Lưu trữ tế bào máu cuống rốn bao nhiêu tiên

Hỏi: Cách thức, chi phí lưu trữ tế bào gốc của máu cuốn rốn tại Việt Nam như thế nào?

Trả lời:

Những trường hợp nên lưu trữ tế bào máu cuống rốn

  • Bạn đã từng mắc bệnh hoặc kiểm tra dương tính các loại virus viêm gan B, C, HIV, HTLV1.
  • Bạn bị bất kỳ bệnh ung thư nào, hoặc các bệnh về máu như suy tủy,…
  • Bạn bị các rối loạn về máu hoặc rối loạn hệ thống miễn dịch do di truyền hay do lây nhiễm.
  • Bạn bị các bệnh lây lan qua đường tình dục trong đó có giang mai.
  • Bạn bị  bất kỳ biến chứng hay bị mắc bệnh trong thời gian mang thai cũng như sinh nở.
  • Bạn có thai ở độ tuổi dưới 18.

Nơi lưu trữ Tế bào gốc máu cuống rốn

Tại BV Truyền máu – Huyết học TP.HCM, để thực hiện lưu trữ TBG máu cuống rốn, trước khi sinh con độ 2 tháng, các cặp vợ chồng liên hệ với BV để được tư vấn, làm hợp đồng lưu trữ, xét nghiệm… Đến ngày sinh, báo cho người của BV đến nơi sản phụ sinh để lấy mẫu máu cuống rốn đem về lưu trữ. Chi phí cho việc điều chế mẫu máu cuống rốn khoảng 17 triệu đồng; chi phí đến nơi sản phụ sinh lấy mẫu khoảng 2,5 triệu đồng (đó là hai khoản tiền cơ bản lúc đầu). Sau đó, trả phí cho mỗi năm lưu trữ khoảng 2,5 triệu đồng. Có thể chọn gói lưu trữ 1 năm, 5 năm, 10 năm, 18 năm. Còn tại Viện Huyết học – Truyền máu T.Ư, dịch vụ lưu trữ TBG có chi phí cho năm đầu tiên là 20 – 25 triệu đồng. Sau đó gia đình sẽ chi trả 2,5 triệu đồng/năm trong các năm tiếp theo.

Theo TS-BS Trần Ngọc Quế, Phó giám đốc Trung tâm TBG (Viện Huyết học – Truyền máu T.Ư), dây rốn sử dụng cho lấy TBG được lựa chọn kỹ càng theo các tiêu chuẩn: tuổi của sản phụ không quá 35, sức khỏe tốt; sinh đủ tháng, không bị sinh non; chuyển dạ không tai biến, không sốt; sơ sinh con của sản phụ không mắc bệnh di truyền, cân nặng khi sinh từ 2,8 kg. Bánh nhau không bị dập nát, không có yếu tố nhiễm trùng; thai không dị dạng. Lượng máu dây rốn ít nhất từ 70 ml trở lên. Sau khi kiểm tra toàn diện, nhân viên y tế sẽ lựa chọn các dây rốn phù hợp, tiếp tục qua các khâu xét nghiệm, xử lý, tách lấy TBG với điều kiện hết sức nghiêm ngặt. TBG được bảo quản ở môi trường nitơ lỏng -150 độ C.

Theo PGS-TS Nguyễn Anh Trí (Viện trưởng Viện Huyết học – Truyền máu T.Ư), với TBG máu cuống rốn của các sản phụ được lưu giữ dạng cộng đồng tại ngân hàng, Viện sẽ sử dụng TBG này ghép cho các bệnh nhân bị ung thư máu có chỉ định ghép và các chỉ số phù hợp. Đặc biệt, với người hiến TBG cho lưu trữ dạng cộng đồng, khi cần TBG điều trị bệnh cho bản thân hoặc người thân thì sẽ được tiếp nhận trở lại TBG của mình từ ngân hàng lưu trữ mà không phải trả một khoản phí nào.

Ngân hàng tế bào gốc thuộc bệnh viện Truyền Máu Huyết Học Tp Hồ chí Minh đã xử lý và lưu trữ hơn 2.500 đơn vị tế bào gốc máu cuống rốn, sẵn sàng cung cấp phục vụ ghép tế bào gốc nếu có yêu cầu.

Hệ thống lưu trữ tế bào gốc máu cuống rốn BioArchive, lưu trữ bằng Nitơ lỏng -196oC, hoàn toàn tự động, tiện nghi và hiện đại nhất trên thế giới. Tại Việt Nam, ngân hàng tế bào gốc được trang bị hệ thống này.

Sản phẩm TBG MCR được lưu trữ bởi hệ thống lưu trữ lạnh ni-tơ tự động tiên tiến nhất của Mỹ – Hệ thống Bioarchive của hãng Thermogenesis. Với hệ thống lưu trữ này, sản phẩm TBG MCR được quản lý lưu trữ bằng mã vạch, chương trình lưu trữ kiểm soát tốc độ hạ nhiệt tối ưu được điều khiển bằng phần mềm vi tính giúp cho chất lượng các TBG được duy trì khi lưu trữ trong môi trường ni tơ lỏng kéo dài.

Benh.vn

 – Với chi phí khá cao, thời gian lưu trữ dài, chuyện lưu trữ máu cuống rốn để dự phòng điều trị các bệnh hiểm nghèo hiện là lựa chọn của những gia đình có điều kiện kinh tế khá giả. Trong những năm gần đây, xu hướng này ngày một gia tăng.

Chi phí cao

Ông Trần Ngọc Quế, Phó Giám đốc Trung tâm tế bào gốc – Viện Huyết học truyền máu Trung ương – cho biết tại bệnh viện này, chi phí để lưu máu cuống rốn trong ngân hàng tế bào gốc là khoảng 25 triệu đồng/mẫu trong năm đầu tiên. Những năm sau đó, chi phí lưu trữ trung bình khoảng 2,2 triệu đồng/mẫu và việc lưu trữ sẽ kéo dài trong suốt 18 năm.

Việc lấy máu cuống rốn chỉ được giới hạn trong 10 phút đầu tiên kể từ lúc em bé chào đời (Ảnh minh họa: C.Q

Tuy nhiên, để có thể có một mẫu lưu trữ đảm bảo các quy định hiện hành thì người bệnh phải trải qua một quá trình kiểm tra, sàng lọc với rất nhiều các xét nghiệm, phân tích.

Tế bào gốc từ máu cuống rốn qua công nghệ xử lý sẽ tạo ra các tế bào máu, tế bào mỡ, tế bào cơ tim, tế bào thần kinh, tế bào tụy, tế bào gan, có khả năng chữa trị cho nhiều bệnh tật; đặc biệt là nhiều loại bệnh hiếm gặp, ác tính có thể được điều trị bằng tế bào gốc.

Việc lưu trữ máu cuống rốn không chỉ nhằm bảo đảm trong tương lai nếu bé (chủ nhân dây rốn) không may bị bệnh cần dùng tế bào gốc để chữa trị thì có thể có để chữa trị ngay; máu cuống rốn được lưu trữ sẵn này còn có thể dùng để chữa trị cho cả người thân của trẻ. Do đó, máu cuống rốn trở thành một loại thuốc quý cần lưu giữ để dự phòng về sau.

Theo ông Quế, quy trình lưu trữ máu cuống rốn trải qua rất nhiều công đoạn và khá phức tạp về mặt kỹ thuật.

Người nào có nhu cầu lưu trữ máu cuống rốn cho con phải đến đăng ký, kiểm tra 1 số bệnh (nếu người mẹ mắc một số bệnh như di truyền, nhiễm virus, … thì không thể lưu trữ). Bệnh viện cũng phải điều tra và làm 1 số xét nghiệm của người mẹ, nếu đủ điều kiện thì mới đăng ký và nộp chi phí ban đầu. Khi sản phụ chuẩn bị sinh sẽ có người hướng dẫn tận nơi. Khi tách em bé ra khỏi bánh rau thì có 2 phương pháp lấy máu cuống rốn. Phương pháp thứ nhất là khi bánh rau chưa xổ ra khỏi tử cung, máu được lấy luôn từ dây rốn. Phương pháp thứ 2 là sau xổ rau, cán bộ y tế sẽ treo bánh rau lên và lấy máu. Việc này chỉ được phép tiến hành trong vòng 10 phút đầu tiên kể từ khi xổ rau ra bởi nếu không máu sẽ bị đông, không còn tác dụng nữa.

“Lấy máu về rồi chúng tôi phải xử lý, làm các xét nghiệm xem có nhiễm trùng không, có mắc bệnh gì không, đặc biệt là những bệnh về nhiễm sắc tố. Nếu bị bệnh này sẽ phải hủy mẫu máu đó”, ông Quế cho biết.

Hiện nay, ngân hàng tế bào gốc tại Viện Huyết học truyền máu Trung ương đã được lập nhưng việc lưu trữ máu cuống rốn như trên vẫn chủ yếu ở dạng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của những gia đình có điều kiện kinh tế.

“Muốn ứng dụng được tế bào gốc từ máu dây rốn trong cộng đồng thì phải có chương trình quốc gia vì chi phí rất đắt. Việc thu thập hay lưu trữ, bảo quản chỉ là một phần thôi, phần xử lý ban đầu và xét nghiệm (HLA) rất tốn kém. Lấy máu về rồi phải phân lập ra tế bài gốc, khối lượng nitơ phải dùng lớn, giá thành cao. Hiện nay ngân hàng đang lưu trữ khoảng gần 50 mẫu ở dạng dịch vụ”, ông Quế cho hay.

Tế bào gốc: Ứng dụng rộng rãi

Theo ông Quế, các mẫu này sẽ được lưu trữ trong 18 năm. Hiện nay, việc điều trị các bệnh nan y bằng tế bào gốc đang có xu hướng phát triển mạnh và mang lại những hiệu quả khả quan.

Bệnh nhân chờ ghép tế bào gốc tại Viện huyết học truyền máu TW (Ảnh: Viện HH truyền máu TW)

Bác sỹ Võ Thị Thanh Bình, trưởng khoa Ghép Tế bào gốc Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương cho biết có hai phương pháp ghép tế bào gốc để điều trị các bệnh nguy hiểm. Đầu tiên là phương pháp ứng dụng tế bào gốc tự thân. Với phương pháp này, tế bào gốc được lấy từ chính bệnh nhân, sau khi truyền hóa chất cho bệnh nhân thì các bác sỹ sẽ dùng chính tế bào gốc đó để truyền lại cho người bệnh. Với những người đã truyền hóa chất liều cao để tiêu diệt tối ưu tế bào ung thư thì bệnh viện đang áp dụng cho một số bệnh nhân thuộc nhóm bệnh như ung thư tủy xương, ulympho. Phương pháp thứ hai là ghép đồng loại: Sử dụng tế bào gốc từ nhiều nguồn, có thể từ máu cuống rốn, tủy xương, có thể là từ anh chị em ruột cùng huyết thống hoặc từ những người không cùng huyết thống thì để ghép cho bệnh nhân. Tại Viện Huyết học truyền máu Trung ương, việc ghép tế bào gốc từ nguồn máu ngoại vi từ anh chị em ruột cùng huyết thống và truyền trả lại cho bệnh nhân, ứng dụng cho 1 số nhóm bệnh huyết học lành tính như suy tủy xương, 1 số bệnh trong nhóm ác tính như rối loạn sinh tủy, …

“Hiệu quả chữa bệnh đối với phương pháp ghép tự thân là 70%, phương pháp ghép đồng loại là 60-70%. Về mặt kỹ thuật thì ghép đồng loại cần tìm nguồn người cho phù hợp về gen, HLA. Xác suất phù hợp từ anh chị em ruột chỉ từ 25-30%”, bác sỹ Bình nói.

Theo bác sỹ Bình, tại Việt Nam chưa làm được kỹ thuật ghép tế bào gốc từ người cho không cùng huyết thống. Bệnh nhi có thể ghép tế bào gốc từ máu cuống rốn, còn ở nhóm người lớn thì máu cuống rốn không đủ để thực hiện.

Bệnh nhân có thể trở về cuộc sống bình thường Theo thống kê, từ năm 2006 Viện Huyết học truyền máu Trung ương bắt đầu ghép tế bào gốc tự thân, đến nay (5/2013) có 48 ca ghép tự thân và 25 ca ghép đồng loại từ 2008 đến nay. Ngoài 60-70% thành công, 30-40% còn lại có thể tử vong do liên quan đến biến chứng sau ghép, có thể ghép nhưng không đạt được. Tuy nhiên, có những nhóm bệnh nếu không ghép thì không có cách nào khác, như bệnh suy tủy xương chẳng hạn, bệnh nhân suốt ngày phải ra vào truyền máu truyền tiểu cầu, cuộc sống phụ thuộc vào bệnh viện.

“Nhưng nếu ghép thành công, đến 70% như tôi đã nói ở trên, thì coi như được trở về cuộc sống bình thường. Có bệnh nhân ghép như thế hơn 2 năm nay giờ họ có vợ có con rồi, hoàn toàn bình thường, ổn định, tất nhiên có tái khám”, bác sỹ Bình nói.

Cẩm Quyên

Video liên quan

Chủ đề