Quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm có phải là hạ thấp vai trò của người giáo viên không

Quan điểm lấy học sinh làm trung tâm ngày càng thể hiện rõ hơn trong công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam.

Chương trình giáo dục phổ thông mới đặt mục tiêu phát triển phẩm chất và năng lực học sinh. Tuy vậy, quan điểm này vẫn còn nhiều rào cản như: Đội ngũ nhà giáo chưa được trang bị lý luận về học sinh là trung tâm nên có giáo viên (GV) còn lúng túng khi dạy học; lối dạy học truyền thụ kiến thức một chiều, có thể kèm theo phát vấn vẫn là phổ biến; học sinh đa số vẫn còn thói quen học tập thụ động; GV và học sinh còn nặng tâm lý “ứng thí” dẫn đến dạy thêm, học thêm và coi nhẹ giáo dục về đạo đức, thẩm mỹ, thể chất.

Trong đánh giá thì nương nhẹ để học sinh có lợi khi xét tốt nghiệp, chuyển cấp; Bên cạnh đó, có người sợ rằng nếu lấy học sinh làm trung tâm sẽ hạ thấp vai trò của GV...

Nên xem thành tích học tập phần lớn do học sinh quyết định

Quan điểm học sinh làm trung tâm phù hợp với xu hướng giáo dục hiện đại. Giáo dục nhà trường là một quá trình có mục đích, có kế hoạch, được tiến hành dưới sự hướng dẫn, giảng dạy của GV. Nhưng xã hội lập ra trường học là vì lợi ích học tập của học sinh chứ không phải vì lợi ích hành nghề của GV. Với tên gọi là “trường học” thì HỌC là chính chứ không phải DẠY là chính.

Cần phải thay đổi quan niệm để thấy rằng thành tích học tập của học sinh do chính học sinh quyết định phần lớn. Nghiên cứu của John Hattie (Úc) năm 2003 chỉ ra rằng thành tích học tập của học sinh do học sinh chiếm 50%, GV đóng góp 30%, gia đình từ 5 - 10%, nhà trường từ 5 - 10%, bạn bè và môi trường từ 5 - 10%. Ở Việt Nam, những nghiên cứu gần đây cho thấy điều tương tự.

Việc dạy học muốn có hiệu quả phải xuất phát từ nhu cầu, động cơ, đặc điểm và điều kiện của người học. Vì vậy phải tiến hành dạy - học trên cơ sở hiểu biết năng lực đã có của học sinh, chú ý đến tư duy của từng em, dạy học phân hóa, không áp đặt theo suy nghĩ của GV. Trong bối cảnh kiến thức nhân loại tăng lên với tốc độ ngày càng cao, đòi hỏi học sinh phải tham gia vào quá trình học tập, không tiếp thu thụ động, mà tích cực suy nghĩ, hoạt động, tìm kiếm, khám phá tri thức, tự kiểm tra, đánh giá quá trình học tập của mình, tiến tới tự đào tạo và giải quyết vấn đề cuộc sống đặt ra một cách độc lập, sáng tạo.

\n

Vì vậy, không nên xem lấy học sinh làm trung tâm chỉ như là một phương pháp dạy học, mà đây chính là một tư tưởng, một quan điểm dạy học, chi phối cả mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và đánh giá học sinh.

Học sinh là trung tâm nhưng vai trò giáo viên ngày càng cao

Cần khẳng định rằng, nhu cầu học tập của học sinh ngày càng đa dạng, phong phú và cao về kiến thức, kỹ năng... do đó, yêu cầu về trình độ, năng lực, vốn hiểu biết của GV ngày càng được nâng lên. Người thầy vừa phải chú ý đến người học, vừa phải chú ý đến điều phải học, đến quá trình học tập. Đặc biệt trong bối cảnh công nghiệp 4.0, quá trình học tập được cá nhân hóa, dân chủ hóa, học sinh tự xây dựng kế hoạch học tập, có quyền phản biện, phát biểu những ý kiến, có khi khác với thầy nhưng vẫn được tôn trọng. Và như vậy, không chỉ là người học (learner), mà quá trình học tập (learning) cũng là trung tâm cho tất cả các hoạt động dạy học, giáo dục, kiểm tra, đánh giá.

GV không ngừng tự học suốt đời để làm gương cho học sinh. Người thầy phải có khả năng tổ chức, điều khiển mọi hoạt động giúp học sinh học tập tốt. GV sáng tạo là người biết giúp học sinh tiến bộ nhanh chóng trên con đường tự học. GV là người truyền động lực để học sinh vươn lên, không phải chỉ là người truyền đạt tri thức.

Như vậy, quan điểm lấy học sinh làm trung tâm không hề làm giảm vai trò của GV, mà ngược lại vai trò GV ngày càng cao.

Lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội vẫn luôn luôn là vấn đề của mục tiêu giáo dục và đã xuất hiện hai xu hướng trái ngược nhau: hoặc quá đề cao lợi ích cá nhân người học, dẫn đến trọng tâm hoạt động giáo dục nhằm nâng cao các tỷ lệ học sinh giỏi, tốt nghiệp, đậu đại học, bất chấp về đạo đức, kỹ năng sống, sức khỏe, thẩm mỹ, cho lên lớp cả những học sinh chưa đủ chuẩn kiến thức, kỹ năng. Ngược lại, quá đề cao lợi ích xã hội, chưa đặt đúng mức phát triển nhân cách (phẩm chất, năng lực) của mỗi cá nhân, chưa chú trọng đến năng khiếu, sở trường và nguyện vọng của từng cá nhân học sinh.

Hai xu hướng cực đoan này đều không mang lại hiệu quả đối với giáo dục. Do đó, ngành giáo dục và từng nhà trường cần điều chỉnh theo hướng hài hòa giữa lợi ích cá nhân và xã hội, xây dựng kế hoạch giáo dục vừa đảm bảo yêu cầu chung của chương trình giáo dục quốc gia, địa phương, vừa phù hợp với nhà trường và học sinh.

Tin liên quan

Skip to first unread message

unread,

Jun 2, 2012, 5:52:47 PM6/2/12

Sign in to reply to author

You do not have permission to delete messages in this group

Sign in to report message as abuse

Either email addresses are anonymous for this group or you need the view member email addresses permission to view the original message

to Nhom Tri thuc tre lop NVSPDH-CD-K9


I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Dạy học được định nghĩa là quá trình tương tác qua lại giữa giáo viênvà học sinh, khi đó học sinh dưới sự hướng dẫn của thầy có thể tìm ra,khám phá ra những tri thức mới mà bản thân chưa biết, hình thành nhữngthói quen tư duy độc lập, sáng tạo; đồng thời phát triển toàn diện cáckĩ năng sống và những phẩm chất đạo đức phù hợp với chuẩn mực xãhội...Giảng dạy lấy người học là trung tâm” có nghĩa là trong quátrình đào tạo, người học giữ vị trí then chốt, quyết định chất lượng

đào tạo.

II. NỘI DUNG CỦA VẤN ĐỀ

1. Thế nào là dạy học “lấy học sinh làm trung tâm”

a) Định nghĩa

Về tên gọi, “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm” được các nhà nghiêncứu, các nhà PPGD gọi bằng nhiều tên khác nhau. Một số người cho rằngđó là một đường hướng, một số khác cho rằng đó là một tư tưởng, một

quan điểm giáo dục, một số khác nữa cho rằng nó là một phương pháp.

Thực chất của quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm, đó là hệphương pháp dạy - học tích cực lấy người học làm trung tâm còn gọi làhệ PP dạy - tự học, được xem như là một hệ thống PPDH có thể đáp ứngđược các yêu cầu cơ bản của mục tiêu giáo dục trong thời kỳ đổi mới

hiện nay.

Dạy học lấy học sinh làm trung tâm là đặt người học vào vị trí trungtâm của hoạt động dạy - học, xem cá nhân người học - với những phẩmchất và năng lực riêng của mỗi người - vừa là chủ thể vừa là mục đíchcủa quá trình đó, phấn đấu tiến tới cá thể hóa quá trình học tập vớisự trợ giúp của các phương tiện thiết bị hiện đại, để cho tiềm năngcủa mỗi HS được phát triển tối ưu, góp phần có hiệu quả vào việc xây

dựng cuộc sống có chất lượng cho cá nhân, gia đình và xã hội.

b) So sánh với phương pháp dạy học “lấy người dạy làm trung tâm”

Dạy học lấy người dạy làm trung tâmlà hình thức dạy học phổ biến trongnền giáo dục thời phong kiến ở nhiều nơi, trong đó có nước ta. Hoạtđộng dạy học này gợi chúng ta nhớ đến hình ảnh thầy đồ ngồi trên sạpgỗ hoặc cầm roi bước tới bước lui, còn học trò thì ngồi im trên nhữngmanh chiếu trải trước sân hoặc trong căn phòng vách lá, lắng tai nghevà đọc theo những điều thầy dạy, đôi khi cần phải chuyển thân lắc đầu

theo nhịp điệu âm thanh gắn với từng bài học.

Phương pháp này được sử dụng phổ biến ở thời kì chưa hình thành tổchức nhà trường, một giáo viên thường dạy cho một nhóm nhỏ học sinh,có thể chênh lệch nhau khá nhiều về lứa tuổi và trình độ. Chẳng hạnthày đồ Nho ở nước ta thời kì phong kiến dạy trong cùng một lớp từ đứatrẻ mới bắt đầu học Tam tự kinh đến môn sinh đi thi tú tài cử nhân,trong kiểu dạy học này, ông thày bắt buộc phải coi trọng trình độ,năng lực, tính cách của mỗi học trò và cũng có điều kiện để thực hiệncách dạy thích hợp với mỗi HS, vai trò chủ động tích cực của người học

được đề cao, tuy nhiên năng suất dạy học quá thấp.

Trong hoạt động dạy học này, chương trình học tập được thiết kếchủ yếu theo logic nội dung khoa học của các môn học, chú trọng trướchết đến hệ thống kiến thức lí thuyết, sự phát triển tuần tự của cáckhái niệm, định luật, học thuyết khoa học. Người thầy chủ yếu diễngiảng những điều có sẵn trong sách vở cho học trò nghe. Người thầy nóinhững điều mình đã học đã biết và học trò chỉ việc nghe, ghi chép lạivà học thuộc lòng. Việc trao đổi qua lại giữa thầy trò hầu như khôngtồn tại, học trò chỉ hỏi thêm những điều chưa hiểu ngoài giờ lên lớpvà nhiều khi, những trường hợp phát biểu trái ý kiến thầy của học trò

bị xem là vô phép, thiếu lễ độ.

Các loại sách vở được nhắc đến ở đây chủ yếu là những sách vở Nho giadạy đạo lý thánh hiền hay những trật tự khuôn phép để sống ở đời, cũngcó khi là sách văn chương thơ phú. Có thể đây là một hình thức dạy họcđược xem là tích cực trong thời phong kiến, bằng chứng là nhiều ngườihấp thụ nền giáo dục đó cũng có thể trở thành những người tài trong xãhội xưa. Nhưng từ khi xuất hiện tổ chức nhà trường với những lớp họccó nhiều HS cùng lứa tuổi và trình độ tương đối đồng đều thì GV khó cóđiều kiện chăm lo cho từng HS, giảng dạy cặn kẽ cho từng em. Từ đóhình thành kiểu dạy học “thông báo - đồng loạt”. GV quan tâm trước hếtđến việc hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết nộidung quy định trong chương trình và SGK, cố gắng làm cho mọi HS tronglớp hiểu và nhớ những lời thày giảng. Cũng từ đó hình thành kiểu họcthụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ. Tình trạng này ngày naycàng phổ biến, đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy học, không đáp ứngđược yêu cầu của xã hội đối với sản phẩm của giáo dục nhà trường. Hìnhthức dạy học này hoàn toàn không phù hợp với khuynh hướng giáo dụchiện đại, khi mà những kĩ năng sống thiết yếu của một con người xã hội

trở thành “đơn đặt hàng” cho ngành giáo dục.

Gần đây, nhu cầu đẩy mạnh phát triển giáo dục theo hướng hiện đại, đẩylùi hình thức dạy học cũ làm thui chột khả năng tư duy của con ngườiđã thúc đẩy sự ra đời của hình thức dạy học lấy người học làm trungtâm. Đây là hình thức dạy học được áp dụng từ lâu ở nhiều nước tiêntiến có nền giáo dục hiện đại, phái triển. Trong đó chủ yếu hướng vàoviệc chuẩn bị cho học sinh sớm thích ứng với đời sống xã hội, hòa nhậpvà phát triển cộng đồng, tôn trọng nhu cầu,lợi ích, tiềm năng ngườihọc. Về nội dung: người ta cho rằng hệ thống kiến thức lí thuyết chưađủ để đáp ứng mục tiêu chuẩn bị cho cuộc sống. Cần chú trọng các kĩnăng thực hành vận dụng các kiến thức lí thuyết, năng lực phát hiện vàgiải quyết những vấn đề thực tiễn. Dạy học không chỉ đơn giản là cungcấp tri thức mà còn phải hướng dẫn hành động. Khả năng hành động làmột yêu cầu được đặt ra không phải đối từng cá nhân mà cả ở cấp độcộng đồng địa phương và toàn xã hội. Chương trình giảng dạy phải giúpcho từng các nhân người học biết hành động và tích cực tham gia vàocác chương trình hành động của cộng đồng ;“từ học làm đến biết làm,muốn làm và cuối cùng muốn tồn tại phát triển như nhân cách một con

người lao động tự chủ, năng động và sáng tạo”.

Trong phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, ngườita coi trọng việc tổ chức cho học sinh hoạt động độc lập hoặc theonhóm (thảo luận, làm thí nghiệm, quan sát vật mẫu, phân tích bảng sốliệu…) thông qua đó HS vừa tự lực nắm các tri thức, kĩ năng mới, đồngthời được rèn luyện vè phương pháp tự học, được tập dượt phương phápnghiên cứu. GV quan tâm vận dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm của từngcá nhân và của tập thể HS để xây dựng bài học. Giáo án được thiết kếtheo kiểu phân nhánh. Những dự kiến của GV phải được tập trung chủ yếuvào các hoạt động của HS và cách tổ chức các hoạt động đó, cùng vớikhả năng diễn biến các hoạt động của HS để khi lên lớp có thể linhhoạt điều chỉnh theo diễn tiến của tiết học, thực hiện giờ học phânhóa theo trình độ và năng lực của HS, tạo điều kiện thuận lợi cho sự

bộc lộ và phát triển tiềm năng của mỗi em.

Học sinh tự giác chịu trách nhiệm về kết quả học tập củamình, được tham gia tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau về mức độ đạt cácmục tiêu của từng phần trong chương trình học tập, chú trọng bổ khuyếtnhững mặt chưa đạt được so với mục tiêu trước khi bước vào một phầnmới của chương trình. GV phải hướng dẫn cho HS phát triển kĩ năng tựđánh giá, không thể chỉ dừng lại ở yêu cầu tái hiện kiến thức, lặp lạikĩ năng đã học mà phải khuyến khích óc sáng tạo, phát hiện sự chuyểnbiến thái độ và xu hướng hành vi của HS trước những vấn đề của đờisống gia đình và cộng đồng, rèn luyện khả năng phát hiện và giải quyếtnhững vấn đề nảy sinh trong tình huống thực tế. Việc sử dụng cácphương tiện kĩ thuật sẽ tạo điều kiện tăng nhịp độ kiểm tra, giúp HScó thể thường xuyên tự kiểm tra, làm giảm nhẹ lao động chấm bài của

GV.

Hình thức dạy học này chỉ thật sự phát huy tác dụng trongnhững điều kiện giáo dục nhất định như: ý thức tự giác học tập của họcsinh cao, cơ sở vật chất phục vụ dạy học đầy đủ và phù hợp, giáo viêncó năng lực khơi gợi tạo tình huống, môi trường giáo dục xã hội thuậnlợi, nguồn tài liệu tham khảo hay sách giáo khoa phong phú, số lượnghọc sinh trong một lớp phải vừa đủ, không quá nhiều cũng không quá

ít...

Hình thức dạy học này cần thiết phải kéo theo một loạt cáchoạt động giáo dục khác tương ứng: kiểm tra, đánh giá, thi cử cũng như

nội dung và cách thức thi.

Trong quá trình phát triển, kiểu dạy học lấy học sinh làm trung tâmngày càng được chú ý so với kiểu dạy học lấy giáo viên làm trung tâm.

GS.Lê Khánh Bằng đã đưa ra so sánh sau:

Giáo viên làm trung tâm


Học sinh làm trung tâm

I. Nội dung


I. Nội dung

1. Sự kiện, thông tin có sẵn


1. Các khái niệm, vấn đề

II. Phương pháp


II. Phương pháp

2. Ghi nhớ


2. Sự tìm tòi

3. Tập trung vào bài giảng


3. Khám phá và giải quyết vấn đề

4. Người nghe thụ động


4. Người học chủ động tham gia

5. Giáo viên chiếm ưu thế, có quyền lực


5. Giáo viên là người điều khiển, thúc đẩy, tìm tòi

III. Môi trường


III. Môi trường

6. Không khí lớp học hình thức, máy móc


6. Tự chủ, thân mật, không hình thức

7. Sắp xếp chỗ ngồi cố định, giáo viên chiếm vị trí trung tâm


7. Chỗ ngồi linh hoạt

8. Dùng kĩ thuật dạy học ở mức tối thiểu


8. Sử dụng thường xuyên các kĩ thuật dạy học

IV. Kết quả


IV. Kết quả

9. Tri thức có sẵn


9. Tri thức tự tìm

10. Trình độ phát triển nhận thức thấp, có hệ thống. Chủ yếu là ghi
nhớ


10. Phát triển cao hơn về nhận thức, tình cảm và hành vi

11. Phụ thuộc vào tài liệu


11. Tự tin

12. Chấp nhận các giá trị truyền thống


12. Biết tự xác định các giá trị

2. Cơ sở của vấn đề:

Trong lí luận dạy học có những quan niệm khác nhau về vai trò của GVvà vai trò của HS nhưng tựu chung lại có hai hướng: hoặc tập trung vàovai trò hoạt động của GV (lấy GV làm trung tâm) hoặc tập trung vào vai

trò hoạt động của HS (lấy HS làm trung tâm).

Xu hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học đại học là đổi mới theoquan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm. Quan điểm này có cơ sởlý luận từ việc nhận thức quá trình dạy học (QTDH) luôn luôn vận độngvà phát triển không ngừng chịu sự chi phối của nhiều quy luật, trongđó quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa dạy và học, giữa thầy vàtrò trong QTDH là quy luật cơ bản. Thầy và trò - Cả hai chủ thể nàyđều chủ động, tích cực bằng hoạt động của mình hướng tới tri thức.Thầy giữ vai trò chủ đạo, tổ chức điều khiển hoạt động nhận thức củatrò. Trò thì hoạt động tích cực chiếm lĩnh tri thức và biến nó thànhvốn hiểu biết của mình để tiếp tục hoạt động nhận thức và hành độngthực tiễn. Bàn về phương pháp dạy học (PPDH) chúng ta phải bàn đến PPdạy của thầy và PP học của trò. Sự phù hợp của PPDH sẽ cho ta hiệu quảthực sự của việc dạy học. Hệ thống các PPDH tích cực lấy người học làmtrung tâm là kết quả của sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, thựcnghiệm ở nhà trường Việt Nam từ nhiều năm. Đó là sự tổng hợp, tích hợpnhiều PP gần gũi nhau như : PP tích cực, PP hợp tác, PP học bắng hànhđộng, PP tình huống, PP nêu và giải quyết vấn đề..., và một phần nàođó có sự kết hợp với các PPDH truyền thống được cải tiến, vận dụng

theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của người học

3. Vai trò của người thầy giáo trong lối dạy học “lấy học sinh làm
trung tâm”

Vai trò người thầy trong quá trình dạy học theo quan điểm lấy ngườihọc là trung tâm không thể bị mờ nhạt mà trái lại còn rõ nét hơn,người thầy vẫn là “linh hồn” của giờ học sinh động và sáng tạo. Giáovien phải có trình độ chuyên môn sâu, có trình độ sư phạm lành nghề,có đầu óc sáng tạo và nhạy cảm cái mới có thể đóng vai trò là ngườigợi mở, xúc tác, trợ giúp, hướng dẫn, động viên, cố vấn, trọng tàitrong các hoạt động độc lập của HS, đánh thức năng lực tiềm năng trongmỗi em, chuẩn bị tốt cho các em tham gia phát triển cộng đồng. Địnhhướng cách dạy học như trên không mâu thuẫn với quan niệm truyền thốngvề vị trí chủ đạo, vai trò quyết định của GV đối với chất lượng, hiệuquả dạy học. Bởi vì, để có thể làm người hướng dẫn, cung cấp thôngtin, trọng tài, cố vấn… người thầy phải hiểu biết sâu sắc những kiếnthức cơ bản của môn học mình đảm nhiệm, đồng thời phải tự bổ sung vốnkiến thức của mình thường xuyên và có định hướng rõ ràng qua tài liệu,sách báo… Người thầy phải nắm vững bản chất và các quy luật của quátrình dạy học để có thể tìm ra hoặc ứng dụng những phương pháp dạy học

phù hợp với đối tượng của mình nhất.

Thực hiện chương trình dạy học theo quan điểm dạy học lấy người học
làm trung tâm thì hoạt động của thầy và trò tương ứng như sau:

· Người học khai phá tri thức, tự nghiên cứu - Thầy chỉ hướng
dẫn và cung cấp thông tin.

· Người học tự trả lời các thắc mắc do chính mình đặt ra, tự
kiểm tra mình - Thầy là trọng tài.

· Người học tự hành động, tự kiểm tra, tự điều chỉnh - Thầy làm
cố vấn.

II. HIỆN TRẠNG DẠY HỌC Ở NƯỚC TA

Lối học của nền giáo dục Việt Nam từ xưa đến nay là thuyếtminh hàng loạt các kiến thức qua sách giáo khoa, giáo trình, bàigiảng… với một hình ảnh quen thuộc là “ông thầy đồ với quyển sách vàcây roi trong tay” hệ quả là người học phải cố nhớ, lắng nghe và ghichép toàn bộ kiến thức từ người dạy. Và từ thế hệ này sang thế hệ khácchúng ta sẽ đào tạo ra những con người thụ động, giáo điều, nguyên tắc

theo sách vở mà khả năng độc lập, tư duy và sáng tạo kém.

Theo kết quả phân tích của tác giả Lê Ngọc Oánh về phươngpháp giảng dạy truyền thống của Việt Nam và các phương pháp giảng dạy

tiên tiến

Phương pháp giảng dạy


Phương tiện GD và học tập


Phương pháp giảng dạy


Phương pháp học tập


Tâm lý vận dụng


Phương pháp đánh giá


Kết quả giáo dục

Phương pháp giảng dạy truyền thống của VN


Sách giáo khoa, giáo trình, bài giảng


Thuyết trình


Lắng nghe, ghi chép, học thuộc lòng, lập lại


Trí nhớ


Kỳ thi (gợi lại trí nhớ)


Hàn lâm, theo sách vở

Các phương pháp giảng dạy tiên tiến


Thư viện, phòng LAB, xưởng thực hành


Đặt vấn đề, nêu tình huống, phân công tìm hiểu, thảo luận


Tìm tòi, quan sát, so sánh, nghiên cứu tình huống, thảo luận, báo cáo


Óc tò mò, nhận xét, phân tích, đối chiếu, phê bình, tổng hợp, sáng tạo


Công trình đóng góp suốt khoá học


Sưu tầm, nghiên, cứu, phát minh, sáng tạo

Ở nước ta, mầm mống tư tưởng dạy học lấy học sinh làm trung tâm đã cótừ lâu. Chúng ta có thể thấy được điều này qua các câu ngạn ngữ “Họcthầy không tày học bạn”, “Không thầy đố mày làm nên”, “Học một biết

mười” …

Vấn đề phát huy tích cực chủ động của HS nhằm đào tạonhững người lao động sáng tạo đã được đặt ra trong ngành giáo dục từnhững năm 1960. Khẩu hiệu “biến quá trình đào tạo thành quá trình tựđào tạo” cũng đã đi vào các trường sư phạm từ thời điểm đó. Giáo sư LêKhánh Bằng đã đề cập đến vấn đề “lấy học sinh làm trung tâm trên haiphương diện vĩ mô và vi mô, ở đây người dạy phải tính đến nhu cầu,nguyện vọng của người học, đến những đặc điểm tâm sinh lí và các cấutrúc tư duy của từng người” (Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, tr.

14).

Tuy nhiên, thuật ngữ “dạy học lấy người học làm trungtâm” (dạy học tập trung vào người học) chỉ mới xuất hiện và được sửdụng phổ biến trong những năm gần đây. Vấn đề lấy người học làm trungtâm là vấn đề còn mới đối với người dạy do trước đây quan niệm chủ yếulà người dạy truyền đạt kiến thức cho người học, quá trình học thườnglà tiếp nhận thụ động. Vì vậy, mặc dù đã thấy vấn đề trên là cần thiếttrong giai đoạn hiện nay và sau này, người dạy chưa được trang bị đủcơ sở lí luận về “dạy học lấy học sinh làm trung tâm”. Việc “lấy họcsinh làm trung tâm” mới chỉ được thực hiện ở mức để cho học sinh phátbiểu ý kiến, cho học sinh thảo luận theo nhóm … Dạy học cũng như mọiquá trình tự nhiên, trải qua thời kì hình thành, tồn tại và phát triển

lâu dài của mình.

Hiện nay, trong ngành giáo dục nước ta vấn đề phát huy tíchcực chủ động sáng tạo của người học được mọi người nhất trí nhưng vấnđề HSTT chưa phải là đã được mọi người chấp nhận và được quan niệm mộtcách thống nhất. Có người phản đối vì cho rằng cách dịch thuật ngữ nàysang tiếng Việt không thành công, có thể gây ra sự hiểu lầm. Có ngườikhông chấp nhận vị trí trung tâm của người học trong hoạt động dạy họcvì e rằng sẽ hạ thấp vai trò của giáo viên, tạo ra sự “đổi ngôi” trongnhà trường. Cũng có người cho rằng lấy hcoj sinh làm trung tâm là mộtlí thuyết giáo dục đã lỗi thời, thậm chí đã bị bác bỏ tại chính nơi

sản sinh ra nó…

Trên thực tế, trong giai đoạn phát triển ban đầu, tư tưởngHSTT cũng đã từng có những lệch lạc bị phê phán như quá đề cao hứngthú cá nhân HS, coi đó là động lực quan trọng nhất của quá trình họctập, hoặc quan niệm quá khích rằng nhà trường phải dạy những gì HS cần

chứ không phải dạy những gì nhà trường có.

Phương pháp dạy - học lấy trẻ em làm trung tâm là phươngpháp học tập tích cực, khác với phương pháp dạy học truyền thống trướcđây là giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe và ghi nhớ thụ động.Giáo viên được tập huấn cách thiết kế và giảng dạy theo phương phápdạy - học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm, áp dụng các kỹ năng tổchức làm việc nhóm, kỹ năng đặt câu hỏi, phương pháp đóng vai, tự làmđồ dùng dạy học bằng nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương, sử dụng trò

chơi trong học tập, tối ưu hóa không gian lớp học.

III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ TRIỂN KHAI VÀ ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ
QUAN ĐIỂM DẠY HỌC “LẤY HỌC SINH LÀM TRUNG TÂM”

Dạy học lấy học sinh làm trung tâm có nội hàm rộng hơn phương pháp dạyhọc tích cực. Quan điểm này cần được quán triệt trong tất cả các khâucủa quá trình dạy học: mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ

chức và đánh giá

Khi vận dụng HSTT chớ nên máy móc và hình thức. GV phải biết lựa chọnmức độ thích hợp với từng ngành học, bậc học, môn học, phù hợp với

phương tiện thiết bị dạy học và điều kiện học tập của HS.

- Việc dạy học phải xuất phát từ đầu vào (người học), tức là từ nhucầu, động cơ, đặc điểm và điều kiện của người học. Ở đây, cần thấy họcsinh là học sinh như nó đang tồn tại, với những ưu điểm và nhược điểm,những điều chưa biết và đã biết. Phải tiến hành việc học tập trên cơ

sở hiểu biết năng lực đã có của học sinh.

- Cần đòi hỏi học sinh tham gia tích cực vào quá trình học tập, khôngtiếp thu một cách thụ động. Học sinh cần tích cực suy nghĩ, tích cực

hoạt động.

- Thực hiện phân hóa, chú ý đến tư duy của từng học sinh, không gò bó
theo cách suy nghĩ đã định trước của giáo viên.

- Động viên, khuyến khích và tạo điều kiện để học sinh tự kiểm tra, tựđánh giá quá trình học tập của mình tiến tới tự đào tạo và giải quyết

các vấn đề lí luận và thực tiễn một cách độc lập, sáng tạo.

- Mềm hóa quá trình đào tạo. Đây là biện pháp chung và cơ bản để pháthuy cao tính tích cực, độc lập, sáng tạo của sinh viên. Bản chất củahọc chế là sự mềm dẻo từ mục tiêu, nội dung, phương thức đến quy trìnhhọc tập. Có thể cho phép sinh viên không phải lên lớp nghe giảng ở mộtsố môn, cho phép sinh viên học vượt, học chậm lại … Phương thức và quytrình đào tạo cũng không nhất thiết phải giống nhau. Mục đích của việctổ chức quá trình đào tạo mềm dẻo là nhằm kích thích tinh thần tíchcực, chủ động của sinh viên thông qua việc sinh viên tự xây dựng mụctiêu và kế hoạch học tập, cũng như việc lựa chọn phương thức học tậpthích hợp cho bản thân trong phạm vi cho phép. Học chế mềm dẻo đòi hỏiphải cải tiến việc quản lí và kiểm tra kết quả học tập, đòi hỏi việc

xây dựng các quy chế mới về giáo vụ;

- Thực hiện cá biệt hóa, phân hóa và sàng lọc qua các giai đoạn và các
năm học;

- Nhà trường, khoa, bộ môn công bố mục tiêu, nội dung, kế hoạch, cácgiai đoạn và quy trình đào tạo cho sinh viên biết ngay từ đầu khóahọc, năm học, môn học để họ có thể chủ động thiết kế quá trình học tập

của mình;

- Giảm tỉ lệ diễn giảng tùy theo bộ môn, chú ý sử dụng kết hợp các
kiểu dạy thông báo, nêu vấn đề, nghiên cứu, chương trình hóa;

- Tăng cường và nâng cao hiệu suất quá trình tự học của người học;

- Tăng cường giúp đỡ riêng bằng cách cho học sinh đăng kí lần lượt gặp
gỡ, trao đổi những vấn đề về học tập và nghiên cứu khoa học;

- Soạn thảo các tài liệu hướng dẫn học tập chung và cho từng bộ môn,
in và bán tài liệu cho học viên;

- Phát huy vai trò của các đoàn thể học sinh, các nhóm nhà khoa họctrẻ, câu lạc bộ khoa học để tạo không khí hăng say học tập, nghiên cứu

trong sinh viên;

- Tăng cường các loại bài tập sáng tạo, bài tập tình huống để học sinh
suy nghĩ tìm ra các phương án giải quyết tối ưu;

- Kiểm tra, thi cử khách quan, khuyến khích người học có những ý kiếnsáng tạo, tránh gò ép theo quan điểm duy nhất của giáo viên. - Định

mục tiêu đào tạo cụ thể đạt các yêu cầu: thích đáng, thực hiện được;

- Chú trọng đến yêu cầu về năng lực thực hành nghề nghiệp khi xây dựng
đầu ra của bộ môn;

- Thay đổi cách tuyển chọn học sinh (đầu vào) sao cho phù hợp với yêucầu đầu ra của từng chuyên ngành. Vì vậy, khi xét đầu vào phải xét đủcác mặt về thể lực, tâm lí, trình độ văn hóa, năng khiếu … sao cho phù

hợp với yêu cầu của đầu ra;

- Hướng các bộ môn cơ bản, chuyên ngành vào mục tiêu đào tạo;

- Chú ý rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp từ thấp đến cao theo những qui
luật và qui trình nhất định;

- Thực hiện việc đánh giá sinh viên chủ yếu dựa trên kĩ năng vận dụngvà sự thành thạo trong nghề nghiệp mà không phải chỉ dựa trên một số

các tri thức học sinh đã nắm được;

- Yêu cầu mỗi sinh viên có đủ tài liệu và vở ghi, vở bài tập, vở thực
hành, sổ nghiệp vụ, hồ sơ nghiệp vụ ….

IV. KẾT LUẬN

Quan điểm dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” là một xuhướng tất yếu có lí do lịch sử. Đặt người học vào vị trí trung tâm củaquá trình dạy học, xem cá nhân người học – với những phẩm chất và nănglực riêng của mỗi người – vừa là chủ thể, vừa là mục đích của quátrình đó, phấn đấu tiến tới cá thể hóa quá trình học tập với sự trợgiúp của các phương tiện, thiết bị hiện đại để cho tiềm năng của mỗihọc sinh được phát triển tối ưu, góp phần có hiệu quả vào xây dựngcuộc sống có chất lượng cho cá nhân, gia đình và xã hội. Đó chính làcốt lõi tinh thần nhân văn trong dạy học lấy học sinh làm trung tâm.Đây là một công việc khó khăn và lâu dài, đòi hỏi sự hoạt động mạnhmẽ, có sự phối hợp đồng bộ của tất cả các cấp, ban, ngành và đội ngũgiáo viên. Giải quyết tốt vấn đề dạy học lấy học sinh làm trung tâm sẽnâng cao được chất lượng và hiệu quả giáo dục, thúc đẩy quá trình họctập của học sinh dẫn tới giải quyết tốt vấn đề đầu ra, đáp ứng được

nhu cầu cần thiết của xã hội.

-hết-

( bài viết sử dụng nhiều nguồn tài liệu trên thư viện Đại học Sư phạmHà Nội và trên internet)

(Source: //yume.vn/miumiu_165/article/tim-hieu-ve-quan-diem-day-va-hoc-lay-hoc-sinh-lam-trung-tam-.35D36A40.html)


Video liên quan

Chủ đề