Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao sau cách mạng tháng Tám

Giới thiệu đôi nét và thuyết minh về Nam Cao

Nam Cao (sinh năm 1917 – mất năm 1951), tên khai sinh là trần Hữu Tri, ông là người con của làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân), tỉnh Hà Nam. Vì dành tình cảm sâu đậm dành cho quê hương nên ông đã dùng từ Nam trong tên huyện và từ Cao trong tên tỉnh để ghép lại thành bút danh của mình là Nam Cao.

Ông sinh thành trong một gia đình nông dân có cuộc sống khá vất vả nhưng vẫn tạo điều kiện cho ông được học hành. Sau khi học hết bậc thành chung thì Nam Cao bắt đầu tự thân lao động để kiếm sống. Nam Cao từng làm qua nhiều nghề nhưng đời sống vẫn rất chật vật, khó khăn và khi đến với công việc việc sáng tác thì dường như cũng vì hai chữ mưu sinh.

Sau khoảng thời gian vào Nam để kiếm sống, ông bị bệnh nên trở ra Bắc và vẫn tích cực sáng tác. Năm 1943, Nam Cao tham gia Hội văn hóa cứu quốc. Trong giai đoạn cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động văn nghệ ở Hà Nam, Việt Bắc và năm 1950, ông là đứng trong hàng ngũ của những người lính tham gia chiến dịch Biên giới. Năm 1951, khi Nam Cao đang trên đường đi công tác ở Ninh Bình, ông đã hi sinh.

Tuy là một người có vẻ bề ngoài lạnh lùng nhưng Nam Cao lại là một con người có trái tim ấm nóng tình đời, tình người. Ông luôn dành cho quê hương và con người tình cảm chan chứa yêu thương và sự gắn bó tha thiết. Đặc biệt, với những phận người sống đời áp bức, cơ cực, Nam Cao lại càng có sự cảm thương sâu sắc. Và tất cả những trăn trở, những suy tư của nhà văn về cuộc sống và con người dường như ông đều gửi hết vào trong những sáng tác của mình với tấm lòng đôn hậu, dạt dào tình thương yêu.

Với những đóng góp to lớn cho văn học nước nhà, nhất là những thành tựu từ các truyện ngắn và tiểu thuyết ở nửa đầu thế kỉ XX, Nam Cao đã được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật ngay đợt vinh danh đầu tiên vào năm 1996.

Phong cách sáng tác là gì? Quan điểm nghệ thuật là gì?

Khái niệm phong cách sáng tác là gì?

Phong cách sáng tác, còn được gọi là phong cách nghệ thuật được định nghĩa là một phạm trù thẩm mĩ, cho thấy sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng cũng như các phương tiện biểu hiện nghệ thuật. Phong cách sáng tác cho thấy điểm nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, ở một tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc.

Đặc điểm của phong cách nghệ thuật

  • Phong cách chính là con người của nhà văn.
  • Phong cách sáng tác cho thấy cách nhìn của nhà văn trước cuộc đời.
  • Phong cách sáng tác của nhà văn cho thấy nét riêng không trùng lặp, đậm tính cá thể.
  • Phong cách sáng tác chịu ảnh hưởng của những phương diện tinh thần.

Khái niệm quan điểm nghệ thuật là gì?

Quan điểm nghệ thuật được định nghĩa là lập trường hay tư tưởng của người nghệ sĩ. Quan điểm nghệ thuật cũng chính là nền tảng định hướng những sáng tác của nhà văn, nhà thơ…Quan điểm nghệ thuật còn được hiểu là đường hướng và mục đích của nghệ thuật. Có 2 quan điểm nghệ thuật chính:

  • Nghệ thuật vị nghệ thuật.
  • Nghệ thuật vị nhân sinh.
Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao sau cách mạng tháng Tám
Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao qua một số tác phẩm

Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao - Bài mẫu 1

Nam Cao là một nhà văn hiện thực kiệt xuất và để lại cho nền văn học nước nhà những tác phẩm giàu giá trị. Góp phần tạo nên sự thành công của những sáng tác ấy chính là nhờ vào tình cảm chân thành dành cho cuộc đời cùng với tài năng nghệ thuật của nhà văn. Đặc biệt, trong các sáng tác của Nam Cao, người đọc sẽ nhận thấy những quan điểm nghệ thuật của ông được thể hiện một cách nhất quán và tiến bộ.

  • Mục đích của nghệ thuật trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao

Suốt một đời cầm bút, Nam Cao luôn trăn trở về ý nghĩa công việc viết văn mà mình theo đuổi để rồi ông đã tìm được câu trả lời cho mình. Ông nhận ra rằng dường dù thể hiện theo những cách như thế nào thì điều quan trọng rất cần phải hướng đến và gắn bó với đời sống của quần chúng nhân dân.

Nam Cao không đồng tình với thứ văn chương xa rời, lãnh đạm với đời sống đen tối, bất công mà con người chịu đựng. Với những cách viết như thế, nhà văn cho rằng dù có đẹp, có hay nhưng đó chỉ là cái đẹp, cái hay của“ánh trăng lừa dối”. Trong“Trăng sáng”(1942), nhà văn đã phát biểu đanh thép cách nhìn nhận đó của mình bằng một tuyên ngôn:“Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật phải là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp lầm than”.

Với tuyên ngôn đó, ta có thể nhận thấy quan điểm nghệ thuật của Nam Cao là đứng về phía đối lập với quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật để tỏ rõ mong muốn rằng nghệ thuật rất cần đồng hành cùng với những đau đớn, lầm than của con người. Do đó, trong các tác phẩm của mình, Nam Cao không hề né tránh mà luôn nhìn thẳng vào sự thật dù cho nó có “tàn nhẫn” thông qua cách phản ánh bộ mặt của đời sống xã hội. Ông không ngại vạch trần bộ mặt tàn ác, xấu xa của bọn thống trị như Bá Kiến đã khiến cho cuộc sống con người trở nên bi thảm, đau thương. Bên cạnh đó, Nam Cao còn tái hiện rất chân thực đời sống cơ cực, khổ sở của những người bị áp bức, bóc lột đến mức trở nên tuyệt vọng và tha hóa, chẳng hạn như Lão Hạc.

Với Nam Cao, mục đích nghệ thuật luôn có mối quan hệ mật thiết với đời sống của con người. Ông thẳng thắn lên tiếng tố cáo cái xấu, cái ác và thể hiện tình yêu thương sâu sắc đến những người khốn khổ, cùng quẫn trong xã hôị lúc bấy giờ.

  • Giá trị của tác phẩm trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao

Nam Cao luôn tôn trọng, đề cao giá trị nhân đạo trong tác phẩm của mình. Ông xem đó chính là linh hồn, là cái làm nên giá trị của một tác phẩm. Đó là thái độ phê phán mạnh mẽ của ông với xã hội thực dân phong kiến độc ác, bất nhân có thể chà đạp lên nhân phẩm và quyền sống của con người. Tính nhân đạo đã được nhà văn khẳng định trong tác phẩm“Đời thừa”(1943) của mình như sau:“Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, sẽ là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao và mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”.

Nam Cao cho rằng dù trong bất kì hoàn cảnh nào, chất người cũng không dễ bị mất đi và nó luôn có sẵn trong bản thân của mỗi người, dù có khi bị nghịch cảnh vùi dập không thương tiếc. Nhà văn tin chắc chỉ cần có cơ hội, chất người ấy lại trỗi dậy vô cùng mạnh mẽ. Thị Nở dù có dở hơi, xấu xí nhưng hóa ra cũng đã có lúc đã mang lại cho người đã từng sống cuộc sống vô nghĩa như Chí Phèo cảm nhận được chút gì đó của tình người.

  • Sứ mệnh của nhà văn

Không chỉ thể hiện cách nhìn về giá trị của một tác phẩm mà Nam Cao còn cho thấy quan điểm của mình về sứ mệnh của một nhà văn.

Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao thể hiện ở việc ông coi lao động nghệ thuật là một quá trình hoạt động nghiêm túc, công phu và con người làm nghệ thuật rất cần sự cẩn trọng. Do đó, ông lên án gay gắt sự cẩu thả trong nghề văn:“Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thật là đê tiện”

Vì lẽ đó, bản thân Nam Cao luôn cố gắng tìm tòi, khám phá để tạo nên những điều mới mẻ ở cả nội dung và hình thức thể hiện.

Với những quan điểm nghệ thuật vừa mới mẻ, vừa tiến bộ, Nam Cao đã cho ra đời những tác phẩm văn học có giá trị lớn lao. Những tác phẩm ấy chính là những đóng góp giá trị cho nền văn học nước nhà và giúp cho tên tuổi của nhà văn sống mãi trong lòng người đọc bao thế hệ với sự trân trọng và ngưỡng mộ.

Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của trào lưu hiện thực phê phán thời kỳ 1940-1945, là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954.

  • Nhà văn Nam Cao vẫn ở trong tâm trí chúng ta


Với 15 năm cầm bút, ông đã để lại một văn nghiệp đồ sộ với 2 tiểu thuyết, 50 truyện ngắn, bút ký…, trong đó có những nhân vật như lão Hạc, giáo Thứ, Bá Kiến, Thị Nở, Chí Phèo … không thể phai mờ trong tâm trí người đọc nhiều thế hệ.

* Nhà văn hàng đầu của chủ nghĩa hiện thực

Nam Cao viết truyện đầu tay lúc chưa tròn 20 tuổi, viết tác phẩm xuất sắc Chí Phèo lúc 26 tuổi, viết tiểu thuyết Sống mòn lúc 29 tuổi, viết bài ký Định mức phục vụ kháng chiến (1951). Với 15 năm cầm bút, ông đã kịp để lại một khối lượng tác phẩm không nhỏ, đặc biệt trong hệ thống tác phẩm của ông, nổi bật một phong cách Nam Cao trữ tình, sâu lắng, trào lộng, xót xa, hóm hỉnh mà tế nhị, sang trọng mà bình dị, tinh vi mà khái quát.

Ở đây có cả văn chương, có cả tâm huyết, có cả tài năng lớn của một ước vọng nhân văn cao đẹp mà nhà văn ký thác với cuộc đời. Sự nghiệp văn chương của Nam Cao có thể chia làm 2 thời kỳ rõ nét: Trước cách mạng và sau cách mạng.

Ngay từ những bước đi ban đầu, Nam Cao là một nhà văn hiện thực trong khả năng khái quát những mặt bản chất của xã hội cũ. Khi vật lộn kiếm sống ở Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may và bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác.

Các truyện ngắn của ông: Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư được đăng trên “Tiểu thuyết thứ bảy” và báo “Ích hữu”. Trở ra Bắc, Nam Cao dạy học ở trường tư thục Công Thành, đường Thụy Khuê, Hà Nội. Phát xít Nhật vào Đông Dương, trường bị trưng dụng, Nam Cao thôi dạy học. Truyện ngắn Cái chết của con Mực, và các bài thơ của ông đăng trên báo “Hà Nội Tân văn” với các bút danh Xuân Du, Nguyệt.

Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi (tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ) của Nam Cao do Nhà xuất bản Đời mới (Hà Nội) ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học thời đó. Sau này, khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo.

Tác phẩm Chí Phèo - một truyện ngắn xuất sắc được viết từ cái làng yêu dấu gắn với tuổi thơ của ông với những câu chữ đau vào tận gan ruột, viết về số phận người nông dân bị xã hội thực dân phong kiến đàn áp, biến dạng từ bần cùng hóa đến lưu manh hóa, đánh dấu bắt đầu sự nghiệp văn học của ông.

Từ tác phẩm để lại dấu ấn này, cho đến năm 1944, là thời kỳ sáng tác sung mãn và có hiệu quả nhất trong đời viết văn của Nam Cao. Ông đã đạt tới đỉnh cao chất lượng mới: Chất lượng ngôn ngữ nghệ thuật, chất lượng tư duy xã hội và tư duy văn học.

Trong các trang viết của mình, Nam Cao đã nhìn thấy và chỉ cho người đọc thấy cái xã hội trong nô lệ và lạc hậu xứ mình, cái xã hội phân chia đẳng cấp, bất công và phi nhân ấy đã làm tha hóa, biến dạng, biến chất con người ta như thế nào.

Xét một cách tổng thể, sáng tác của ông trước cách mạng tập trung vào hai đề tài lớn: Người tiểu tư sản nghèo và người nông dân, khai thác trực tiếp từ cuộc sống bản thân tác giả và bà con nông dân làng quê... Miêu tả chân thực cuộc sống nghèo khổ, tủi nhục của người tiểu tư sản, Nam Cao đặc biệt đi sâu vào những đau đớn trong tâm hồn của họ và đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc.

Đó là cái bi kịch của những kẻ khao khát sống cuộc sống có ý nghĩa chân chính mà cứ bị những lo lắng cơm áo hàng ngày giày vò, phải sống cuộc sống "đời thừa" vô nghĩa như các tác phẩm: Đời thừa, Nước mắt, Trăng sáng, Bài học quét nhà.

Nhiều truyện của Nam Cao cũng đã ghi lại cuộc đấu tranh tư tưởng của người tiểu tư sản, đấu tranh với sự cám dỗ của cuộc sống hưởng lạc tư sản (Quên điều độ, Trăng sáng, Truyện tình); đấu tranh với lối sống ích kỷ, dung tục tiểu tư sản để vươn tới lẽ sống nhân đạo.

Truyện dài Sống mòn (1944) là sự tổng hợp của những sáng tác về đề tài tiểu tư sản của Nam Cao. Truyện dài Truyện người hàng xóm (đăng báo 1944) miêu tả cuộc sống lam lũ tối tăm của một xóm nghèo ngoại ô, nhưng ánh lên cái nhìn lạc quan nhân đạo của những người nghèo khổ.

Với hơn hai chục truyện ngắn viết về nông dân (Chí Phèo, Lão Hạc, Một đám cưới, Một bữa no, Lang Rận, Điếu văn, Mua danh, Tư cách mõ...) Nam Cao đã dựng lên bức tranh về nông thôn Việt Nam những năm 1940-1945. Nhà văn thường đi vào cuộc sống những kẻ cùng khổ, thấp cổ bé họng, bị ức hiếp nhiều nhất. Đặc biệt đi sâu vào nỗi khổ của tâm hồn bị đày đọa, nhân phẩm bị xúc phạm và đã khẳng định mạnh mẽ bản chất đẹp đẽ của họ ngay cả khi họ bị vùi dập đến mất cả hình người, tình người.

Cùng với nhà văn hiện thực xuất sắc Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, các tác phẩm của Nam Cao thời kỳ 1941-1944 đã góp phần không nhỏ vào thành tựu của dòng văn học hiện thực Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Sau Cách mạng Tháng Tám, ngòi bút Nam Cao hoạt động với tư cách ngòi bút của một cán bộ làm báo, làm văn. Ngoài viết văn, ông còn viết tin, làm ca dao, soạn kịch ngắn tuyên truyền, viết hoặc dịch sách phổ thông về địa lý, lịch sử, thời sự. Ông coi đó là “những công việc nhũn nhặn, thầm lặng nhưng có ích”.

Trong mảng sáng tác sau cách mạng, Nam Cao đã để lại nhiều sáng tác có giá trị đặc sắc và tiêu biểu cho văn xuôi kháng chiến thời kỳ đầu. Nhật ký ở rừng (1948) viết trong thời kỳ ông công tác tại Bắc Kạn, đã thể hiện niềm yêu thương ấm áp đối với quần chúng miền núi chất phác mà thiết tha với cách mạng, niềm quyết tâm và tin tưởng của người nghệ sĩ tiểu tư sản trung thực đang nỗ lực vươn lên trong cuộc sống mới.

Truyện ngắn Đôi mắt (1948) là một truyện ngắn thành công nhất của Nam Cao trong kháng chiến. Chuyện biên giới và bút ký Vài nét ghi qua vùng giải phóng viết trong dịp nhà văn tham gia chiến dịch Cao Bằng-Lạng Sơn (1950), là những ký họa sinh động, tràn ngập không khí lạc quan, có những hình ảnh giản dị, đẹp đẽ về chủ nghĩa anh hùng, tất cả toát lên vẻ đẹp và sức mạnh tinh thần của bộ đội, nhân dân trong chiến dịch.

Nghệ thuật viết truyện của Nam Cao có những đặc sắc, độc đáo mà đa dạng. Các tác phẩm của ông vừa rất mực chân thành vừa có một ý vị triết lý, một ý nghĩa khái quát sâu xa. Ngòi bút hiện thực tỉnh táo, nghiêm ngặt vừa sắc lạnh, vừa gân guốc, lại vừa thắm thiết trữ tình.

Nhà văn tỏ ra có sở trường miêu tả tâm lý con người, nhất là khi đi vào miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế, phức tạp. Ngôn ngữ văn xuôi của ông cũng mới mẻ, gần gũi với ngôn ngữ của quần chúng, giản dị mà đậm đà, sống động nhất là trong ngôn ngữ đối thoại. Có thể nói, về nhiều mặt, các tác phẩm của Nam Cao đánh dấu một bước phát triển mới của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam.

* Một vài nét về cuộc đời nhà văn, liệt sĩ Nam Cao

Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29/10/1915 tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Cha ông là Trần Hữu Huệ (1890-1967) thợ mộc, làm thuốc, mẹ là Trần Thị Minh, làm vườn, làm ruộng, dệt vải. Vợ Nam Cao là bà Trần Thị Sen (1916-2002). Nhà văn Nam Cao có 4 người con (3 trai, 1 gái).

Khi còn nhỏ Nam Cao học ở làng và thành phố Nam Định. Học xong trung học, ông vào Sài Gòn sống gần ba năm với một người cậu. Từ 1936, bắt đầu viết văn trên các báo: Tiểu thuyết thứ bảy, ích hữu... Năm 1938 ông dạy học tại một trường ở ngoại ô Hà Nội và viết báo.

Năm 1941, ông dạy học ở Thái Bình. Năm 1942, ông trở về quê, tiếp tục viết văn. Năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hoá Cứu quốc và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương. Cách mạng Tháng Tám (1945), ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở phủ Lý Nhân, và được cử làm Chủ tịch xã.

Năm 1946, ông ra Hà Nội, hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc và là Thư ký tòa soạn tạp chí Tiên Phong của Hội. Cùng năm đó, ông tham gia đoàn quân Nam tiến với tư cách phóng viên, hoạt động ở Nam Trung Bộ một thời gian. Sau đó lại trở về nhận công tác ở Ty Văn hóa Hà Nam.

Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên chiến khu Việt Bắc, làm phóng viên báo Cứu quốc và làm thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc. Năm 1948, Nam Cao gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương. Năm 1950, ông nhận công tác ở tạp chí Văn Nghệ (thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam) và là ủy viên Tiểu ban Văn nghệ Trung -ương.

Ngày 30/11/1951, trên đường đi công tác vào vùng địch hậu liên khu III, Nam Cao cùng đoàn cán bộ thuế nông nghiệp bị địch phục kích và đã anh dũng hy sinh. Ông ngã xuống khi trang bản thảo cuối cùng của tác phẩm “Định mức” còn chưa khô mực.

Ông đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học, Nghệ thuật (đợt 1, 1996) cho các tác phẩm: Nhật ký ở rừng, Đôi mắt (truyện ngắn), Sống mòn (tiểu thuyết), Truyện ngắn chọn lọc (xuất bản năm 1964), Chí Phèo (truyện ngắn), Nửa đêm (truyện ngắn).

Trung tâm Tư liệu-TTXVN
Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao sau cách mạng tháng Tám
Nam Cao - sự nghiệp và chân dung

Với mục đích đem đến cái nhìn có tính hệ thống và chuyên sâu về nhà văn Nam Cao, Giáo sư Phong Lê vừa cho ra mắt cuốn sách Nam Cao - sự nghiệp và chân dung.

Chia sẻ:
Từ khóa:
  • Nam Cao,
  • hiện thực phê phán,
  • văn xuôi Việt Nam,