Quá trình nghiên cứu của Menđen

Lời giải và đáp án chính xác nhất cho câu hỏi trắc nghiệm: “”kèm kiến thức tham khảo là tài liệu trắc nghiệm môn ….. hay và hữu ích do Top lời giải tổng hợp và biên soạn dành cho các bạn học sinh ôn luyện tốt hơn.

Trắc nghiệm: Phương pháp nghiên cứu của Menđen được gọi là?

A. Phương pháp lai phân tích.

B. Phương pháp phân tích các thế hệ lai.

C. Phương pháp tạp giao các cây đậu Hà Lan.

D. Phương pháp tự thụ phấn.

Trả lời:

Đáp án đúngB. Phương pháp phân tích các thế hệ lai.

Phương pháp nghiên cứu của Menđen được gọi là phươngpháp phân tích các thế hệ lai.

Kiến thức tham khảo về Menden với phương pháp phân tích các hệ lai.

1. Menden

- Gregor Johann Mendel(phiên âm:Grê-gô Giô-han Men-đen) (20 tháng 7năm1822–6 tháng 1năm1884) là mộtnhà khoa học, mộtlinh mụcCông giáongườiÁothuộcDòng Augustine, ông được coi là "cha đẻ củadi truyềnhiện đại" vì những nghiên cứu của ông về đặc điểm di truyền củađậu Hà Lan. Mendel chỉ ra rằng đặc tính di truyền tuân theo những quy luật nhất định, ngày nay chúng ta gọi làĐịnh luật Mendel. Hiện nay, nội dung các định luật của ông rất đơn giản nhưng rất cơ bản, được công bố vào năm 1865 và xuất bản vào năm1866; tuy nhiên, khi ông còn sống, ý nghĩa và tầm quan trọng trong các công trình nghiên cứu của ông không được công nhận, người ta cũng không quan tâm đến các nghiên cứu của ông. Đến tận năm 1900 (đầuthế kỷ 20) các nhà khoa học mới phát hiện lại bài báo "Thí nghiệm lai giống thực vật" của Mendel và các phát hiện của ông mới được công nhận, khi đó ông được tôn vinh như lànhà khoa họcthiên tài, một danh hiệu ông xứng đáng được nhận từ lúc sinh thời; đồng thời năm 1900 được xem là năm ra đời củaDi truyền học, còn Mendel là cha đẻ của ngành này.

2. Đối tượng nghiên cứu của Menđen

- Vào năm 1856, Menden đã nhận thấy được những đặc điểm đặc biệt của cây đậu Hà Lan. Sau đó, ông đã quan sát và nghiên cứu các đặc tính và sự phát triển của loài cây này. Ông nhận thấy rằng, loài cây này có cấu tạo hoa rất đặc biệt, vì thế đã che chở được cho phấn không bị rơi ra ngoài. Do đó, sau quá trình thụ phấn, chúng ta có thể biết được chính xác cây bố và cây mẹ.

- Sau quá trình quan sát và nghiên cứu, các định luật di truyền của menden đã được ra đời.

3. Phương pháp nghiên cứu di truyền học của Menden

- G.J. Menden (1822 – 1884) được xem là ông tổ của ngành di truyền học. Phương pháp nghiên cứu của Menđen là phương pháp lai và phân tích con lai, gồm các bước:

+ Tạo dòng thuần về từng cặp tính trạng tương phản bằng cách cho tự thụ phấn qua nhiều thế hệ.

+ Lai các dòng thuần chủng khác nhau về 1 hoặc nhiều tính trạng, rồi phân tích kết quả lai ở F1, F2, F3.

+ Sử dụng toán xác suất để phân tích kết quả lai, sau đó đưa ra giả thuyết giải thích kết quả.

+ Tiến hành thí nghiệm chứng minh cho giả thuyết.

4. Hình thành học thuyết di truyền học của Menden

- Thí nghiệm

Đậu Hà Lan [2n = 14]

Ptc:Cây hoa tím X Cây hoa trắng

F1:100% hoa tím

Cho F1 tự thụ phấn

F2:3 hoa tím : 1 hoa trắng.

Thực chất F2:1 hoa tímtc : 2 hoa tím không tc : 1 hoa trắngtc

- Học thuyết giao tử thuần khiết

+ Mỗi tính trạng đều do 1 cặp nhân tố di truyền quy định. Trong tế bào các nhân tố di truyền không hoà trộn vào nhau.

+ Bố [mẹ] chỉ truyền cho con [qua giao tử] 1 trong 2 thành viên của cặp nhân tố di truyền.

+ Khi thụ tinh các giao tử kết hợp với nhau một cách ngẫu nhiên tạo nên các hợp tử.

- Kiểm tra giả thuyết bằng phép lai phân tích [còn gọi là lai kiểm nghiệm]

- Lai phân tích là phép lai giữa cá thể có kiểu hình trội [giả sử A-] với cá thể có kiểu hình lặn [giả sử: aa], mục đích là kiểm tra kiểu gen của kiểu hình trội là thuần chủng hay không thuần chủng.

+ Nếu con lai xuất hiện 100% trội thì cá thể kiểu hình trội đem lai là thuần chủng [AA].

+ Nếu con lai xuất hiện 50% trội : 50% lặn thì cá thể kiểu hình trội đem lai là không thuần chủng [Aa].

5. Cơ sở tế bào học và nội dung của quy luật phân chia

- Các cặp gen quy định các cặp tính trạng nằm trên các cặp NST tương đồng khác nhau thì khi giảm phân, các gen sẽ phân li độc lậpvà tổ hợp ngẫu nhiên, không phụ thuộc vào nhau.

- Quy luật phân li độc lập là tổ hợp của hai hay nhiều quy luật phân li cùng một lúc trên các cặp gen tương đồng khác nhau, không cùng nằm trên một NST.

6. Ý nghĩa của quy luật Menđen

- Quy luật trội không hoàn toàn và trội hoàn hoàn toàn của Menden có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc nghiên cứu và ứng dụng vào sản xuất. Dựa vào những quy luật này, người ta có thể dùng các giống khác nhau để lai với nhau và tạo ra cơ thể lai sở hữu những đặc tính nổi trội của bố mẹ. Qua đó tạo ra những gen tốt hơn.

- Đồng thời, Menden và di truyền học còn giúp các nhà khoa học dự đoán được kết quả của đời sau. Đây cũng là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự tiến hóa và chọn giống trong cuộc sống và trong nông nghiệp.

Gregor Johann Mendel (phiên âm: Grê-gô Giô-han Men-đen) (20 tháng 7 năm 1822[1] – 6 tháng 1 năm 1884) là một nhà khoa học, một linh mục Công giáo người Áo thuộc Dòng Augustine, ông được coi là "cha đẻ của di truyền hiện đại" vì những nghiên cứu của ông về đặc điểm di truyền của đậu Hà Lan. Mendel chỉ ra rằng đặc tính di truyền tuân theo những quy luật nhất định, ngày nay chúng ta gọi là Định luật Mendel. Hiện nay, nội dung các định luật của ông rất đơn giản nhưng rất cơ bản, được công bố vào năm 1865 và xuất bản vào năm 1866; tuy nhiên, khi ông còn sống, ý nghĩa và tầm quan trọng trong các công trình nghiên cứu của ông không được công nhận, người ta cũng không quan tâm đến các nghiên cứu của ông. Đến tận năm 1900 (đầu thế kỷ 20) các nhà khoa học mới phát hiện lại bài báo "Thí nghiệm lai giống thực vật" của Mendel và các phát hiện của ông mới được công nhận, khi đó ông được tôn vinh như là nhà khoa học thiên tài, một danh hiệu ông xứng đáng được nhận từ lúc sinh thời; đồng thời năm 1900 được xem là năm ra đời của Di truyền học, còn Mendel là cha đẻ của ngành này.[2][3][4][5]

Quá trình nghiên cứu của Menđen

Gregor Johann Mendel

Sinh20 tháng 7 năm 1822
Thị trấn Hynčice,
Quá trình nghiên cứu của Menđen
Đế quốc Áo
Mất6 tháng 1 năm 1884 (61 tuổi)
Brno,
Quá trình nghiên cứu của Menđen
Đế quốc Áo-Hung
Trường lớpĐại học ViennaNổi tiếng vìKhám phá các nguyên lý cơ bản của Di truyền học hiện đạiSự nghiệp khoa họcNgànhDi truyền họcNơi công tácTu viện Thánh Thomas ở Brno

Mendel sinh ra trong một gia đình nói tiếng Đức ở Hynčice (Heinzendorf bei Odrau trong tiếng Đức), tại biên giới Moravian-Silesian, Đế quốc Áo (hiện là một phần của Cộng hòa Séc). Ông là con trai của Anton và Rosine (Schwirtlich) Mendel và có một chị gái tên là Veronika và một em gái tên là Theresia. Họ sống và làm việc tại một trang trại thuộc sở hữu của gia đình Mendel trong ít nhất 130 năm (ngôi nhà nơi Mendel được sinh ra hiện là một bảo tàng dành riêng cho Mendel). Thời thơ ấu, Mendel làm vườn và học nghề nuôi ong. Khi còn trẻ, ông theo học thể dục tại Opava (được gọi là Troppau trong tiếng Đức). Ông phải nghỉ bốn tháng trong thời gian học thể dục vì bệnh. Từ năm 1840 đến năm 1843, ông học triết học và vật lý thực tế và lý thuyết tại Viện triết học của Đại học Olomouc, nghỉ thêm một năm vì bệnh. Ông cũng vật lộn về tài chính để chi trả cho việc học và Theresia cho ông của hồi môn. Sau đó, ông giúp đỡ ba người con trai của bà, hai người trong số đó đã trở thành bác sĩ sau này.

Ông trở thành một người tu sĩ một phần vì nó cho phép ông có được một nền giáo dục mà không phải tự trả tiền cho nó. Là con trai của một người nông dân đang gặp khó khăn, theo cuộc sống tu sĩ, theo lời cha, đã cho ông "nỗi lo lắng thường trực về một cách kiếm sống." Ông được đặt tên là Gregor (ehoř trong tiếng Séc) khi tham gia Dòng Augustino.

Khi Mendel vào Khoa Triết học, Khoa Lịch sử và Nông nghiệp tự nhiên do Johann Karl Nestler đứng đầu, người đã tiến hành nghiên cứu sâu rộng về các đặc điểm di truyền của thực vật và động vật, đặc biệt là cừu. Theo lời giới thiệu của giáo viên vật lý Friedrich Franz, Mendel đã vào Tu viện Augustinian St Thomas ở Brno (được gọi là Brünn trong tiếng Đức) và bắt đầu đào tạo như một linh mục. Với tên khai sinh Johann Mendel, ông lấy tên Gregor khi bước vào đời tu. Mendel làm việc như một giáo viên trung học thay thế. Năm 1850, ông đã trượt phần thi vấn đề, phần cuối cùng trong ba phần thi của mình để trở thành một giáo viên trung học được chứng nhận. Năm 1851, ông được gửi đến Đại học Vienna để học dưới sự bảo trợ của Linh mục C. F. Napp để ông có thể được giáo dục chính quy hơn. Tại Vienna, nhờ sự dày dỗ của giáo sư vật lý Christian Doppler. Mendel trở lại tu viện của mình vào năm 1853 với tư cách là một giáo viên, chủ yếu là vật lý. Năm 1856, ông tham gia kỳ thi để trở thành một giáo viên được chứng nhận và một lần nữa thất bại trong phần thi vấn đáp. Năm 1867, ông thay thế Napp làm trụ trì tu viện.

Sau khi ông được nâng lên làm bề trên tu viện vào năm 1868, công việc khoa học của ông đã chấm dứt, vì Mendel trở nên quá tải với các trách nhiệm hành chính, đặc biệt là tranh chấp với chính quyền dân sự về nỗ lực áp thuế đặc biệt đối với các tổ chức tôn giáo. Mendel qua đời vào ngày 6 tháng 1 năm 1884, ở tuổi 61, tại Brno, Moravia, Áo-Hungary (nay là Cộng hòa Séc), do viêm thận mãn tính. Nhà soạn nhạc người Séc Leoš Janáček đã chơi organ trong đám tang của ông. Sau khi mất, vị bề trên tiền nhiệm đã đốt tất cả các giấy tờ trong bộ sưu tập của Mendel, để đánh dấu chấm dứt các tranh chấp về thuế.

 

Tính trội và tính lặn (1) Thế hệ cha mẹ (2) Thế hệ F1 (3) Thế hệ F2

 

Bảng thống kê các tính trạng thí nghiệm của Mendel

Năm 1854, Trụ trì Cyril Napp cho phép Mendel lên kế hoạch cho một cuộc thí nghiệm lớn về lai tạo ngay tại tu viện. Mục đích của cuộc thí nghiệm này là để theo dõi việc di truyền các vật liệu di truyền trong các thế hệ con cháu lai. Các nhà chức trách trước đây đã quan sát thấy rằng các thế hệ con lai màu mỡ có xu hướng trở lại các loài có nguồn gốc, và do đó họ đã kết luận rằng lai tạo không thể là một cơ chế được sử dụng để nhân giống loài mặc dù trong một số trường hợp đặc biệt, một số giống lai màu mỡ dường như không hoàn nguyên (cái gọi là con lai không đổi. Mặt khác, các nhà lai tạo thực vật và động vật từ lâu đã cho thấy rằng việc lai tạo thực sự có thể tạo ra vô số hình thức mới. Điểm thứ hai được các chủ sở hữu đặc biệt quan tâm, bao gồm cả trụ trì tu viện, người quan tâm đến lợi nhuận trong tương lai từ len của cừu Merino, do len cạnh tranh được cung cấp từ Úc.

Mendel đã chọn tiến hành nghiên cứu của mình trên đậu Hà Lan (Pisum sativum) vì đây là thực vật dễ trồng, có những tính trạng tương phản rõ rệt, tự thụ phấn khá chặt chẽ và tỷ lệ nảy mầm cao. Từ năm 1854 đến năm 1856, ông đã thử nghiệm 34 thí nghiệm lai về các tính trạng khác nhau của loài đậu này. Tổng cộng, ông đã thí nghiệm về bảy tính trạng khác nhau trên đậu Hà Lan, trong đó có các thí nghiệm chỉ lai về một cặp tính trạng và các thí nghiệm lai về nhiều cặp tính trạng.

  • Trong các thí nghiệm về lai một cặp tính trạng, ông nhận thấy:
    • thế hệ con lai đầu tiên (F1) biểu hiện tính trạng chỉ của một bên cây bố hoặc mẹ, nên Mendel gọi tính trạng này là tính trạng trội, còn tính trạng không biểu hiện ở F1 là tính trạng lặn. Tuy nhiên, khi cho các cây lai F1 tự thụ phấn để sinh ra thế hệ F2, thì ông nhận thấy tính trạng lặn lại xuất hiện, ông giải thích hiện tượng này là do "giao tử thuần khiết"; đồng thời, bằng phương pháp thống kê, ông cũng nhận thấy F2 có tỷ lệ kiểu hình trung bình của các thí nghiệm luôn xấp xỉ tỷ lệ 3 trội: 1 lặn.
    • Khi cho từng cây F2 tự thụ phấn để sinh ra thế hệ F3, thì các cây F3 phân ly thành ba nhóm: một nhóm mang tính trạng trội là thuần chủng (ông kí hiệu là AA) chiếm khoảng 1/4, một nhóm mang tính trạng trội không thuần chủng (ông kí hiệu là Aa) chiếm khoảng 1/2, còn một nhóm toàn mang tính trạng lặn (ông kí hiệu là aa) chiếm khoảng 1/4. Do đó, ông đã biểu diễn tỷ lệ 3 trội: 1 lặn là 3A + 1a, còn tỷ lệ thuần chủng được biểu diễn thành biểu thức 1AA: 2Aa: 1aa.
  • Trong các thí nghiệm về lai nhiều cặp tính trạng, ông thấy:
    • Nếu là lai hai cặp tính trạng, thì kết quả tổng quát ở F2 biểu diễn bằng biểu thức: (3A + 1a) x (3B + 1b) sinh ra các kiểu hình khác nhau, phân ly theo thống kê là 9: 3: 3: 1.
    • Nếu là lai ba cặp tính trạng, thì tương tự trên, kết quả tổng quát ở F2 biểu diễn bằng biểu thức: (3A + 1a) x (3B + 1b) x (3C + 1c).
  • Mendel đã gọi các kí hiệu A, a hay B, b... đã dùng là các kí hiệu của những vật chất giả định mà ông gọi là nhân tố di truyền, mà hơn 100 năm sau - ngày nay - các nhà khoa học đã xác định chính là gen.

  1. ^ 20 tháng 7 is his birthday; often mentioned is 22 tháng 7, the date of his baptism. [1] Lưu trữ 2008-09-19 tại Wayback Machine Biography of Mendel at the Mendel Museum
  2. ^ “Versuche über Pflanzen-Hybriden”.
  3. ^ “Gregor Mendel Biography”.
  4. ^ Campbell và cộng sự: "Sinh học" - Nhà xuất bản Giáo dục, 2010
  5. ^ Phạm Thành Hổ: "Di truyền học" - Nhà xuất bản Giáo dục, 1998.

  • Mendel's Paper in English
  • Mendel Museum of Genetics
  • 1913 Catholic Encyclopedia entry, "Mendel, Mendelism"
  • Online Mendelian Inheritence in Man
  • Augustinian Abbey of St. Thomas at Brno
  • (tiếng Đức)Johann Gregor Mendel: Why his discoveries were ignored for 35 (72) years
  • Giới thiệu về Gregor Mendel trên Thư viện khoa học VLOS
Dữ liệu nhân vật
TÊN Mendel, Gregor Johann
TÊN KHÁC
TÓM TẮT Genetics
NGÀY SINH (1822-07-20)20 tháng 7, 1822
NƠI SINH Heinzendorf, Silesia
NGÀY MẤT (1884-01-06)6 tháng 1, 1884
NƠI MẤT Brno, Moravia

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Gregor_Mendel&oldid=67503378”