Nhà nước Ottoman ban đầu khỏi binh từ vùng đất nào

  • Anh - Iraq 1941: Cuộc chiến bị lãng quên trong lòng đại chiến

"Con bệnh" của Đông Âu

Vào thời điểm ấy, đế quốc Ottoman đã trượt dài khỏi đỉnh cao cường thịnh từ rất lâu, nhưng vẫn chưa chính thức cáo chung. Cơn vật vã đó chỉ thực sự chấm dứt với sự kết thúc của Đệ nhất Thế chiến. Song, khi Chiến tranh Balkan lần thứ nhất bùng nổ, Ottoman đã không ngừng bị các đại cường châu Âu "xâu xé".

Từ Hiệp ước Berlin ký kết ngày 1/7/1878 cho đến đầu thế kỷ XX, lần lượt đã có từng mảnh của đế quốc Ottoman tuyên bố độc lập. Trong đó, với sự hậu thuẫn của những người anh em thuộc chủng tộc Slave ở phía Bắc - nước Nga, có một giấc mơ "Đại Serbia" bắt đầu nhen nhóm, để sau này được cụ thể hóa thành cái tên Nam Tư (Yugoslavia - Nam Slave), đất nước của những người Slave ở Nam Âu theo Chính thống giáo Đông phương.

Có những điều khoản trong Hiệp ước Berlin, điều 23 và điều 62, quy định rằng chính quyền đế quốc Ottoman sẽ phải đối xử bình đẳng với mọi công dân của mình, bất kể tín ngưỡng hay tôn giáo. Song, khi tận tâm nỗ lực làm mọi cách để cải tổ đất nước nhằm đưa Ottoman trở lại thời hoàng kim, Sultan (Hoàng đế Hồi giáo) Abdul Hamid đệ nhị lại phớt lờ nhu cầu (và cũng là xu hướng tất yếu) này. Là một vị vua sùng đạo, ông dĩ nhiên vẫn tuyệt đối ưu tiên các công dân là tín đồ Hồi giáo, trao cho họ mọi đặc quyền, bất kể họ có là thiểu số ở không ít khu vực nằm trong cương thổ đế quốc.

Chính bởi thế, ngày 27/4/1909, khi Abdul Hamid bị cuộc cách mạng khởi phát từ Macedonia, do một nhóm dân tộc chủ nghĩa mang tên Thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ (Young Turks) lật đổ, những mầm mống chia rẽ mau chóng biến đế quốc Ottoman thành mồi ngon cho những toan tính địa chính trị, khi quyền cai trị của triều đình trung ương Ottoman tại Constantinople (nay là Istanbul) lung lay đến tận gốc rễ.

Ottoman dấn thân vào cuộc chiến mà thiếu sự chuẩn bị kỹ lưỡng.

Phía Tây, đế quốc Áo - Hung nhanh chóng hành động, với việc sáp nhập hai tỉnh Balkan là Bosnia và Herzegovina, đồng thời hậu thuẫn Bulgaria độc lập. Vấn đề là, Serbia - vốn coi Bosnia-Herzegovina là một phần lãnh thổ hợp pháp của riêng mình, do có chung nguồn gốc Slave, vô cùng giận dữ về điều này. Trong khi đó, nước Nga Sa hoàng cũng giật mình cảnh giác với những tham vọng không giấu giếm của Áo - Hung.

Bởi vậy, đến mùa xuân 1912, Moskva đã thúc đẩy xong việc thành lập một liên minh Balkan bao gồm Serbia, Bulgaria, Montenegro và Hy Lạp, nhằm giành quyền kiểm soát một số hoặc toàn bộ phần lãnh thổ châu Âu vẫn còn do Đế chế Ottoman chiếm đóng. 

Cho dù vẫn tiềm ẩn không ít mâu thuẫn, các quốc gia Balkan đó vẫn sẵn lòng hợp lực cùng tấn công Ottoman. Đặc biệt là khi Ottoman đã và đang phải căng mình chia sức cho một mặt trận khác: Cuộc chiến tranh với Ý, xoay quanh vùng thuộc địa Bắc Phi - Libya. Montenegro tuyên chiến với Ottoman ngày 08/10/1912, và sau đó chín ngày là Serbia, Bulgaria và Hy Lạp.

Sự hỗn loạn tiếp nối

Kể cả với những điều kiện khách quan và chủ quan như vậy, châu Âu nói riêng và thế giới nói chung vẫn "sốc" với kết quả của cuộc chiến Balkan lần thứ nhất.

Chỉ trong vòng 1 tháng, liên quân Balkan đánh bật quân Thổ ra khỏi gần như toàn bộ mọi khu vực lãnh thổ của họ ở miền đông nam châu Âu. Nguyên nhân của thất bại toàn diện và chóng vánh này được giới nghiên cứu quân sự chỉ ra những nguyên nhân mấu chốt.

Đầu tiên, quân đội đế quốc Ottoman quá thiếu lực lượng, trong tương quan so sánh với các địch thủ. Họ bắt buộc phải ban hành lệnh tổng động viên vào ngày 1/10/1912, song tiến trình này cũng mới chỉ được hoàn thành một phần, vào lúc chiến tranh bùng nổ: Chỉ có khoảng 580.000 lính Ottoman đối mặt với 912.000 binh sĩ của Liên minh Balkan.

Thứ hai, hệ thống đường đất xuống cấp trầm trọng (nhất là trong điều kiện những cơn mưa mùa thu bắt đầu trút xuống, làm mọi hướng động binh đều trở nên lầy lội) cùng hệ thống đường sắt còn quá sơ khai cũng là một tác nhân cản trở sự suôn sẻ trong mọi kế hoạch vận trù. Tuyển quân chậm, chuyển quân chậm, tiếp vận không thông suốt, đến cả các tân binh lẫn các chỉ huy cũng không có đủ thời gian tối thiểu để hòa nhập với đơn vị mới, không có gì ngạc nhiên khi quân đội Ottoman tham dự cuộc chiến này chỉ còn là cái bóng mờ nhạt, là sự thừa kế đáng xấu hổ của cha ông họ - những chiến binh Hồi giáo với lá cờ nửa vành trăng từng khiến cả châu Âu run sợ vào quãng thế kỷ XVI - thế kỷ VII.

Thứ ba, tuy thực lực không còn, nhưng sự cao ngạo vẫn nguyên đó. Đến cả hai vị tướng soái hàng đầu như Pasha (Thống chế, Đô đốc) Nazim và Pasha Mahmund Muhtar cũng tỏ ra quá lạc quan, nếu không muốn nói là coi thường đối thủ - những kẻ phản loạn. Họ chủ trương tổng tấn công phủ đầu, bất chấp những lời can ngăn của cấp dưới, những đề xuất phòng ngự nhằm bào mòn "sĩ khí" của Liên minh Balkan, cũng như chờ đợi hệ thống tiếp vận được hoàn thiện.

Sâu xa hơn, kể từ khi Sultan Abdul Hamid II lên nắm quyền cai trị, do lo sợ nguy cơ đảo chính, các hoạt động diễn tập quân sự của Ottoman bị hạn chế rất nhiều. Còn sau cách mạng Young Turks 1908, đội quân ấy vẫn chưa thật sự quay trở lại được với quy củ cần thiết.

Do đó, việc thế trận của Ottoman nhanh chóng tan vỡ, dẫn đến việc quyền thống trị của họ ở Đông Nam Âu sụp đổ hoàn toàn là một kết cục bất ngờ, nhưng lại dễ hiểu. Nhìn tổng thể, đó là hệ quả của cả một chuỗi vận động kéo dài đã hơn một thế kỷ.

Một đơn vị Bulgaria ăn mừng chiến thắng, nhưng cuối cùng Bulgaria vẫn là phía thua thiệt.

Vấn đề là, cũng như mọi cuộc chiến khác ở đầu thế kỷ XX - thậm chí là cả Đại chiến thế giới lần thứ nhất, chiến thắng toàn vẹn của Liên minh Balkan không giải quyết hết được các vấn đề mâu thuẫn còn tồn tại, nhất là các vấn đề liên quan đến lãnh thổ, sắc tộc hay tôn giáo.

Ngay khi các đoàn quân Ottoman bị đánh bật khỏi Balkan, những cường quốc khác đã nhanh chóng lấp vào khoảng trống quyền lực. Anh, Pháp, Đức, Áo-Hung và Nga lập tức lên tiếng, tranh giành quyền kiểm soát khu vực, triệu tập hội nghị với các nước tham chiến ở Luân Đôn vào tháng 12/1912, nhằm phân chia biên giới ở Balkans thời hậu chiến.

Theo hòa ước ký ngày 20/5/1913, Macedonia được đem chia cho bốn cường quốc Balkan chiến thắng. Tuy nhiên, Bulgaria cảm thấy mình bị Serbia và Hy Lạp "chèn ép". Điều này đã khơi mào cho Chiến tranh Balkan lần thứ hai, nổ ra chỉ một tháng sau đó, khi  Bulgaria bất ngờ tấn công hai đồng minh cũ. Mặc dù vậy, Bulgaria vẫn dễ dàng bị đánh bại bởi liên quân Serbia, Hy Lạp, Ottoman và Romania. Theo các điều khoản của Hiệp ước Bucharest, ký ngày 10/08/1913, Bulgaria mất một phần lớn lãnh thổ, còn Serbia và Hy Lạp nhận quyền kiểm soát phần lớn Macedonia.

Những mầm mống hỗn loạn tại Balkan, vì thế, cũng vẫn cứ mãi cháy âm ỉ, đến tận cuối thế kỷ XX - với những cuộc huynh đệ tương tàn giữa Serbia - Croatia - Bosnia khi Liên bang Nam Tư tan rã. Tuy nhiên, vào thời điểm 1912-1913, ý nghĩa lớn nhất của hai cuộc chiến tranh Balkan ấy là sự xác nhận đà suy tàn không thể cưỡng lại của Đế quốc Ottoman một thời lừng lẫy. Việc cái tên đó biến mất khỏi bản đồ thế giới sau năm 1918, và tái sinh thành Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại là điều có thể nhìn thấy trước, từ kết cục của Chiến tranh Balkan.

"Áo - Hung và đồng minh thân thiết là nước Đức không hề muốn Serbia trỗi dậy như một ngọn cờ của sắc dân Slave ở Đông Nam Âu. Trong một bức thư gửi ngoại trưởng Áo-Hung vào tháng 10/1913, báo trước cuộc xung đột toàn cầu tàn khốc sắp xảy ra, Hoàng đế Wilhelm II viết:  "Chiến tranh giữa Đông và Tây về lâu dài là điều không thể tránh khỏi. Người Slave sinh ra không phải để cai trị mà là để phục tùng" - một tiền đề tư tưởng của Đức Quốc xã.

"Chiến thắng của Liên minh Balkan kết thúc năm thế kỷ thống trị của Đế quốc Ottoman ở bán đảo Balkan. Ottoman mất tất cả những lãnh thổ của họ ở châu Âu, trừ vài dải đất nhỏ. Phần lớn Thrace và Đông Macedonia sáp nhập vào lãnh thổ Bulgaria. Serbia chiếm Kosovo cùng các khu vực tây bắc của Macedonia. Hy Lạp chiếm Eripus cũng như các đảo trong biển Aegean. Còn sau Hiệp ước Luân Đôn, khu vực tây nam Macedonia thành lập một nhà nước Albania độc lập.

Mây Linh

Tìm hiểu lịch sử về đế quốc Ottoman, một trong những đế chế hùng mạnh và lâu dài nhất trong lịch sử thế giới.

Đế chế Ottoman, đế chế được tạo nên bởi các bộ lạc Thổ Nhĩ Kỳ ở Tiểu Á, đã phát triển trở thành một trong những đế quốc hùng mạnh nhất thế giới trong thế kỷ 15 và 16. Đế chế Ottoman kéo dài hơn 600 năm cho đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất và hoàn toàn kết thúc vào năm 1922. Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ và một số quốc gia khác kế vị đế chế này ở đông nam châu Âu và Trung Đông. Quá trình hình thành và phát triển của đế chế hùng mạnh này chắc chắn sẽ mang lại nhiều hiểu biết thú vị cho chúng ta.

Nguồn gốc của đế chế Ottoman

Tổ tiên của đế chế Ottoman hùng mạnh là một phần bộ lạc du mục người Tây Đột Quyết (Gokturk), vì không chịu sống dưới ách cai trị của nhà Đường nên đã di cư đến lãnh thổ Ba Tư và khu vực tiểu Á vào khoảng thế kỉ X. Bởi mang dòng máu của người Đột Quyết – tộc người gắn liền với những cuộc chinh phạt, xâm chiếm đất đai nên bộ tộc này đã mở rộng đến vùng phía tây tới Armenia và Tiểu Á vào đầu thế kỷ 11.

Quá trình bành trướng đó đã khiến họ nảy sinh những mâu thuẫn với đế quốc Byzantine – còn được biết đến với tên gọi là đế quốc Đông La Mã. Kết quả của những mâu thuẫn này dường như đã ngã ngũ kể từ sau năm 1071, với chiến thắng lịch sử tại trận Manzikert, Đông La Mã đại bại, họ đã tạo nên một đế quốc Seljuk hùng mạnh và là tiền thân của Ottoman ở vùng Tiểu Á.

Vào năm 1243, bởi sự xâm chiếm của Mông cổ – đế chế hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ, Seljuk nhanh chóng bị đánh bại và phân chia thành các vương quốc nhỏ gọi là beylik. Một thủ lĩnh người Kayi là Ertuğrul Gazi đã nhận được vùng đất miền Tây Seljuk trong một cuộc va chạm biên giới nhỏ, đồng thời được sự cho phép và bảo vệ của Seljuk, thủ lĩnh này đã hợp tác với một số dân tộc khác xây dựng lực lượng quân sự, phát triển sức mạnh nội tại của bộ tộc rồi xây dựng một đế chế cho riêng mình.

Nền móng đầu tiên của đế quốc Ottoman

Khi Ertuğrul Gazi qua đời năm 1281, Osman – con trai của ông đã trở thành người kế nhiệm. Ngay sau đó, vào năm 1299, Osman tuyên bố mình là một Sultan – vị vua đầu tiên và thành lập triều đại Ottoman. Triều đại Osman I đánh dấu sự khởi đầu chính thức của đế chế Ottoman kéo dài trong 6 thế kỷ.

Trong khi những vương quốc khác còn bận tâm tới việc xử lý những mâu thuẫn nội bộ, Osman I đã mở rộng lãnh thổ của Ottoman đến tận rìa của đế quốc Đông La Mã. Năm 1326, sau khi Osman mất con trai ông – Orhan lên ngôi và dời đô đến Bursa, mở đầu triều đại Orhan I và định hình sự phát triển chính trị ban đầu của dân tộc.

Trong khi những triều đại khác trên thế giới lúc bấy giờ ra sức cai trị lãnh thổ bằng lối cai trị theo kiểu quân sự thì Ottoman lại đi ngược lại điều đó. Với hệ thống cai trị khác biệt – tránh sự cai trị theo kiểu quân sự, triều đình tạo ra một hệ thống pháp lý theo kiểu tự trị. Theo đó, các dân tộc ít người và hệ thống tôn giáo được tự quản lý công việc của mình một cách độc lập, ít chịu kiểm soát từ chính quyền trung ương.

Triều đình Ottoman hình thành trong thời kỳ này dường như không hề có sự thay đổi gì trong khoảng 4 thế kỷ sau đó. Năm 1360, không bao lâu sau khi Orhan mất, Murad I đã trở thành quốc vương mới và tiếp tục chinh phục những vùng lãnh thổ xung quanh để mở rộng sự thống trị của đế quốc Ottoman.

Mở mang bờ cõi và nội chiến

Trong khoảng 1 thế kỉ sau đó, sự kiểm soát của đế chế hùng mạnh này không ngừng được mở rộng tới vùng miền Đông địa trung hải và Balkan. Thessaloniki, một thành phố quan trọng của Venezia bị chiếm năm 1387.

Năm 1389, chiến thắng của quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Kosovo làm cho Serbia mất quyền kiểm soát trên vùng đất này, mở đường cho các cuộc xâm lược châu Âu của Sultan. Trận Nicopolis năm 1396 được xem là cuộc Thập tự chinh cuối cùng của thời Trung cổ, trong trận này quân Thập tự chinh đại bại trước quân Ottoman.

Với sự mở rộng ảnh hưởng của người Thổ vào vùng Balkan, thì cuộc chinh phục chiến lược vào Constantinople đã trở thành mục tiêu quyết định. Đế quốc đã chiếm được các vùng đất Đông La Mã phụ cận Constantinople, nhưng người La Mã vẫn đứng vững được khi Tamerlane xâm lược Tiểu Á, và bỏ tù Sultan Bayezid I sau trận Ankara năm 1402.

Các lãnh thổ Ottoman ở vùng Balkan (điển hình như Thessaloniki, Macedonia và Kosovo) đều bị mất năm 1402 nhưng sau này được lấy lại bởi Murad II trong những năm 30, 40 của thế kỉ XV.

Từ năm 1402 đến 1413, nội chiến bùng nổ giữa các con của Bayezid, đất nước rơi vào loạn lạc, đế quốc Ottoman rơi vào thời kỳ đứt quãng trong lịch sử. Thời kỳ này chỉ thực sự kết thúc khi vua Mehmed II lên ngôi và xây dựng lại đất nước.

Bất cứ Sultan nào của đế quốc Ottoman cũng đều mang trong mình tham vọng mở rộng lãnh thổ bằng đội quân tinh nhuệ của đế quốc mình. Khát vọng đó khiến cho đế quốc đang dần lụi tàn Đông La Mã không khỏi lo sợ.

Đế quốc Ottoman hùng mạnh nhất lịch sử

Từ thời Vua Mehmed I và Mehmed II, quân đội Ottoman đã từng bước gặm nhấm rồi nuốt trọn cả vùng lãnh thổ La Mã rộng lớn. Đặc biệt vào thời Mehmed II, ông đã cho tái cấu trúc lại nhà nước và quân đội, thực hiện nhiều chính sách về giáo dục đồng thời ban hành bộ luật đầu tiên của Ottoman. Ông đã thể hiện kĩ năng quân sự tuyệt vời của mình trong cuộc chiến tranh đánh thẳng vào kinh đô Constantinople của La Mã trong năm 1453. Đế chế La Mã chính thức đổi ngôi, thành phố Constantinople đã trở thành kinh đô mới của đế quốc Ottoman, mở ra một kỷ nguyên mới cho đế chế Ottoman – kỷ nguyên phát triển thịnh vượng.

Từ khi khởi lập vào cuối thế kỉ XIII đến khi đạt được sự thịnh trị tối cao vào thế kỉ XVI, XVII, lãnh thổ Ottoman đã trải dài ở cả ba châu lục Á, u, Phi với diện tích lên đến 5,5 triệu km2 với khoảng 25 triệu dân – một con số khổng lồ vào thời kỳ này.

Cụ thể: Đế quốc Ottoman đã trải dài toàn bộ đông-nam châu Âu bờ bắc Địa Trung Hải, cả bờ biển bắc châu Phi cho đến Maroc phía nam Địa Trung Hải và trên phần lãnh thổ của Ottoman cũ ngày nay đã có gần 30 quốc gia được thành lập.

Vào đầu thế kỷ XVI, đế quốc Ottoman trở thành một trong những nhà nước lớn nhất thế giới thời bấy giờ với nền chính trị hùng mạnh. Vua Selim I – một trong những ông vua kiệt xuất của đế chế lên ngôi vào năm 1512 đã có công sáp nhập vùng Trung Đông vào lãnh thổ Ottoman.

Năm 1514, ông đã đánh bại vua Ismail I (1501-1524) nhà Safavid của đế quốc Ba Tư trong trận Chaldiran rồi đến năm 1517 đã tiêu diệt nhà Mamluk người trị vì ở Ai Cập, bắt đầu một thời kỳ Ai Cập thuộc Ottoman.

Năm 1520, Selim I mất, vua Suleiman I – người được phương tây biết đến với cái tên Suleiman Đại đế đã lên ngôi, đưa đế chế Ottoman lên đến đỉnh vinh quang trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, quân sự đến văn hóa, xã hội.

Ông đã tái xây dựng lại hệ thống luật pháp của Ottoman và tiếp tục công cuộc mở mang bờ cõi. Sau khi thôn tính được Beograd năm 1521, Suleiman mang quân chinh phục Vương quốc Hungary sau chiến thắng trong trận Mohács năm 1526. Sau đó, năm 1529 ông bao vây thành Wien, nhưng vì thời tiết ở đây khắc nghiệt nên quân đội ông rút lui.

Năm 1532, 25.000 quân Ottoman mở cuộc tấn công Wien, nhưng bị đẩy lui cách Wien 97 km tại pháo đài Guns. Sau cuộc mở mang xa nhất của đế quốc Ottoman năm 1543, hoàng đế Habsburg là Ferdinand công nhận quyền cai trị của Ottoman trên đất Hungary năm 1547.

Dưới triều đại Suleiman I, Transylvania, Wallachia và Moldova trở thành những công quốc chư hầu của đế quốc. Ở phía đông, Ottoman chiếm Baghdad từ tay Ba Tư năm 1535, và liên tiếp chiếm được Lưỡng Hà và Vịnh Ba Tư những năm sau đó. Khi thời đại Suleiman kết thúc, dân số Ottoman lên đến 15.000.000 người.

Từ năm 1571 – 1573, khi chiến tranh Thổ Nhĩ kỳ – Venezia nổ ra, hải quân Ottoman đã tiến quân xâm chiếm đảo Síp và cuối cùng buộc Venezia kí hòa ước nhượng hòn đảo này cho Ottoman trong năm 1573.

Lãnh thổ cực thịnh của Đế quốc Ottoman dưới thời trị vì của Sultan Mehmed IV vào năm 1683. Ảnh: Wikimedia.

Giai đoạn đế quốc Ottoman suy yếu

Đầu thế kỉ XVII, đế quốc Ottoman bắt đầu rơi vào giai đoạn suy yếu. Các Sultan vào lúc này thường chỉ vui hưởng trong hậu cung, ngoài ra, binh đoàn Janissary thường hay nổi dậy. Bên ngoài, quyền lực của đế quốc Ottoman bị suy giảm trầm trọng đến nỗi tàu thuyền của người Venezia và người Cozak thường xuyên quấy phá. Đồng thời cũng vào thời điểm này, quân Ba Tư cũng mở cuộc tấn công vào lãnh thổ Ottoman ở Lưỡng Hà.

Năm 1656, dưới triều Mehmed IV (1648-1687), trong khi đế quốc gần bị sụp đổ, triều đình đành phải cử một người Albania 71 tuổi, Köprülü Mehmed Pasha làm tể tướng (1656-1661). Tuy nhiên Köprülü Mehmed Pasha đã có nhiều chính sách quyết liệt để bài trừ nạn tham nhũng đang tồn tại. Tình hình Ottoman đã ổn định hơn vào đầu những năm 1670.

Dưới quyền Tể tướng Köprülü Fazıl Ahmed Pasha (1661-1676), và sau đó là tể tướng Kara Mustafa Pasha (1676-1683), uy quyền của Ottoman được hồi phục. Trong khoảng thời gian này các hạm đội của Venezia, Ba Lan, Áo và Nga đã tấn công Ottoman nhưng liên tiếp bị đẩy lui. Quân đội Ottoman cũng thành công xâm chiếm Ukraine và Podolia.

Đế quốc Ottoman hồi phục

Đến năm 1680, đế quốc Ottoman đã khôi phục mạnh mẽ, khi lãnh thổ đạt mức rộng lớn nhất trong lịch sử đế quốc lên tới 11.5 triệu km². Đế chế Ottoman dù đạt được sự thịnh trị đỉnh cao song vẫn không dừng lại ở đó mà vẫn liên tục mở những cuộc tấn công xâm lược lãnh thổ của những quốc gia khác.

Năm 1683, đáp lời kêu gọi của Hungary chống lại hoàng đế Leopold I của Thánh Chế La Mã, Sultan Mehmed IV đã ra lệnh cho tể tướng Kara Mustafa phái 200.000 quân ngược dòng sông Donau, và lần thứ hai trong lịch sử, quân Ottoman tiến đến chân tường thành của Wien, nhưng cuối cùng bị liên minh các nước Tây Âu (Liên minh Thần thánh), do vua Ba Lan Jan III Sobieski chỉ huy, đánh bại.

Trận Wien đánh dấu sự bắt đầu của cuộc Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ (1683-1699) ở châu Âu. Trong những năm tiếp theo, quân Ottoman liên tiếp bại trận do sức tiến công từ Wien. Cuộc đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ kết thúc với Hiệp ước Karlowitz ngày 26 tháng 1 năm 1699, và theo hiệp ước này Ottoman phải nhượng cho Áo một số vùng lãnh thổ như Hungary.

Giai đoạn trì trệ, cải tổ và hiện đại hóa

Nhưng sau khi bước sang thế kỷ XVIII, Ottoman lại rơi vào thời kỳ trì trệ, nhiều vùng lãnh thổ dưới sự kiểm soát của Ottoman ở những thế kỷ trước đã dần dần lấy lại được độc lập trên thực tế. Vào thế kỷ 18, chính quyền trung ương đã cho các lãnh đạo và thủ lĩnh địa phương nhiều mức tự quyết hơn. Một loạt các cuộc chiến đã diễn ra giữa đế quốc Nga và đế quốc Ottoman từ thế kỉ từ 17 đến thế kỉ thứ 19 nhằm mở rộng lãnh thổ về phía biển Đen và khu vực Caucasus. Nhưng phần lớn chiến thắng đều thuộc về phía Nga.

Vào giai đoạn sau của thời kỳ đình trệ, Ottoman đã có nhiều cải tổ trong nền giáo dục và công nghệ và đạt được một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên, cũng chính trong giai đoạn này, các thế lực bảo thủ và phản đối công nghệ xuất hiện. Hội đoàn các nhà văn của đế chế cho rằng kỹ thuật in ấn là “sáng tạo của quỷ dữ” khiến công nghệ in, được Gutenberg Johannes phát minh ở châu Âu năm 1450, phải mất 43 năm sau, tức là năm 1492, mới được giới thiệu tại Constantinople nhờ vào những người Do thái.

Đến thời kỳ Sultan Ahmed III (1703-1730) với hoa tulip được dùng như một biểu tượng thể hiện sự thanh bình của triều đại nên còn được biết tới là thời đại Tulip. Trong giai đoạn này, chính sách của đế chế với châu Âu có sự thay đổi. Đất nước thanh bình từ năm 1718 đến 1730, sau khi Ottoman thắng Nga trong Chiến dịch Pruth năm 1712 và hiệp định Passarowits được ký kết sau đó mang đến một giai đoạn đình chiến.

Đế quốc này sau đó đang cải thiện hệ thống thành lũy ở các thành phố tiếp giáp các nước Balkan như một hành động phòng vệ chống lại chủ nghĩa bành trướng của châu Âu. Một số cải cách không dứt khoát cũng được tiến hành: hạ thuế; cải thiện hình ảnh của các bang Ottoman; hình thái đầu tiên của đầu tư tư nhân và doanh nghiệp tư nhân xuất hiện.

Nỗ lực cải tổ quân sự Ottoman được bắt đầu với Sultan Selim III (1789-1807) – người đưa ra những nỗ lực lớn đầu tiên để hiện đại hóa quân đội gần biên giới châu Âu. Tuy nhiên, đáng buồn thay những nỗ lực của Selim đã khiến ông mất đi ngai vàng và cả mạng sống bởi cuộc khởi nghĩa của quân đoàn Janissary.

Các vấn đề với các Janissary sau đó đã được giải quyết với phương thức hết sức đẫm máu bởi 1 trong những người kế tục ông, hoàng đế Mahmud II (1808-1839) – người đã tiến hành thảm sát rồi giải tán quân đoàn Janissary năm 1826.

Đế chế Ottoman suy yếu và sụp đổ

Đến thế kỷ 19, đế chế Ottoman suy yếu thực sự khi lãnh thổ ngày càng bị thu hẹp, kinh tế sụt giảm và bắt đầu gia tăng sự phụ thuộc vào phần còn lại của châu Âu. Các cuộc chiến tranh Balkan (Balkan Wars) trong hai năm 1912 và 1913 đã khiến Đế chế Ottoman hao tổn rất lớn về lãnh thổ và dân số.

Giữa thế kỷ 19, đế chế Ottoman đã thực hiện một cuộc cải cách nhằm hiện đại hóa đất nước, cố gắng lấy lại một phần sức mạnh đã mất, nhưng nỗ lực này phần lớn không thành công.

Khi Thế chiến thứ I (1914-1918) nổ ra, đế chế Ottoman đã gia nhập một liên minh bí mật với Đức. Cuộc chiến sau đó là thảm họa bởi sự sụp đổ của đế chế Ottoman là hậu quả trực tiếp từ Thế chiến I. Hơn hai phần ba quân đội Ottoman bỏ mạng trong Thế chiến I và có tới 3 triệu dân thường thiệt mạng.

Những năm sau khi Thế chiến thứ I kết thúc, Mustafa Kemal Atatürk và lực lượng Cách mạng Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu cuộc chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1923, lực lượng cách mạng Thổ thắng trận, Sultan Mehmed VI Vahdettin buộc phải thoái vị, và Mustafa Kemal Atatürk thành lập nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, dựa trên một phần lãnh thổ của đế quốc Ottoman.

Đế quốc Ottoman trong hơn 600 năm tồn tại đã trở thành một đế quốc hùng mạnh với lãnh thổ trải dài, quân đội tinh nhuệ và đa dạng về sắc tộc, tôn giáo, văn hóa. Tuy kết thúc của chiến tranh thế giới thứ nhất đồng thời đã chấm dứt vai trò lịch sử của đế chế hùng mạnh này song Ottoman thực sự đã đặt một dấu ấn đáng nhớ trong dòng chảy của lịch sử nhân loại.

Lịch sử thay đổi lãnh thổ của Đế quốc Ottoman từ năm 1299-1923:

  • Màu xanh: Lãnh thổ Đế quốc Ottoman
  • Màu đỏ: Lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kì sau khi Đế quốc Ottoman tan rã

Tóm tắt nhanh Đế quốc Ottoman:

Đế quốc Ottoman còn được gọi là đế quốc Osman hay đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ cũ: دولتِ عَليه عُثمانيه Devlet-i Âliye-i Osmâniyye, dịch nghĩa “Nhà nước Ottoman Tối cao”; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại: Osmanlı İmparatorluğu), là một đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ đã tồn tại từ thời kì trung đại năm 1299 đến 1923 (Wikipedia).

Thời đỉnh cao quyền lực của đế quốc Ottoman ở thế kỷ 16 và thế kỷ 17, các lãnh thổ của đế chế này gồm các vùng Tiểu Á, Trung Đông, nhiều phần ở Bắc Phi, và đa phần đông nam châu Âu đến tận Kavkaz và tỉnh Aceh của đảo Sumatra thuộc Indonesia. Đế quốc Ottoman chiếm một vùng có diện tích khoảng 5,6 triệu km², nhưng vùng ảnh hưởng thực tế của đế quốc rộng hơn rất nhiều nếu tính cả các vùng lân cận do các bộ lạc du mục cai quản nhưng không được nhiều người biết hoặc đề cập tới cụ thể như Ả rập thuộc Ottoman và một phần ven sông của vùng Sừng Châu Phi thì có thể đến 11,5 triệu km², nơi quyền bá chủ của đế quốc này được công nhận.

Với Istanbul là thủ đô, một khu vực trọng yếu của tuyến giao thương ở Châu Âu, đế quốc này có thể quyền kiểm soát các vùng đất xung quanh Địa Trung Hải cũng như cả toàn bộ Châu Âu. Nhờ có vị trí địa lí quan trọng, đế quốc Ottoman là trung tâm của sự tương tác giữa thế giới phương Đông và phương Tây trong sáu thế kỷ.

Đế quốc Ottoman từng được cho là đã bước vào thời kỳ suy tàn sau cái chết của Sultan Suleiman I, nhưng quan điểm này không còn được đa số các sử gia học thuật ủng hộ. Đế quốc tiếp tục duy trì một nền kinh tế, xã hội và quân sự trong suốt thế kỷ 17 và trong phần lớn thế kỷ 18. Tuy nhiên, trong thời kỳ hòa bình kéo dài từ năm 1740 đến năm 1768, hệ thống quân sự của Ottoman đã bắt đầu lạc hậu hậu so với hai đối thủ Châu Âu truyền kiếp của họ là đế quốc Áo và đế quốc Nga.

Người Ottoman do đó đã phải hứng chịu những thất bại quân sự nghiêm trọng vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 khi thực hiện các cuộc chiến tranh, điều này đã thúc đẩy họ bắt đầu một quá trình cải cách và hiện đại hóa toàn diện được gọi là Tanzimat. Do đó, trong suốt thế kỷ 19, nhà nước Ottoman đã trở nên hùng mạnh và có tổ chức hơn rất nhiều, nhưng do cải tiến đã quá muộn nên phải chịu thêm tổn thất về lãnh thổ, đặc biệt là ở vùng Balkan, nơi một số nhà nước mới bắt đầu đấu tranh độc lập.

Vào đầu chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đế quốc Ottoman liên minh với Liên minh Trung tâm với hy vọng mở rộng tầm ảnh hưởng về ngoại giao lẫn sức mạnh quốc phòng nhưng chính điều đó đã trở thành một trong những sai lầm lớn nhất, là một trong những nguyên nhân sụp đổ của đế quốc này.

Sự can thiệp của Hoa Kỳ và sự chiếm đóng các phần lãnh thổ của các lực lượng Khối Hiệp ước đã dẫn đến sự phân chia đế quốc Ottoman giữa đế quốc Anh và đế quốc Pháp. Sau đó, các cuộc nổi dậy giành độc lập do Mustafa Kemal Atatürk lãnh đạo chống lại quân Hiệp ước đang chiếm đóng lãnh thổ thành công đã dẫn đến sự thành lập của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ ở vùng Anatolian và chế độ quân chủ Ottoman bị bãi bỏ vào năm 1923.

Xem thêm:

Video liên quan

Chủ đề