Hay nếu thực trạng nguyên nhân gây mất cân bằng giới tính khi sinh

Biên phòng - Nguyên nhân của việc mất cân bằng giới tính khi sinh bắt nguồn sâu xa từ việc các gia đình mong muốn sinh con trai. Bên cạnh đó, các quan niệm xã hội và tôn giáo đòi hỏi con trai phải gánh vác việc thờ cúng tổ tiên, giúp củng cố địa vị của cha mẹ trong xã hội. Vì vậy, giải quyết mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta gặp nhiều khó khăn. Việc cố lựa chọn giới tính khi sinh sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới cấu trúc dân số trong tương lai, dẫn tới dư thừa nam giới trong xã hội.

Hay nếu thực trạng nguyên nhân gây mất cân bằng giới tính khi sinh
Lựa chọn giới tính khi sinh sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới cấu trúc dân số trong tương lai, dẫn tới dư thừa nam giới trong xã hội.. Ảnh: Kim Nhượng

Một trong những chỉ số quan trọng được Tổng cục Thống kê tiến hành điều tra trong cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 là tỷ số giới tính khi sinh - SRB (Chỉ số SRB phản ánh cân bằng giới tính của số bé trai và bé gái khi được sinh ra. Tỷ số này thông thường là 104-106 bé trai/100 bé gái sinh ra sống). Bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào của SRB chệch khỏi mức sinh học bình thường đều phản ánh những can thiệp có chủ ý và sẽ làm ảnh hưởng đến sự mất cân bằng tự nhiên, đe dọa sự ổn định dân số của quốc gia. Những cảnh báo về hệ lụy của sự mất cân bằng giới tính khi sinh và sự quyết liệt thực hiện các chính sách nhằm xóa bỏ sự can thiệp có chủ đích trong lựa chọn giới tính khi mang thai ở Việt Nam trong thời gian qua chưa đem lại hiệu quả; tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh chưa được khắc phục.

Theo Tổng cục Thống kê, SRB của Việt Nam có xu hướng tăng hơn so với mức sinh học tự nhiên từ năm 2006 đến nay, đưa ra bằng chứng về mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam. Trong đó, SRB năm 2019 giảm so với năm 2018 nhưng vẫn ở mức cao (năm 2018: 114,8 bé trai/100 bé gái; năm 2019: 111,5 bé trai/100 bé gái). Kết quả điều tra cho thấy, SRB của khu vực thành thị thấp hơn nông thôn, tương ứng là 110,8 và 111,8 bé trai/100 bé gái. SRB giữa các vùng có sự chênh lệch đáng kể, SRB cao nhất ở Đồng bằng sông Hồng (115,5 bé trai/100 bé gái) và thấp nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long (106,9 bé trai/100 bé gái).

Sự khác biệt của SRB giữa khu vực thành thị và nông thôn thuộc Đồng bằng sông Hồng cũng cao nhất cả nước. SRB của Trung du và miền núi phía Bắc năm 2009 là 108,5 bé trai/100 bé gái, tăng lên 114,2 bé trai/100 bé gái năm 2019. SRB của Đồng bằng sông Hồng năm 2009 là 115,3 bé trai/100 bé gái, tăng nhẹ lên 115,5 bé trai/100 bé gái năm 2019. Qua 10 năm, mức tăng SRB của Trung du và miền núi phía Bắc nhiều hơn mức tăng SRB của Đồng bằng sông Hồng.

Vấn đề đầu tiên là những định kiến giới, tâm lý yêu thích con trai hơn con gái, nên rất nhiều gia đình chọn sinh con trai thay vì con gái. Vì vậy, nhiều trẻ em gái đã không được sinh ra. Theo Báo cáo Dân số thế giới năm 2020, mỗi một năm ở Việt Nam có khoảng 40.800 trẻ em gái không được sinh ra. Con số này được tính dựa trên sự khác biệt giữa con số ước tính trẻ em gái phải được sinh ra theo quy luật tự nhiên và số trẻ em gái thực tế được sinh ra trong một năm. Vấn đề nữa cũng ảnh hướng tới tới mất cân bằng giới tính khi sinh do kết hôn sớm.

Hiện nay, ở Việt Nam tỉ lệ kết hôn sớm lớn hơn 10%. Việc lựa chọn giới tính trước khi sinh phản ánh tình trạng bất bình đẳng giới sâu sắc. Các nghiên cứu của quốc tế và Việt Nam cũng đã chỉ ra các hệ lụy tới cấu trúc gia đình và các vấn đề xã hội trong tương lai của tình trạng mất cân bằng giới tính hiện nay, tình trạng thiếu hụt số trẻ em gái quan sát được gần đây ở nhiều quốc gia sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt phụ nữ ở tất cả các nhóm tuổi trong tương lai. Nguyên nhân trực tiếp nữa, là việc lạm dụng những tiến bộ khoa học công nghệ để thực hiện lựa chọn giới tính trước sinh, trong lúc thụ thai hoặc khi đã có thai để chẩn đoán giới tính

Theo Tổng cục Thống kê nhận định, cấu trúc dân số trong những thập kỷ tới sẽ mang dấu ấn của việc lựa chọn giới tính hiện tại, với quy mô dân số nam vượt trội trong một thời gian dài. Nam giới trẻ tuổi sẽ bị dư thừa so với nữ do tỷ lệ nữ giới đang giảm dần trong cùng một thế hệ và kết quả là họ có thể phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng khi tìm kiếm bạn đời. Trì hoãn hôn nhân trong nam giới hoặc gia tăng tỷ lệ sống độc thân là những khả năng có thể xảy ra trong tương lai do tình trạng thiếu phụ nữ trong độ tuổi kết hôn.

Điều này sẽ tác động ngược lại hệ thống gia đình trong tương lai. Có rất nhiều việc cần phải làm nhằm bảo vệ trẻ em gái khỏi những vấn đề do bất bình đẳng giới gây ra. Việc đầu tiên là trong lĩnh vực giáo dục, phải đưa những nội dung giáo dục về giới, bình đẳng giới và giới tính vào trong trường học. Điều này giúp các em có được những kiến thức và kỹ năng để tự phòng tránh và bảo vệ bản thân. Đồng thời, giúp trẻ em trai có những thái độ, hành vi bình đẳng, tôn trọng và không sử dụng bạo lực với bạn gái trong hiện tại và phụ nữ trong tương lai.

Trong lĩnh vực Y tế, phải đảm bảo có dịch vụ y tế nhạy cảm giới để có thể tiếp nhận và cung cấp dịch vụ hỗ trợ y tế với các nạn nhân bị xâm hại, quấy rối hoặc bạo lực tình dục. Điều này rất quan trọng vì nếu người cung cấp dịch vụ y tế không có kiến thức có thể làm cho nạn nhân bị bạo lực thêm lần thứ hai. Nạn nhân có thể bị phân biệt đối xử, trong nhiều trường hợp, nạn nhân tiếp tục im lặng, không tố cáo hành vi xâm hại, bạo lực.

Bên cạnh đó, các dịch vụ hỗ trợ, tư vấn cho trẻ em gái có nguy cơ hoặc bị xâm hại, bạo lực tình dục cũng rất quan trọng. Các trung tâm hỗ trợ một cửa cần phải được xây dựng và đưa vào vận hành hiệu quả để nạn nhân bị xâm hại, quấy rối có thể tiếp cận các dịch vụ đạt chuẩn quốc tế. Tương tự như vậy, các dịch vụ để bảo vệ và hỗ trợ trẻ em gái là nạn nhân của xâm hại, bạo lực tình dục, mua bán người như: Công an, tư pháp... cũng cần đảm bảo có tính nhạy cảm giới và cung cấp dịch vụ đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế.

Theo Tổng cục Thống kê cho biết, nghiên cứu và đưa ra những nhận định, đánh giá về thực trạng mức sinh tại Việt Nam, trong đó đặc biệt là trước thực trạng về SRB, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã rất quan tâm đến vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh. Do đó, tại Hội nghị lần thứ sáu, Khóa XII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới.

Nghị quyết nêu rõ “Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng” và đặt mục tiêu “đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên”, “Đến năm 2030, tỷ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống”. Chỉ đạo của Đảng về mục tiêu đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên đã được cụ thể hóa và tổ chức thực hiện thông qua Quyết định số 1679/QĐ-TTg ngày 22-11-2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030.

Kim Nhượng

Hiện nay, mất cân bằng giới tính khi sinh đang trở thành một trong những vấn đề “nóng” và nan giải đối với công tác DS-KHHGĐ ở nước ta, đã và đang thu hút sự quan tâm của cộng đồng. Do những quan niệm sai lầm, tâm lý chuộng con trai hơn vẫn thể hiện rõ trong đời sống xã hội Việt Nam.

I. TÌNH HÌNH MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH:

1. Việt Nam

Nếu như trong những năm 90, tỷ lệ nam/nữ trong dân số Việt Nam chênh lệch không lớn (96,7 nam so với 100 nữ) thì sang những năm 2000 và gần đây, tỷ số giới tính khi sinh khá cao, liên tục tăng và nghiêng về trẻ em trai: năm 2006, tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam là: 110 trẻ trai/100 trẻ nữ (110/100), cao ở mức thứ 4 trên thế giới, năm 2007 và 2008, tỷ số này đã là 112/100, năm 2009 là 110,5/100 và năm 2010 là 111,2/100.

Nếu như năm 2006, chỉ có 19 tỉnh/thành trong cả nước có tỷ số giới tính khi sinh từ 110/100 trở lên, thì năm 2007, con số này đã lên tới 35 tỉnh/thành.

2. Thành phố Hồ Chí Minh:

2007: 108/100,

2008 và 2009: 110/100

2010: 108/100

Năm 2011: 107/100

Từ đó cho thấy tỷ số giới tính khi sinh ở nước ta thuộc vào loại khá cao, trên mức bình thường (tỷ số giới tính khi sinh bình thường chấp nhận được là 103-107/100), rất đáng báo động và nguy cơ mất cân bằng giới tính đã hiện diện. Tác động của sự chênh lệch tỷ số giới tính khi sinh sẽ không dễ nhận thấy ngay, nhưng những năm tiếp theo sau sẽ gây ra tình trạng “nam thừa, nữ thiếu”, theo đó xuất hiện hàng loạt các vấn đề thách thức lớn như: khó tìm vợ, mất cân đối về nhân sự trong các ngành nghề xã hội, gia tăng các tệ nạn xã hội.

II. NGUYÊN NHÂN:

1. Trước hết là đặc điểm văn hóa với nhiều phong tục tập quán thấm đậm tư tưởng Nho giáo ở các nước châu Á trong đó có Việt Nam làm cho suy nghĩ: “trọng nam khinh nữ”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “con trai mới là con của mình, còn con gái là con người ta”, mong có con trai để “nối dõi tông đường”, để “đảm trách công việc thờ cúng tổ tiên ông bà”, vẫn còn tiềm ẩn trong nhận thức của một số gia đình mặc dầu những năm gần đây, cái nhìn về “con gái” trong xã hội đã cởi mở hơn.

2. Tại một số tỉnh miền núi và miền biển, vẫn còn nhiều gia đình mong sanh con trai để đảm đang những công việc nặng nhọc của gia đình mà con gái không làm được như đi biển, chài lưới, khuân vác …

3. Việc mong muốn có con trai lại nhận được sự trợ giúp đắc lực  bởi chính một số người làm công tác y tế, đặc biệt là những bác sĩ sản khoa với sự hỗ trợ của các phương tiện chẩn đoán y khoa hiện đại như siêu âm xuất hiện ở khắp các bệnh viện và phòng khám công lẫn tư đã tạo điều kiện dễ dàng, thuận lợi cho việc lựa chọn giới tính thai nhi của các bậc làm cha mẹ. Tù đó xuất hiện hành vi phá thai lựa chọn giới tính tại một số cơ sở y tế.

4. Các ấn phẩm văn hóa tuyên truyền hướng dẫn việc lựa chọn giới tính thai nhi cũng như các cơ sở tư vấn về sinh con trai hay con gái khá phổ biến, từ đó đã góp phần gia tăng tỷ số giới tính khi sinh.

III. HẬU QUẢ:

1. Tình trạng gia tăng dân số quá nhanh do nhu cầu phải đẻ cho được con trai dẫn tới sự chênh lệch lớn về phân bố dân cư giữa các vùng, khiến có nơi thiếu lao động, có nơi lại thừa lao động. Điều này dẫn đến sự di dân ngày càng nhiều về các tỉnh, thành phố lớn.

2. Nam giới khó lấy vợ, từ đó đưa đến mất cân bằng trong đời sống, người ta ước tính rằng với đà gia tăng chênh lệch giới tính nghiêng về phía nam giới như hiện nay, thì trong 20-30 năm nữa sẽ có từ 2 đến 3 triệu đàn ông Việt Nam không lấy được vợ.

3. Tình trạng “nam thừa nữ thiếu” sẽ khiến nam giới vì không lấy được vợ mới tìm cách đi “giải quyết sinh lý”, có cầu thì sẽ có cung và chính điều này sẽ làm gia tăng nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em gái cũng như hoạt động mại dâm.

4. Đàn ông không lấy được vợ sẽ bị ức chế về mặt tâm sinh lý, điều này có thể làm cho nam giới trở nên hung hăng hơn do dư thừa lượng nội tiết tố nam trong cơ thể, đưa đến những hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức, làm rối loạn trật tự, an toàn xã hội như: hiếp dâm, trộm cướp, sử dụng chất kích thích và chất gây nghiện.

5. Sự chênh lệch giới tính nghiêng về phía nam giới đã làm cho một số ngành nghề vốn là đặc thù của nữ giới sẽ phải rơi vào tình trạng thiếu hụt lao động như: điều dưỡng, y tá, hộ lý, giữ trẻ, nuôi dạy trẻ, giúp việc nhà, thợ dệt …, trong khi nam giới chưa sẵn sàng để làm những công việc này.

6. Chất lượng dân số giảm do:

– Hậu quả của nạo phá thai để lựa chọn giới tính

– Tình trạng sử dụng chất kích thích, chất gây nghiện, nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS gia tăng

IV. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ HẠN CHẾ MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH:

1. Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục các tầng lớp nhân dân nhằm chấp hành nghiêm và thực hiện tốt các văn bản pháp luật của Đảng và Nhà nước như:

Điều 7 Pháp lệnh Dân số 2003 quy định nghiêm cấm lựa chọn giới tính  thai nhi dưới mọi hình thức;

Điều 10 Nghị định số 104/2003/NĐ-CP ngày 16/9/2003 của Chính phủ quy định nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi

Điều 9 Nghị định số 114/2006/NĐ-CP ngày 03/10/2006 quy định xử phạt hành chính hành vi lựa chọn giới tính thai nhi

 Luật Bình Đẳng giới ngày 29.11.2006:

Điều 40, điểm 7: Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế bao gồm:

Khoản b: Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác phá thai vì giới tính của thai nhi.

Nghị định 55/2009/NĐ-CP ngày 10/06/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới:

Điều 12: các hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới lĩnh vực y tế:

Điểm 3 khoản b: phạt 3-5 triệu đồng: xúi giục người khác phá thai vì giới tính thai nhi

Văn bản số 3121/BYT-BMTE ngày 21/5/2009 của Bộ Y tế về nghiêm cấm lạm dụng kỹ thuật cao để lựa chọn giới tính khi sinh.

 2. Đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục để nâng cao nhận thức, chuyển đổi hành vi nhằm hạn chế và đi đến loại trừ lựa chọn giới tính thai nhi. Đối tượng ưu tiên được tuyên truyền là phụ nữ và các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, đặc biệt đã có 02 con một bề và nhất là 02 con gái, nam giới, người cung cấp các dịch vụ lựa chọn giới tính.

3. Có chính sách ưu tiên dành cho nữ giới, khen thưởng xứng đáng các cặp vợ chồng chỉ có 1 con gái hoặc 2 con gái. Nêu cao vai trò và những thành đạt của nữ giới trong xã hội hiện nay, nhấn mạnh vai trò của nam giới trong việc chấp hành các chính sách dân số và thực hiện các biện pháp KHHGĐ.

4. Sử dụng những hình thức xử phạt thực sự có hiệu quả để răn đe mọi hành vi tuyên truyền, hướng dẫn lựa chọn và xác định giới tính thai nhi dưới mọi hình thức, đặc biệt là các ấn phẩm với nội dung hướng dẫn sinh con  trai hay con gái theo ý muốn, phương pháp siêu âm chẩn đoán giới tính thai nhi, phá thai lựa chọn giới tính.

5. Cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt của các cấp có thẩm quyền từ trung ương đến cơ sở, sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, đoàn thể, hội đoàn, các chuyên gia cùng với ngành DS-KHHGĐ để hạn chế tối đa chênh lệch giới tính khi sinh.

Tóm lại, muốn giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, hãy để cho quá trình sinh đẻ diễn ra một cách tự nhiên, tuyệt đối không có sự can thiệp về giới tính thai nhi của y học và khoa học./.

 

Các tin khác

  • Bệnh lây qua đường tình dục.