Nhà nước Vạn Xuân sụp đổ như thế nào


Lý Bí xuất thân từ một hào trưởng địa phương. Theo sử cũ, quê ông ở huyện Thái Bình (có lẽ ở phía trên thị xã Sơn Tây, trên hai bờ sông Hồng). Một thời, ông có ra làm việc với chính quyền đô hộ, nhận một chức quan nhỏ: giám quận (kiểm soát quân sự) ở Cửu Đức, Đức Châu (Đức Thọ, Hà Tĩnh). Yêu nước, thương dân, bất bình với bè lũ đô hộ, ông sớm bỏ quan, về quê ở Thái Bình. Vùng quê ông có Tinh Thiều, giỏi văn chương, lặn lội sang kinh đô nhà Lương (Nam Kinh) xin bổ một chức quan (trước năm 521). Nam triều Trung Quốc cho đến thời Lương, phân biệt tôn ti chặt chẽ giữa quý tộc và bình dân. Lại bộ thượng thư nhà Lương là Sái Tôn bảo họ Tinh là hàn môn, không có tiên hiền, chỉ cho Thiều làm Quảng Dương môn lang tức là chân canh cổng thành phía tây kinh đô Kiến Khang. Tinh Thiều lấy thế làm xấu hổ, không nhận chức về quê, cùng Lý Bí mưu tính việc khởi nghĩa, chiêu tập hiền tài.

Lý Bí, nhân lòng oán hận của dân, đã liên kết với hào kiệt các châu thuộc miền đất  Giao Châu nước ta (Việt Nam xưa), đồng thời nổi dậy chống Lương. Theo sử cũ Việt Nam, thủ lĩnh Chu Diên (vùng Đan Hoài, nay thuộc ngoại thành Hà Nội) là Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục, phục tài đức Lý Bí đã đem quân theo trước tiên, Phạm Tu cũng là một tướng tài của Lý Bí từ buổi đầu khởi nghĩa.

Cuộc khởi nghĩa thành công nhanh. Đứng trước cuộc khởi nghĩa lớn, có sự liên kết giữa các địa phương Tiêu Tư thứ sử Giao Châu khiếp hãi, không dám chống cự chạy trốn về Việt Châu (bắc Hợp Phố) và Quảng Châu.

Nổi dậy từ tháng 1 năm 542, không quá 3 tháng nghĩa quân đã chiếm được châu thành Long Biên (Bắc Ninh).

Sau những giờ phút kinh hoàng buổi đầu, chính quyền nhà Lương lập tức có phản ứng đối phó. Tháng 4 năm 542 vua Lương sai thứ sử Việt Châu là Trần Hầu, thứ sử La Châu là Nịnh Cư, thứ sử An Châu là Lý Trí, thứ sử ái Châu là Nguyễn Hán, từ 2 phía bắc nam Giao Châu cùng tiến đánh nghĩa quân Lý Bí. Cuộc phản kích này của giặc Lương đã hoàn toàn thất bại. Nghĩa quân thắng lớn và nắm quyền làm chủ đất nước. Từ đồng bằng Bắc Bộ, Lý Bí đã kiểm soát được tới vùng Đức Châu (Hà Tĩnh) ở phía nam và vùng bán đảo Hợp Phố ở phía bắc.

Thua đau, vua Lương lại sai thứ sử Cao Châu là Tôn Quýnh, thứ sử Tân Châu là Lư Tử Hùng điều khiển binh mã đi đánh Lý Bí vào mùa đông năm ấy. Bọn này dùng dằng không chịu tiến quân, lấy cớ mùa xuân lam chướng, xin đợi mùa thu hẵng khởi binh song vẫn bất đắc dĩ phải động binh (tháng 1 năm 543).

Chủ động đánh giặc, nghĩa quân Lý Bí tổ chức một trận tiêu diệt lớn ngay trên miền cực bắc Châu Giao. Cuộc chiến diễn ra ở Hợp Phố. Quân giặc, 10 phần chết tới 7,8 phần, bọn sống sót đều tan vỡ cả, tướng sĩ ngăn cấm cũng không được. Bọn Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng phải dẫn tàn binh quay về Quảng Châu. Tiêu Tư dâng tờ khải về triều, vu cho Tôn Quýnh, Tử Hùng "giao thông với giặc, dùng dằng không tiến quân". Thấy quân lính bị thiệt hại quá nặng, Lương Vũ Đế xuống chiếu bắt cả 2 tên tướng cầm đầu bị tội chết ở Quảng Châu.

Sau những  thắng lợi cả hai chiến trường biên giới Bắc, Nam. Mùa Xuân, tháng Giêng theo lịch Trăng (2-544), Lý Bí dựng lên một nước mới, với quốc hiệu Vạn Xuân, đóng đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Sử cũ (Đại Việt sử ký) đã bình luận rằng, với quốc hiệu mới, người đứng đầu nhà nước Vạn Xuân có "ý mong xã tắc được bền vững muôn đời"

Lý Bí là người Việt Nam đầu tiên tự xưng hoàng đế,  Việt đế theo sử Bắc (Tự trị thông giám) hay Nam đế theo sử Nam. Và bãi bỏ chính sóc (lịch) của Trung Quốc, ông cũng đặt cho Vạn Xuân và triều đại mới một niên hiệu riêng, Đại Đức theo sử Bắc hay Thiên Đức theo sử Nam (Thiên Đức phải hơn, vì khảo cổ học đã tìm thấy những đồng tiền Thiên Đức đúc thời Lý Nam Đế).

Xưng đế, định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng, lấy Nam đối chọi với Bắc, lấy Việt đối sánh với Hoa, những điều đó nói lên sự trưởng thành của ý thức dân tộc, lòng tự tin vững chắc ở khả năng tự mình vươn lên, phát triển một cách độc lập. Đó là sự ngang nhiên phủ định quyền làm "bá chủ toàn thiên hạ" của hoàng đế phương bắc, vạch rõ sơn hà, cương vực, và là sự khẳng định dứt khoát rằng nòi giống Việt phương Nam là một thực thể độc lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết giành quyền làm chủ vận mệnh của mình.

Lý Nam Đế cũng là người đầu tiên nhận ra vị trí địa lý trung tâm đất nước của miền sông nước Tô Lịch. Hà Nội cổ, từ giữa thế kỷ 6, bước lên hàng đầu của lịch sử đất nước.

Cơ cấu triều đình mới, hẳn còn sơ sài, nhưng ngoài hoàng đế đứng đầu, bên dưới đã có hai ban văn võ. Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ, Triệu Túc làm thái phó, Lý Phục Man được cử làm tướng quân coi giữ một miền biên cảnh, từ Đỗ Động (Thanh Oai, Hà Sơn Bình) đến Đường Lâm (Ba Vì) "để phòng ngừa Di Lão"   Triều đình Vạn Xuân là mô hình, lần đầu tiên, được Việt Nam thâu hóa và áp dụng của một cơ cấu nhà nước mới, theo chế độ  tập quyền trung  ương. Lý Nam Đế cho xây một đài Vạn Xuân để làm nơi văn võ bá quan triều hội.

  Nhà nước Vạn Xuân, dù mới dựng, cũng bỏ tiền xây một ngôi chùa lớn, sau trở thành một trung tâm Phật giáo và Phật học lớn của Việt Nam. Đó là chùa Khai Quốc, tiền thân của chùa Trấn Quốc ở Hà Nội ngày nay. Ngay cái tên, "chùa Mở Nước" cũng đã hàm chứa nhiều ý nghĩa!

Đầu năm 545, nhà Lương bắt đầu tổ chức cuộc xâm lược Vạn Xuân nhằm chinh phục lại châu Giao, "thuộc quốc" cũ. Dương Phiêu được cử làm thứ sử châu Giao. Trần Bá Tiên, viên tướng vũ dũng xuất thân "hàn môn" nhưng có công đánh dẹp châu Quảng, được cử làm tư mã Giao Châu, lĩnh thái thú Vũ Bình, cùng Dương Phiêu tổ chức cuộc chinh phục Vạn Xuân.

Quân Vạn Xuân có khoảng vài vạn người giữ thành ở cửa sông Tô Lịch, chiến đấu chống giặc.

Thành đất, lũy tre gỗ, không mấy kiên cố, bị Trần Bá Tiên thúc giục quân vũ dũng công thành ráo riết. Lý Nam Đế buộc phải lui binh ngược sông Hồng, về giữ thành Gia Ninh trên miền đồi núi trung du vùng ngã ba sông Trung Hà - Việt Trì.

Cục diện cố thủ của Lý Nam Đế ở thành Gia Ninh kéo dài suốt mùa khô năm 545. Sang tháng 2 năm 546, quân vũ dũng của Bá Tiên, có hậu quân Dương  Phiêu tới phối hợp, bao vây và công phá, cuối cùng đã hạ được thành Gia Ninh vào ngày 25. Nhưng Lý Nam Đế cùng một số binh tướng đã thoát chạy được vào miền động Lão ở Tân Xương (miền đồi núi Vĩnh Phú trên lưu vực sông Lô). Chiến tranh giữ nước chuyển sang một hình thái khác. Lý Nam Đế vào vùng núi rừng Việt Bắc, ngoài số binh tướng còn lại sau trận  thất thủ Gia Ninh, đã mộ thêm được nhiều nghĩa quân. Nghĩa quân dựng lán trại  trong  rừng, hạ nhiều cây rừng, xẻ ván đóng thuyền bè.

Sau một thời gian chỉnh đốn lại lực lượng, tháng 10 năm 546, Lý Nam Đế lại kéo quân từ trong núi rừng "Di Lão" ra hạ thủy trại ở vùng hồ Điển Triệt (tên nôm là Đầm Miêng) thuộc xã Tứ Yên huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú, nằm bên bờ sông Lô, cách Bạch Hạc khoảng 15 km về phía bắc. Tuy nhiên, những trận mưa lũ cuối mùa đã khiến cho nước sông Lô đột nhiên lên to, tràn vào vùng chằm ao  và ruộng trũng, nước ngập tràn, chảy như rót vào hồ, thuyền lớn có thể đi lại tha hồ mà khu căn cứ nghĩa quân trở thành một vùng  cô đảo giữa biển nước mênh mông... Lợi dụng nước lớn, Trần Bá Tiên xua chiến thuyền xông trận, đánh trống reo hò mà tiến vào Điển Triệt. Lý Nam Đế và nghĩa quân bị địch tập kết bất ngờ, không kịp phòng bị, không sao chống đỡ nổi.

Đây là trận đánh lớn cuối cùng của Lý Nam Đế. Sau lần thất bại lớn thứ ba này, ông phải vào nương náu  trong động Khuất Lão (Tam Nông, Vĩnh Phú).

Tương truyền, về cuối đời, Lý Nam Đế bị mù. Thần thành hoàng Danh Hựu vẫn được các làng chung quan gọi là "Vua mù" và khi tế lễ, phải xướng tên các vật phẩm để thần biết.

Theo sử cũ của Việt Nam, từ sau khi rút về động Khuất Lão, Lý Nam Đế bị đau yếu luôn. Hai năm sau ông mất (548).

Cuộc kháng chiến chống ách Bắc thuộc của người Việt sau đó được tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Triệu Quang Phục, một tướng cũ của Lý Bí với căn cứ khởi nghĩa tại đầm Dạ Trạch.

Giáo sư TRẦN QUỐC VƯỢNG

Năm 546, sau khi thất bại ở trận hồ Điển Triệt, Lý Nam Đế đã chủ động về động Khuất Lão và trao binh quyền lại cho Triệu Quang Phục - một tướng trẻ, có tài. Được sự tin tưởng của Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục đã chỉ huy quân đội rút về cố thủ ở đầm Dạ Trạch, gây dựng lại lực lượng chiến đấu. Sau khi Lý Nam Đế qua đời (548), Triệu Quang Phục xưng làm Việt Vương, kế thừa sự nghiệp đấu tranh giành độc lập của Lý Nam Đế để lại.

Nhà nước Vạn Xuân sụp đổ như thế nào

Triệu Quang Phục – người kế thừa sự nghiệp của Lý Nam Đế

Triệu Quang Phục là người huyện Chu Diên, là con của Triệu Túc, một thủ lĩnh địa phương có lòng yêu nước không chịu khuất phục nhà Lương. Triệu Quang Phục nổi tiếng giỏi võ nghệ. Sử chép ông là người uy hùng sức mạnh. Cha con ông là người đầu tiên đem quân tham gia cuộc khởi nghĩa Lý Bí. Triệu Túc là một danh tướng của nước Vạn Xuân, được phong làm Thái phó trông coi việc binh, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương ở vùng ven biển. Triệu Quang Phục lúc đầu theo cha đi đánh giặc, có công, là một tướng trẻ có tài nên được Lý Nam Đế tin dùng làm tả tướng quân.

Đầu năm 545, quân Lương xâm lược Vạn Xuân, cuộc kháng chiến của nhà Tiền Lý thất bại. Năm 546, khi Lý Nam Đế đại bại ở hồ Điển Triệt, phải lẩn tránh ở động Khuất Lão (Phú Thọ), Triệu Quang Phục được ủy thác quyền trong coi việc nước và chỉ huy quân đội chống lại nhà Lương. Vốn thông thuộc vùng sông nước, Triệu Quang Phục quyết định chuyển hướng chiến lược, thay đổi phương thức tác chiến cũ là phòng ngự, cố thủ hay tập trung lực lượng quyết chiến với địch. Ông đưa hơn một vạn quân từ miền núi về đồng bằng, lập căn cứ kháng chiến ở Dạ Trạch (Hưng Yên). Năm 548, Lý Nam Đế mất. Năm 549, Triệu Quang Phục xưng là Triệu Việt Vương, kế thừa Lý Nam Đế cai trị đất nước và lãnh đạo nhân dân tiếp tục kháng chiến.

Tận dụng địa hình đầm Dạ Trạch làm căn cứ chiến đấu chống quân Lương

Đầm Dạ Trạch nằm bên bờ sông Hồng thuộc tỉnh Hưng Yên. Đây là một đầm lớn, cỏ mọc um tùm, bụi rậm kín mít ở giữa có một khu đất cao có thể trồng trọt lương thực và có thể ở được, xung quanh bốn bề là bùn lầy lội, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ mà chống sào lướt cỏ đi. Nếu vào trong mà không biết đường sẽ bị lạc, nêu rơi xuống đất thì sẽ bị rắn độc cắn.

Triệu Việt Vương đã thông thuộc hết nên đã chọn nơi đây làm địa bàn chiến lược. Ban ngày thì giữ khói lửa, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh phá doanh trại Trần Bá Tiên, cướp được lương thực và làm hao tổn lực lượng của quân nhà Lương. Trần Bá Tiên cho quân bao vây chặt Dạ Trạch, nhưng bất lực không thể vào được, Trần Bá Tiên cho quân cố tìm theo dấu vết nhưng vẫn không được. Trần Bá Tiên mưu tính sẽ cầm cự lâu dài với quân ta nhưng càng ngày lực lượng quân giặc càng tiêu hao vì đêm đến Triệu Việt Vương cho quân tấn công đột xuất bất ngờ.

Năm 550, Trần Bá Tiên siết chặt vòng vây, không cho nhân dân tiếp tế lương thực cho nghĩa quân. Trong khi Trần Bá Tiên chưa thực hiện được kế sách thì nhận được lệnh của vua Lương trở về nước dẹp loạn Hầu Cảnh (đến năm 557, Trần Bá Tiên cướp ngôi nhà Lương, thành lập nhà Trần) nên giao binh quyền lại cho tùy tướng Dương Sàn. Chớp lấy cơ hội đó, Triệu Việt Vương tập trung toàn bộ lực lượng phản kích mạnh mẽ vào quân Lương. Dương Sàn là tướng bất tài, quân Lương thì mỏi mệt do đóng quân lâu dài trên đất nước ta nên nhanh chóng tan rã, bỏ chạy tán loạn. Nhân đà thắng lợi đó, Triệu Việt Vương kéo quân về giải phóng thành Long Biên xây dựng lại nhà nước Vạn Xuân.

Triệu Việt Vương là người có tài dùng binh, biết nhìn nhận đúng đắn tầm quan trọng của địa hình mà bám trụ đó là đầm Dạ Trạch. Bên cạnh đó ông còn kết hợp thêm lối đánh cực kỳ hiệu quả của quân dân ta từ xưa tới nay vẫn thường áp dụng đó là lối đánh du kích. Dùng địa hình làm lá chắn vững chắc và dùng lối đánh du kích để tấn công địch thì còn gì bằng, giống như nhân dân Tây Âu và Lạc Việt thuở trước đã đánh bại quân Tần.

Một chi tiết quan trọng cần nhắc đến là khả năng tận dụng thời cơ của Triệu Việt Vương. Khi Trần Bá Tiên - một viên tướng lão luyện bị triệu về nước thì ngay lập tức ông đã tập trung lực lượng tấn công Dương Sàn, một kẻ bất tài cùng với một đạo quân đã suy yếu.

Sứ mệnh đánh đuổi giặc ngoại xâm của Lý Nam Đế đã được Triệu Việt Vương kế thừa xuất sắc và đã làm nên chiến công lớn, thiết lập lại nền độc lập trên đất nước ta. Với tài thao lược của mình, Triệu Việt Vương đã kiên trì lãnh đạo nhân dân chiến đấu, đạt được thành quả cuối cùng. Đất nước Vạn Xuân được khôi phục và khẳng định quyền tự chủ của nước nhà.

Sự sụp đổ của nhà nước Vạn Xuân dưới thời của Lý Phật Tử

Sau khi Lý Nam Đế lui vào động Khuất Lão, người anh của Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo đã đem một bộ phận binh sĩ chạy sang động Dã Năng (nước Lào) xưng là Đào Lang Vương. Năm 555, Đào Lang Vương qua đời, vì không có con nên Lý Phật Tử được lên nối nghiệp.

Năm 557, Lý Phật Tử đem quân đánh Triệu Việt Vương nhưng thất bại. Triệu Việt Vương nghĩ Lý Phật Tử cũng là dòng họ với Lý Nam Đế nên đã nhận lời giảng hòa. Đến năm 571, Lý Phật Tử phản phúc đánh úp Triêụ Việt Vương, chiếm lấy toàn bộ quyền hành và đất đai thuộc quyền quản lí của Triệu Việt Vương. Lý Phật Tử tự xưng là Lý Nam Đế sử cũ gọi là hậu Lý Nam Đế.

Năm 589 nhà Tùy thống nhất Trung Quốc. Năm 602, vua Tùy buộc Lý Phật Tử vào chầu và thần phục nhà Tùy. Lý Phật Tử chống lại và chuẩn bị lực lượng chống lại nhà Tùy xâm lược. Vua Tùy phong cho Lưu Phương làm Giao Châu đạo hành tổng quản, Kinh Đức Lượng làm trưởng sự chỉ huy 27 quân doanh (10 vạn quân) xâm lược nước ta. Lý Phật Tử đem 2000 quân ra chống đỡ nhưng quân ít, lực yếu nên bị thất bại. Lý Phật Tử đầu hàng và bị giải về Trường An. Nước ta lại bị triều đại phương Bắc cai trị.

Công lao của Lý Nam Đế và Triệu Việt Vương đối với nước Vạn Xuân

Lý Nam Đế là một vị anh hùng tài trí và kiệt xuất đã có công tập hợp quần chúng để dựng cờ khởi nghĩa đánh đổ chế độ đô hộ của nhà Lương, lập ra nhà nước Vạn Xuân, khẳng định nền độc lập tự chủ của nhân dân ta và phủ nhận quyền đô hộ, thống trị của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với dân tộc ta. Trong công cuộc xây dựng đất nước tuy không được bao lâu nhưng ông đã có những công lao đáng ghi nhận như: về kinh tế - tài chính, lần đầu tiên ban hành tiền đồng để lưu thông trong nước; về cơ cấu nhà nước thì đã có sự phân công quan lại để trông coi việc nước. Sau đó, ông cũng đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống lại quân nhà Lương xâm lược gần 3 năm, cuộc kháng chiến chưa kết thúc thì Lý Nam Đế mất để lại biết bao hoài bảo chưa làm xong và người kế tục sự nghiệp to lớn ấy là Triệu Quang Phục.

Triệu Quang Phục lúc trước cũng đã có công theo phò Lý Nam Đế trong công cuộc khởi nghĩa, xây dựng đất nước và chống giặc ngoại xâm. Sau khi được Lý Nam Đế tin tưởng trao binh quyền, ông xưng là Triệu Việt vương và tiếp tục sự nghiệp lãnh đạo nhân dân chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Sự chiến đấu ngoan cường của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Triệu Việt Vương đã đánh lui được kẻ thù và khôi phục nền độc lập, tự chủ cho nước Vạn Xuân. Điều tiếc nuối nhất trong đời của Triệu Việt Vương có thể nói là đã để nước Vạn Xuân rơi vào tay Lý Phật Tử - một kẻ bất tài đã đầu hàng nhà Tùy năm 581, kết thúc vai trò lịch sử của nhà nước Vạn Xuân và đất nước chúng ta lại một lần nữa bị giặc phương Bắc đô hộ.

Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương - hai con người đã viết nên trang sử hào hùng cho đất nước ta trong thời đại Bắc thuộc, thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, kiên cường, bất khuất của nhân dân ta không cam chịu bị ách đô hộ ngoại bang. Lý Nam Đế có công dựng cờ khởi nghĩa lập nhà nước Vạn Xuân, Triệu Việt Vương có công đấu tranh bảo vệ nền độc lập nước nhà. Cả hai người điều là bậc anh tài kiệt xuất đã cống hiến cả cuộc đời mình vì sự nghiệp chung của đất nước là đánh đuổi giặc ngoại xâm để giành độc lập tự chủ cho dân tộc. Cả hai người đáng được người hậu thế ngàn đời ca ngợi và được lưu danh mãi mãi trong sử sách.

Tham khảo:

Đại cương Lịch sử Việt Nam

Các triều đại Việt Nam

Việt sử giai thoại

Thanh Hải - DH11SU


Page 2

CLB Văn thơ

CLB Âm nhạc

CLB Sử học

CLB Tin học

CLB Ngoại ngữ

CLB Sách & Bạn đọc

CLB Nghệ thuật

CLB Tâm tình trẻ

CLB Môi trường

CLB Du lịch


Page 3


Page 4


Page 5


Page 6

Thứ Ba, 06 Tháng Mười Hai 2011 07:28

Những kí ức về cô tôi không còn nhớ nhiều nữa, vì đã tám năm rồi còn gì. Khi rảnh rỗi tôi hay ngồi trầm ngâm một mình, rồi lục đục tìm mớ kỉ niệm của thời áo trắng ra xem. Nào là cuốn cuốn lưu bút đã nhòe vàng, xấp hình dày cộm, hay mấy tấm thiệp chúc mừng sinh nhật, chúc Tết, Noel… do bạn bè tặng. Nhưng chẳng có bức ảnh nào có cô, cũng không có thứ gì đặc biệt liên quan đến khoảng thời gian của tám năm về trước, duy chỉ có cái băng rôn bé tí rất dễ thương mang dòng chữ “Congratulations” của nhỏ Huỳnh tặng tôi khi học kì đầu tôi được học sinh giỏi. Lúc xem, tôi cứ cười hoài, theo sau đó là những chuỗi ngày học lớp sáu ùa về với bao kỉ niệm thân thương, hình ảnh cô thấp thoáng lướt qua tâm trí tôi, tôi cố nhớ, nhớ gương mặt cô, nhớ bộ áo dài cô hay mặc khi đến lớp và tôi lặng người đi khi ngày hôm ấy, ngày biết tin cô không còn dạy nữa, nỗi xót xa bất chợt quay về.


Page 7


Page 8