể khác nhau phải đảm bảo được lợi ích của họ. Điều đó chỉ có thể có được khi trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá, có đi có lại tức là trao đổi hàng hóa, sản phẩm của lao động trở thành hàng hóa.

Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất làm cho sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc chi phối của người sản xuất đó, do đó họ mới có quyền mang nó đi bán. Thêm vào đó, sự tách biệt ấy còn làm cho quan hệ trao đổi của chủ thể đó tất yếu mang hình thái trao đổi hàng hóa, vì sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế làm cho những chủ thể sản xuất ấy có lợi ích kinh tế độc lập với nhau. Chính vì vậy, sản phẩm làm ra phải mang hình thức trao đổi theo nguyên tắc ngang giá mới công bằng, bình đẳng, đảm bảo lợi ích của các chủ thể đó.

Trên đây là hai điều kiện cần và đủ để có sản xuất và trao đổi hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai điều kiện sẽ không có sản xuất và trao đổi hàng hóa. Vì vậy, sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch sử tức là nó chỉ tồn tại khi có cả hai điều kiện và mất đi khi một trong hai điều kiện đó mất đi.

Ưu điểm.

Sản xuất hàng hóa ra đời khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng địa phương, từng vùng ở Việt Nam. Ví dụ như vùng đồng đồng bằng sông Cửu Long, vì thuận lợi cho phát triển nông nghiệp lúa nước nên đây là nơi cung cấp lương thực chủ yếu cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Sản xuất hàng hoá là để trao đổi đáp ứng nhu cầu của xã hội nên người sản xuất có điều kiện để chuyên môn hoá cao. Trình độ tay nghề được nâng lên do tích luỹ kinh nghiệm, tiếp thu được tri thức mới. Công cụ chuyên dùng được cải tiến, kỹ thuật mới được áp dụng do đó cạnh cạnh tranh ngày càng gay gắt khiến cho năng suất lao động được nâng lên, chất lượng sản phẩm ngày càng được cải thiện và tốt hơn. Hiệu quả kinh tế được trú trọng làm mục tiêu đánh giá sự hoạt động của các thành phần kinh tế. Quy mô sản xuất được mở rộng tạo điều kiện cho việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển.

Sự tác động của các quy luật: Quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh… buộc người sản xuất phải luôn năng động, nhạy bén, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho đời sống vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng được tăng cao, phong phú và đa dạng. Quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường ngày càng được chủ thể sản xuất hàng hoá vận dụng có hiệu quả hơn và từ đó ngoài các quan hệ kinh tế phát triển mà các quan hệ pháp lý xã hội, tập quán, tác phong cũng thay đổi.

Bình quân GDP của Việt Nam khi chuyển sang nền sản xuất hàng hóa sau thời kỳ đổi mới tăng qua các năm. Từ năm 1986 – 1990, GDP của KV1 là 2,7%, KV2 là 4,7% và KV3 là 5,7%. Từ năm 1991 – 1995, GDP của KV1 là 4,1%, KV2 là 12%, KV3 là 8,6%. Từ năm 1996 – 2000, GDP của KV1 là 4,4%, KV2 là 10,6%, KV3 là 5,7%.

Sản xuất hàng hóa làm cho Việt Nam từ một đất nước kém phát triển trở thành một đất nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đời sống vật chất càng ngày càng đầy đủ cũng như đời sống tinh thần được cải thiện và ngày càng phong phú.

Khuyết điểm.

Làm Phân hóa đời sống dân cư, phân hóa giàu nghèo dẫn đến khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát. Xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội gắn liền với hiện trạng kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội

Vì chạy theo lợi nhuận tối đa dẫn đến sử dụng bừa bãi, tàn phá tài nguyên và hủy diệt môi trường ,sinh thái( điển hình là các công ty xả thải bừa bãi ra ngoài môi trường làm ô nhiễm môi trường). Năm 2004, 5 doanh nghiệp tư nhân đã nhập khẩu 230 tấn phế liệu không đúng với thực tế khai báo về cảng sài gòn đã vi phạm về quy định bảo vệ môi trường. Đặc biệt phải kể đến đó là vụ Formosa Hà Tĩnh năm 2016 đã dội lên một làn sóng phẫn nộ của người dân trên cả nước. Nước thải công nghiệp của công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formusa Hà Tĩnh thải trái phép chưa qua xử lý ra môi trường biển đã làm cho hải sản chết hàng loạt ven biển bốn tỉnh miền Trung, gây thiệt hại nặng nề về tài sản và môi trường sinh thái dưới biển, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh, du lịch và đời sống cũng như sức khỏe của người dân. Ở Việt Nam, các “làng ung thư” xuất hiện ngày càng nhiều.

Để tối thiểu hóa đầu tư, tối đa hóa lợi nhuân, các doanh nghiệp bất chấp sức khỏe người tiêu dùng, làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Các vụ việc làm sữa lậu, trà sữa làm từ nguyên liệu kém chất lượng, ngộ độc trà sữa,… ngày càng nhiều.

Giải pháp.

Để khắc phục những khuyết tật, hạn chế của nền sản xuất hàng hóa thì vai trò của nhà nước rất quan trọng. Chính từ tính ưu việt rất riêng, rất có lợi (tuy bên cạnh đó vẫn còn có những khuyết tật) của sản xất hàng hoá mà tại Đại hội VII Đảng ta đã xác định phương hướng : Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.

Nhà nước cần phải tăng cường điều chỉnh và quản lý vĩ mô một cách kiên quyết và khôn khéo để mọi hoạt dộng vào khuôn khổ và đều tuân theo pháp luật. Nhà nước cần thiết lập khuôn khổ pháp luật về kinh tế kết hợp với các luật về bảo vệ môi trường sinh thái để xác định hành vi kinh doanh là hợp pháp hay không và có biện pháp xử lý khi có cá nhân hoặc tổ chức vi phạm. Thêm vào đó, Nhà nước phải sử dụng có ý thức các quy luật kinh tế khách quan vào quản lý nền kinh tế sản xuất hàng hóa để phát huy những ưu thế vốn có và ngăn ngừa, hạn chế những mặt trái khuyết tật của nó. Chính vì vậy, sử dụng "Bàn tay hữu hình" của Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo ra hành lang và bước đi cho nền kinh tế thị trường vận động theo định hướng XHCN.

Video liên quan

Chủ đề